Ðức Chúa Trời Ðối
Ðãi Với Tuyển Dân Của
Ngài
|
Kinh
Thánh: Giô-suê
3:9-17.
Câu
gốc: "Vậy nên, phải nhận biết
rằng Giê-hô-va Ðức Chúa Trời ngươi, tức Ðức Chúa Trời thành tín, giữ sự giao ước
và nhơn từ đến ngàn đời cho những người yêu mến Ngài và vâng giữ các điều răn
Ngài" Phục truyền luật lệ ký 7:9.
Mục
đích: Cho chúng ta thấy rằng
Ðức Chúa Trời thành tín luôn luôn giữ lời hứa của Ngài.
Kinh
Thánh đọc hằng ngày
Chủ
Nhật:
|
Lời
tiên tri trong kinh thánh.
|
IIPhi 1:15-21
|
Thứ
Hai:
|
Những kẻ nhạo bán lời
tiên tri.
|
IIPhi 3:1-14
|
Thứ
Ba:
|
Ðức
Chúa Trời hứa với Áp-ra-ham.
|
Sáng 12:1-3;
|
Thứ
Tư:
|
Dân
Do thái không vâng lời Chúa.
|
Lê-vi ký 26:27-34; Nê-hê-mi 9:26-29;
Ê-xê-chi-ên 36:19
|
Thứ
Năm:
|
Ðức
Chúa Trời luôn luôn thành tín.
|
Lê-vi ký
26:40-46
|
Thứ
Sáu:
|
Dân
Y-sơ-ra ên bị bắt làm phu tù.
|
IICác 17:5;
21-23
|
Thứ
Bảy:
|
Dân
Giu-đa bị bắt làm phu tù.
|
IICác
24:11-25:10
|
Ðức Chúa Trời đã chọn Áp-ra-ham và
dòng dõi ông là dân Y-sơ-ra-ên để từ đó Ðấng Cứu Thế ra đời làm nguồn phước cho
nhân loại. Chương trình của Chúa không những cứu dân Y-sơ-ra-ên mà còn cứu cả
nhân loại, lịch sử dân Y-sơ-ra-ên là lịch sử Ðấng Cứu Thế theo phần xác. Mọi
việc Chúa làm trải qua các thời đại đều hướng về thập-tự-giá là nơi con độc sanh
của Ngài phải dâng mình làm của lễ đền tội cho chúng ta (Hê-bơ-rơ
9:26 ).
I.
Dân Y-sơ-ra-ên vào đất hứa.
Ðức Chúa Trời thành tín đã rẽ sông
Giô-đanh, đưa dân Y-sơ-ra-ên vào tận Ca-na-an như Ngài đã hứa cùng tổ phụ họ
(Xuất 3:8, 17; 13:5; Giô-suê 24:11). Giô-suê phân chia sứ Ca-na-an cho 12 chi
phái theo tên 12 con trai của Gia-cốp. Hai lần ông lập lại câu nầy "Trong các
lời lành mà Ðức Giê-hô-va đã phán cho nhà Y-sơ-ra-ên chẳng có lời nào không
thành, thảy đều ứng nghiệm hết" (Giô-suê 21:45 ; 23:14 ), để xác nhận sự thành
tín của Chúa đối với họ. Câu gốc bài học hôm nay nhấn mạnh về sự thành tín đó.
Kinh thánh mô tả sự thành tín của Chúa là lớn lắm (Ca thương 3:23 ), đến tận các mây (Thi
36:5), tồn tại đời đời (Thi 100:5).
Không những đối với dân Y-sơ-ra-ên,
song đối với chúng ta, Ðức Chúa Trời cũng thành tín như vậy. Ngài tha thứ cho
chúng ta (IGiăng 1:9). Ngài không thể thất tín (IITim 2:13 ), mọi lời Ngài hứa đều
chắc chắn (ICô 1:9; IICô 1:18 ; Hê-bơ-rơ
10:23 ), nên chúng ta có thể an
tâm phó mình cho Ngài (IPhi 4:19 ).
II.
Dân Y-sơ-ra-ên phạm tội.
Vào xứ Ca-na-an đượm sữa và mật, dân
Y-sơ-ra-ên đã không giữ được lòng kính mến Chúa như lúc ban đầu. Sau khi Giô-suê
và những người đồng thời với ông qua đời, con cháu họ không nhìn biết Chúa, làm
ác trước mặt Ngài, thờ lạy hình tượng (Quan 2:10 -13). Ðức Chúa Trời nổi
thạnh nộ, phó họ vào tay kẻ thù nghịch của họ và họ bị khốn khổ lắm. Mỗi khi họ
ăn năn, Chúa dấy lên một quan xét giải phóng họ. Việc nầy cứ lập lại nhiều lần
như vậy cho đến đời Sa-mu-ên.
Dầu dân Y-sơ-ra-ên đã trải qua một
thời đại tối tăm, hỗn độn mà "ai nấy làm theo ý mình lấy làm phải" (Quan 17:6;
21:25 ), thì vẫn có người trung
thành với Chúa, nên được Ngài trọng dụng, nam có mà nữ cũng có như bà Ðê-bô-ra.
Trong vòng dân sự cũng không thiếu những người yêu mến Ngài, nam có mà nữ cũng
có như Na-ô-mi, An-ne. Ðiều đó giống như trong đền thờ Ðức Chúa Trời, lúc nào
đèn cũng cháy luôn chứ không hề tắt (Xuất 27:20, 21; Lê-vi ký 24:1-4). Hội thánh
đang trong thời kỳ tối tăm cuối cùng, thời kỳ bội đạo. Mỗi chúng ta là một ngọn
đèn, cũng như Giăng Báp-tít là một cây đuốc đang cháy (Ma-thi-ơ 5:14-16; Giăng
5:35). Giữa dòng dõi gian ác, bội nghịch nầy, chúng ta phải giữ lấy đạo sự sống,
chiếu sáng như đuốc trong thế gian (Phi-líp 2:15 ).
III.
Dân y-sơ-ra-ên bị lưu đài và tan lạc.
Ðến
đời Sa-mu-ên, dân Y-sơ-ra-ên xin ông lập lên trên họ một vua như các dân tộc
chung quanh đã có. Lời xin đó không đẹp lòng Chúa chút nào, song họ cố xin cho
kỳ được (ISa 8:4-9). Chúa vốn là vua của họ. Trong Xuất 19:4-6, Chúa đã dùng đến
8 lần chữ "ta" hoặc "của ta" mà nói với dân Y-sơ-ra-ên, tỏ ra Ngài đã cứu họ, và
họ thuộc về Ngài. Song đến đây, họ từ chối Ngài. Vua thứ nhất của họ là Sau-lơ,
kế đến Ða-vít và Sa-lô-môn. Khi còn thanh niên và trung niên, Sa-lô-môn rất tốt,
song khi trở về già, Sa-lô-môn rất xấu, mặc dầu ông rất giàu và khôn ngoan hơn
tất cả mọi người sau ông và trước ông. Sa-lô-môn thăng hà, nước ông bị chia ra
làm 2:Nam và Bắc. Miền Nam có 2 chi phái là Giu-đa và Bên-gia-min do Rô-bô-am,
con của Sa-lô-môn cai trị, lấy Giê-ru-sa-lem làm kinh đô, tên nước là Giu-đa.
Miền Bắc có 10 chi phái do Giê-rô-bô-am là một trong những bầy tôi của Sa-lô-môn
cai trị, lấy Sa-ma-ri làm kinh đô, tên nước là Y-sơ-ra-ên. Nước Y-sơ-ra-ên rộng
đất, đông dân hơn nước Giu-đa, song các vua Giu-đa yêu mến Chúa hơn các vua
Y-sơ-ra-ên (ICác 12:16 -24).
1. Nước Y-sơ-ra-ên ở miền Bắc bị
mất:
Dân Y-sơ-ra-ên lìa bỏ Ðức Chúa Trời
là Ðấng đã giải phóng tổ phụ họ khỏi Ê-díp-tô mà đem qua Ca-na-an. Họ bắt chước
các dân tộc xung quanh mà thờ các thần bằng đủ thứ hình tượng gớm ghê (ICác
16:32; 18:19; IICác 13:6). Mặc dầu Chúa đã dùng nhiều tiên tri như Ô-sê, A-mốt,
Ê-li, Ê-li-sê, vv... không ngớt khuyên lơn, cảnh cáo nhưng họ không ăn năn. Vì
vậy, Ðức Chúa Trời đã phó họ trong tay vua A-si-ri. Kinh đô Sa-ma-ri bị hạ, dân
Y-sơ-ra-ên bị giết, kẻ sống sót bị bắt làm phu tù. Người ta đem các dân khác đến
ở Sa-ma-ri thế chỗ cho dân Y-sơ-ra-ên. Việc này xảy ra nhằm năm 722 trước Chúa
giáng sinh (IICác 17:5-24). Về sau dân Do thái không thừa nhận dân tại Sa-ma-ri
là dân Do thái mà cứ kể họ là dân Sa-ma-ri. Ðến đời Chúa Giê-xu dân Do thái
không chịu giao thiệp với dân Sa-ma-ri, kể họ như là dân ngoại bang, mặc dầu
Sa-ma-ri nằm trong địa phận nước Do thái (Lu-ca 11:15-18; Giăng
4:9)
"Sự công bình làm cho nước cao
trọng, song tội lỗi là sự hổ thẹn cho các dân tộc" (Châm 14:34 ). Kết quả của tội lỗi là
hổ thẹn và cuối cùng là sự chết, còn được giải phóng khỏi tội lỗi thì kết quả là
sự thánh khiết và cuối cùng là sự sống đời đời (Rô-ma 6:21 -22).
2. Nước Giu-đa ở miền
Nam bị mất:
Các vua rất tốt của Giu-đa là A-sa,
Giô-sa-phát, Ê-xê-chi-a, Giô-si-a, còn các vua rất xấu là A-cha, Ma-na-se, Có
một cơn phục hưng xảy ra trong đời vua Giô-si-a, khi ông nầy ra lịnh hủy diệt
tất cả mọi hình tượng và vật dụng trong cuộc thờ lạy các tà thần. Ðồng thời thầy
tế lễ Hinh-kia tìm được quyển luật pháp trong đền thờ Ðức Chúa Trời (II Sử ký
đoạn 34, 35).
Nước Giu đa bị quân đội Ba-by-lôn
đánh phá nhiều lần. Lần thứ nhất nhằm năm 605 TC. Nê-bu-cát-nết-sa bắt những
thành phần ưu tú của Giu-đa đem qua Ba-by-lôn (IICác 24:1; Ða-ni-ên 1:1). Ðến
năm 586 TC, nước Giu-đa bị hủy phá hoàn toàn, của cải bị cướp, người bị giết
hoặc bị bắt lưu đày để làm nô lệ (IICác 25:1-20; IISử
36:11-21).
Nước Giu-đa mất vì những lý do sau
đây:
1. Sau khi nước Y-sơ-ra-ên ở miền
Bắc bị thôn tính, nước Giu-đa ở miền Nam bị cô lập.
2. Thay vì hết lòng ăn năn nhờ cậy
Chúa, họ đã cầu cứu các lân bang. Do đó có những mối liên hệ về xã hội, chính
trị, kéo theo mối liên hệ về tín ngưỡng làm cho nước Giu-đa bị ảnh hưởng sự thờ
lạy hình tượng.
3. Dầu đã được các tiên tri nhiều
lần, nhiều cách kêu gọi họ cũng chẳng vâng lời.
Sau 70 năm bị lưu đày ở xứ người,
dân Giu-đa hoàn toàn tuyệt vọng xem mình như trũng xương khô, thì Ðức Chúa Trời
đã đem họ trở về tổ quốc như Ngài đã hứa (IISử 36:22-23; Giô-suê 25:9; 29:10).
Xô-rô-ba-bên và Nê-hê-mi đã hướng dẫn họ. Ngay từ đó, họ không còn thờ lạy tà
thần như trước. Song cũng ngay từ khi bị lưu đày, họ mất quyền tự chủ luôn luôn
ở dưới sự đô hộ của Ba-by-lôn, Mê-đô Ba-tư, Hy-lạp và La-mã cho đến đời Chúa
Giê-xu. Trong đời Chúa Giê-xu, lại một lần nữa, dân Giu-đa chối bỏ Ngài, nộp
Ngài để chịu đóng đinh trên thập tự giá, nên họ bị tan lạc khắp nơi trên thế
giới từ năm 70 cho đến 1947 họ mới được độc lập.
Qua cách đối đãi của Ðức Chúa Trời
đối với tuyển dân của Ngài chúng ta thấy Chúa vừa thương xót, vừa công bình,
nhất là Ngài thành tín mặc dầu họ thất tín. Lịch sử của dân Do thái được Ðức
Chúa Trời điều khiền để thực hiện chương trình cứu rỗi nhân
loại.
Câu
hỏi
1.
Ðức Chúa Trời lựa chọn Áp-ra-ham và dòng dõi của ông với mục đích
gì?
2.
Tại sao Chúa đem dân Y-sơ-ra-ên vào tận Ca-na-an?
3.
Khi vào Ca-na-an thì lòng dân Y-sơ-ra-ên thế nào?
4.
Mỗi khi dân Y-sơ-ra-ên ăn năn thì Chúa làm gì cho họ?
5.
Tại sao chúng ta biết Chúa không bao giờ bỏ hẳn dân Y-sơ-ra-ên?
6.
Sau khi Sa-lô-môn qua đời thì nước ông bị chia ra hai phần
nào?
7.
Tại sao nước Y-sơ-ra-ên ở miền Bắc bị mất luôn cho đến ngày
nay?
8.
Dầu dân Giu-đa bị lưu đày 70 năm thì còn được gì?
9.
Kể từ khi bị lưu đày đó, dân Giu-đa đã mất gì quí hơn hết?
10.
Kết quả của sự chối bỏ Chúa Giê-xu, dân Giu-đa còn bị hình phạt nào
nữa?