Ðức Chúa Trời Ban Luật Pháp

Ðức Chúa Trời Ban Luật Pháp

Kinh Thánh:      Xuất 20:1-17.
Câu gốc:        "Vì chẳng có một người nào bởi việc làm theo luật pháp mà sẽ được xưng công bình trước mặt Ngài, vì luật pháp cho người ta biết tội lỗi" Rô-ma 3:20.
Mục đích:      Cho chúng ta thấy rằng luật pháp của Ðức Chúa Trời là căn bản đạo đức. Tội nhân phải nhờ Chúa Giê-xu mới làm vui lòng Ðức Chúa Trời.

Kinh Thánh đọc hằng ngày

Chủ Nhật:
Ðời sống tôi mọi.
 Xuất 1:5-14
Thứ Hai:
Cuộc đời tôi mọi được giả phóng.
 Xuất 14:13-28
Thứ Ba:
Dân sự lựa chọn luật pháp.
 Xuất 19:3-8
Thứ Tư:
Luật pháp.
 Xuất 20:1-26
Thứ Năm:
Mục đích của luật pháp.
 Ga-la-ti 3:19-24
Thứ Sáu:
Ðấng Christ giữ luật pháp.
 Rô-ma 10:4-10
Thứ Bảy:
Bình an với Ðức Chúa Trời.
 Rô-ma 5:1-11

            Ðức Chúa Trời đã ban cho Áp-ra-ham và Sa-ra một con trai là Y-sác trong lúc già nua. Y-sác cưới Rê-bê-ca, sanh Ê-sau và Gia-cốp. Gia-cốp có 12 con trai và khi xứ Ca-na-an có đói kém, ông đem cả gia đình 70 người xuống Ê-díp-tô. Sau 400 năm tại Ê-díp-tô, dân Y-sơ-ra-ên là dòng dõi của Gia-cốp sanh sản thêm nhiều, kể cả nam phụ lảo ấu vào khoảng hơn một triệu người. Bấy giờ, Pha-ra-ôn là hoàng đế Ê-díp-tô không còn tử tế với dòng dõi Gia-cốp như lúc mới xuống đó, mà ngược đãi, hành hạ như những tên nô lệ với ý đồ tiêu diệt họ.
            Ðức Chúa Trời đã can thiệp, buộc Pha-ra-ôn phải phóng thích Dân Y-sơ-ra-ên. Ðược phóng thích, dân Y-sơ-ra-ên qua Biển Ðỏ, vào đồng vắng đến núi Si-nai. Tại đây, Ðức Chúa Trời ban luật pháp cho họ.

I. Mục đích Ðức Chúa Trời ban luật pháp.
            Bất cứ một dân tộc nào cũng cần có luật pháp để bảo vệ an ninh trật tự, làm căn bản cho quyền lợi và nếp sống đạo đức của con người. Vì vậy, Ðức Chúa Trời đã kêu gọi Môi-se lên núi Si-nai và Ngài ban luật pháp để ông truyền lại dân Y-sơ-ra-ên. Luật pháp được chép trong Ngũ kinh của Môi-se, nhưng cũng bao hàm các các sách Thi thiên và Tiên tri (Giăng 12:34; ICô 14:21; Giăng 10:34; 15:25; Lu-ca 24:44). Luật pháp có hai phần: Luật đạo đức và luật lễ nghi, cũng gọi là luật thờ phượng. Luật đạo đức như 10 điều răn thì không thay đổi mà vẫn còn giá trị cho đến ngày nay, còn luật lễ nghi như đền tạm tại đồng vắng, đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, các con sinh, thầy tế lễ chỉ có ý nghĩa tượng trưng nên đều bị thay đổi.
            Luật pháp của Chúa là trọn vẹn (Thi 19:7), song con người bất toàn nên không ai giữ trọn, mặc dầu là khi mới nhận luật pháp, dân Y-sơ-ra-ên rất hồ hởi, phấn khởi (Xuất 19:7-8). Vì vậy, luật pháp ban ra không phải để cứu người, song để cho người biết mình có tội. Luật pháp như chiếc gương soi để ai nấy biết mặt mình bẩn, song nó không thể làm cho mặt mình sạch được! Muốn sạch, chúng ta phải nhờ nước. Ân điển như nước, vì vậy, sau phần luật đạo đức, có phần luật lễ nghi, luật đó chỉ cho con người cách nào để được tha thứ tội lỗi, hầu có đủ tư cách mà đến gần Ðức Chúa Trời. Tất cả luật lễ nghi được ứng nghiệm trọn vẹn trong Chúa Giê-xu: Ngài là đền thờ, là con sinh, là thầy tế lễ, là mọi sự (Cô-lô-se 2:16, 17; Hê-bơ-rơ 8:5). Sự chết và sự sống lại của Ngài để đền tội chúng ta là ân điển của Ðức Chúa Trời, nhờ đó chúng ta được tha thứ (Giăng 1:17).

II. Hai phần quan trọng của luật đạo đức (Xuất 20:1-17).
            Chúa Giê xu đã tóm tắt hai phần nầy là: Yêu Chúa và yêu người (Ma-thi-ơ 22:37-40), đối với Chúa và đối với người.

            1. Ðối với Chúa (Xuất 20:1-11).
            a. Trước mặt ta ngươi chớ có các thần khác (câu 1-3)
            Chúa nhắc cho họ nhớ rằng Ngài là Ðấng đã giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ tại Ê-díp-tô bằng 10 tai vạ đã giáng lên Pha-ra-ôn. Ngài đã rẽ Biển Ðỏ cho họ đi qua, dẫn dắt họ bằng trụ mây và trụ lửa, nuôi họ bằng ma-na và nước trong hòn đá. Vì vậy, họ không có phép thờ bất cứ thần nào khác ngoài Ngài. Về sau mỗi lần sa ngã, dân Y-sơ-ra-ên thờ các thần khác thì bị Chúa sửa trị bằng nhiều tai vạ như đói kém, dịch lệ, gươm đao. Lần nặng hơn hết là Ngài đã lưu đày họ 70 năm tại Ba-by-lôn. Sau khi từ Ba-by-lôn trở về, họ không còn thờ thần nào khác nữa.
            Chúng ta đã làm nô lệ cho ma quỉ trong nước tối tăm, mà đã được giải phóng bằng sự chết đền tội và sự sống lại của Chúa Giê-xu nên chúng ta không được phép thờ một thần nào khác ngoài Chúa. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ mà thờ thần Ma-môn / tiền tài, vật chất (Ma-thi-ơ 6:24) và nhiều thần khác (Cô-lô-se 3:5; Ê-phê-sô 5:5). Nếu chúng ta yêu bất cứ một người nào, một điều gì hơn Chúa thì những điều đó đã trở thành những thần của chúng ta rồi (Ma-thi-ơ 10:37) (IGiăng 2:15-17). Chúa Giê-xu phán "Ngươi phải thờ phượng Chúa là Ðức Chúa Trời ngươi và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi" (Phục truyền luật lệ ký 6:13; Ma-thi-ơ 4:10).
            b. Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình (câu 4-6):
            Ðiều răn thứ nhất là thờ một mình Ðức Chúa Trời, điều răn thứ hai là cách thờ Ngài: đừng vẽ một hình nào, đừng đúc một tượng nào gọi là hình tượng Ðức Chúa Trời để thờ. Làm như vậy là không tôn vinh Ngài mà sỉ nhục Ngài vì xem Ngài như vật vô tri, làm như vậy là không yêu Ngài, mà là ghét Ngài. Kết quả của việc đó, Chúa phạt từ tổ phụ đến con cháu trải ba bốn đời, song làm ơn ngàn đời cho kẻ yêu Ngài và giữ điều răn của Ngài.
            Kinh thánh chép "Vậy thì các ngươi có thể ví Ðức Chúa Trời với ai, lấy ảnh tượng nào mà so sánh với Ngài được? Vậy, bởi chúng ta là dòng dõi Ðức Chúa Trời thì chớ ngờ rằng Chúa giống như vàng bạc hay là đá, bởi công nghệ và tài xảo của người ta chạm trổ nên" (Ê-sai 40:18; Công 17:29). Kinh thánh lập lại nhiều lần, nhiều cách Ðức Chúa Trời nghiêm cấm và lên án sự thờ hình tượng (Xuất 23:24; Ê-sai 44:12-20; Thi 115:4-8; Ê-sai 2:20; Khải 21:8; 22:15). Lời khuyên tha thiết của Giăng là " Hỡi các con cái bé mọn, hãy giữ mình về hình tượng" (IGiăng 5:21). Phao-lô khuyên (ICô 10:14).
            c. Ngươi chớ lấy danh Chúa làm chơi (câu 7) :
            Thời Cựu Ước, dân Y-sơ-ra-ên chỉ được phép nhân Danh Chúa mà thề (Phục truyền luật lệ ký 6:13b) trong một việc quan trọng, không ai được thề dối. Trong Tân-ước, Chúa Giê-xu khuyên đừng thề chi cả, phải thì nói phải, không thì nói không (Ma-thi-ơ 5:33-37). Gia-cơ cũng lập lại lời ấy (Gia-cơ 5:12).
            d. Ngươi hãy nhớ ngày yên nghỉ đặng làm nên ngày thánh (8-11):
            Làm cho ngày đó trở nên ngày thánh là nghỉ tất cả mọi công việc xác thịt tại đồng vắng, chợ búa, xí nghiệp, công sở, mà làm công việc, thuộc linh tại nhà thờ. Họp lại ca hát, cầu nguyện nghe giảng, nói chung là sinh hoạt thuộc linh, để cho tâm hồn và thể xác được yên nghỉ, được bồi dưởng.
            Ðây không có nghĩa là buộc phải nghỉ ngày thứ bảy của tuần lễ, song cứ bảy ngày thì nghỉ một ngày. Mục sư, truyền đạo không nghỉ Chúa nhật, có thể nghỉ ngày thứ bảy hoặc thứ hai. Tín đồ nào, vì công tác không nghỉ Chúa nhật được, có thể nghỉ ngày nào khác thay vào. Ðiều quan trọng là nghỉ (Xuất 23:12). Chúa bảo dân Y-sơ-ra ên khi vào xứ Ca-na-an thì cứ 7 năm cho đất nghỉ một năm (Xuất 23:10, 11; Lê-vi ký 25:1-7; 20-22). Song họ không vâng lời, nên sau 490 năm, Ðức Chúa Trời cho dân ấy bị lưu đày 70 năm, hầu cho đất được nghỉ như lời Chúa đã phán (IISử 36:20-21). Hội thánh đầu tiên nghỉ ngày thứ nhất trong tuần lễ tức là Chúa nhật, vì Chúa Giê-xu đã sống lại trong ngày ấy (Ma-thi-ơ 28:1; Giăng 20:19, 26). Ðức Thánh Linh cũng giáng lâm vào ngày thứ nhất (Công 2:1-2). Dầu vậy không phải giữ ngày nghỉ để được cứu đâu (Ga-la-ti 4:10, 11; Cô-lô-se 2:16-17).

            2. Ðối với người (Xuất 20:12-17).
            a. Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi (câu 12):
            Phao lô đã gọi đây là điều răn thứ nhất (Ê -phê-sô 6:1-3), Chúa Giê-xu đã quở trách người Pha-ri-si bỏ điều răn nầy mà theo lời truyền khẩu (Ma-thi-ơ 15:1-9; Mác 7:8-13). Ngài còn nêu gương hiếu kính (Lu-ca 2:51; Giăng 19:26-27). Không ai sống đẹp lòng Chúa nếu không hiếu kính cha mẹ. Ai yêu mến Chúa cũng yêu mến cha mẹ.
            b. Ngươi chớ giết người (câu 13):
            Chúa Giê-xu kể kẻ giận hoặc mắng anh mình cũng đáng tội như kẻ giết người (IGiăng 3:15), không ai được tự sát như Giu-đa (Ma-thi-ơ 27:3-5).
            c. Ngươi chớ phạm tội tà dâm (câu 14):
            Chúa Giê-xu kể kẻ ngó đàn bà động tình tham muốn, thì trong lòng đã phạm tội tà dâm (Ma-thi-ơ 5:27-28), Phao-lô lên án tà dâm là một tội rất nặng, vì quan hệ đến thân thể là đền thờ của Chúa (ICô 6:15-18).
            d. Ngươi chớ trộm cắp (câu 15):
            Chẳng những không trộm cắp mà còn chịu khó để giúp kẻ thiếu thốn (Ê-phê-sô 4:28).
            e. Ngươi chớ làm chứng dối (câu 16):
            Ma quỉ là cha của sự nói dối (Giăng 8:44). Ai nói dối là tự nhận mình là con cái của ma quỉ và đồng số phận với nó trong hồ lửa (Khải 21:8). Hãy nói thật với kẻ lân cận (Ê-phê-sô 4:25).
            f- Ngươi chớ tham lam (câu 17):
            Tham lam của cải, tiền bạc, vợ của người là tội nặng như thờ hình tượng. A-can tham của cải (Giô-suê 7:10-26), Ghê-ha-xi tham vàng bạc (IICác 5:19-27), Ða-vit tham vợ người (IISa 11:2-5).
            Giao ước cũ, luật pháp chép trên bảng đá; giao ước mới luật pháp chép trên bảng thịt, trong lòng (Giê-rê-mi 31:31-33; Ê-xê-chi-ên 36:26, 27). Xin Thánh linh chép luật pháp Ngài trong chúng ta để nó trở thành sự sống, bản tính của chúng ta, hầu ai nấy vâng giữ làm theo.

Câu hỏi
1. Ðức Chúa Trời ban luật pháp cho dân Y-sơ-ra-ên tại đâu? Lúc nào? Qua ai?
2. Luật pháp có mấy phần? Là những phần nào?
3. Ðức Chúa Trời ban luật pháp với mục đích gì?
4. Tại sao chúng ta cũng như dân Y-sơ-ra-ên thờ một mình Chúa mà thôi?
5. Tại sao chúng ta không nên thờ Ðức Chúa Trời bằng hình tượng?
6. Giữ ngày yên nghỉ để làm gì?
7. Chúa Giê-xu dạy và làm gương thế nào về sự hiếu kính cha mẹ?
8. Tại sao tín đồ không nên nói dối?
9. Hãy kể ra hậu quả của sự tham lam và vài người trong Kinh thánh ?

10. Nhờ đâu chúng ta giữ được luật pháp của Chúa ?


Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.