ĐỨC CHÚA TRỜI MUỐN
CHÚNG TA VÂNG PHỤC
Kinh
Thánh:
Sáng-thế Ký 12:1-3; Xuất 20:1-11; Hê-bơ-rơ 5:8,9
Câu
gốc:
“Ví thử các ngươi làm theo điều ta dạy thì các ngươi là bạn hữu ta” (Giăng
15:14)
Mục
đích:
Giúp tín hữu biết vâng phục Đức Chúa Trời là điều tối quan
trọng.
MỆNH LỆNH ĐỂ
VÂNG THEO: “Thà
phải vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn vâng lời người ta” (Công-vụ
5:29).
LỜI CẦU
NGUYỆN ĐỂ DÂNG LÊN:
“Chúng tôi sẽ vâng theo tiếng phán của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi”
(Giê-rê-mi 42:6).
Kinh
Thánh đọc hằng ngày
Chúa Nhật:
|
VÂNG PHỤC ĐỨC CHÚA TRỜI
|
(Xuất 20:1-11; Công-vụ 5:17-29)
|
Thứ Hai:
|
VÂNG PHỤC CHA MẸ
|
(Xuất 20:12; Ê-phê-sô 6:1-3; Cô-lô-se
3:20)
|
Thứ Ba:
|
NÔ-Ê VÂNG PHỤC ĐỨC CHÚA TRỜI
|
(Sáng-thế Ký 6:8, 22; 7:1, 5; 8:1, 15-19;
9:1)
|
Thứ Tư:
|
SA-MU-ÊN VÂNG PHỤC ĐỨC CHÚA TRỜI
|
(ISa-mu-ên 3:1-21)
|
Thứ Năm:
|
ÁP-RA-HAM VÂNG PHỤC ĐỨC CHÚA TRỜI
|
(Sáng-thế Ký 12:1-9; Hê-bơ-rơ
11:8)
|
Thứ Sáu:
|
PHAO-LÔ VÂNG PHỤC ĐỨC CHÚA TRỜI
|
(Công-vụ 26:1-23)
|
Thứ Bảy:
|
ĐẤNG CHRIST VÂNG PHỤC
|
(Rô-ma 5:19; Phi-líp 2:5-8; Hê-bơ-rơ
5:8-10)
|
Sự vâng phục là đức tính tốt nhất của con cái đối với cha mẹ, của học
trò đối với thầy giáo, của công dân đối với luật lệ nhà
nước.
Sự vâng phục mà Kinh Thánh dạy không giống như sự vâng phục của nô lệ
đối với chủ, tức là không phải vâng phục vì sợ hãi trước một uy quyền, thế lực
nào, nhưng vâng phục vì yêu thương. Jêsus Christ là Thầy, là Chúa chúng ta, Đấng
đã liều thân thể để cứu chúng ta. Vì biết ơn Ngài, vì kính mến Ngài, chúng ta
sẵn sàng vâng phục cho đến chết. Tình yêu phải là động cơ mạnh nhất thúc đẩy
chúng ta vâng phục Đức Chúa Trời.
I. VÂNG PHỤC ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐIỀU QUAN TRỌNG
Trời đất muôn vật, nói chung là thiên nhiên giới rất đẹp đẽ, vì tất cả
đều vâng phục Đức Chúa Trời. Ngài ban cho mỗi chiếc lá mỗi cành hoa một hình
dạng, một màu sắc khác nhau, song thảy đều đẹp đẽ. Chim bay trên trời, cá lội
dưới nước, thú đi trên đất, loài nào cũng đẹp đẽ trọn vẹn. Thân thể của con
người còn tuyệt vời hơn cả chiếc lá, cành hoa và mọi loài động vật. Song thật
tiếc, loài người đã lợi dụng sự tự do Chúa cho mà không vâng phục Ngài. Vì thế
trong tâm giới, Đức Chúa Trời không thể làm gì cho loài người. Đó là lý do loài
người đau khổ.
Trong bài cầu nguyện chung có câu: “Xin ý Cha được nên ở đất như trời”.
Trên trời ý Cha được nên lập tức và trọn vẹn. Dưới đất ý Cha chưa được nên như
vậy, vì sứ bất phục của loài người. Nếu chấp sự Phi-líp không vâng phục Đức Chúa
Trời mà đi ngay đến Ga-xa thì đã bỏ lỡ mất dịp tiện hướng dẫn hoạn quan
Ê-thi-ô-pi về cùng Chúa (Công-vụ 8:26, 27).
Dưới đất có nhiều kẻ không vâng phục Đức Chúa Trời lại còn xúi giục kẻ
khác không vâng phục Ngài nữa (Rô-ma 1:32). Nê-bu-cát-nết-sa, Đa-ri-út, Chính
quyền Do-thái và La-mã đã hành động như vậy. Nếu gặp trường hợp đó, chúng ta
phải đồng thanh với Phi-e-rơ và Giăng mà nói rằng: “Thà vâng lời Đức Chúa Trời,
còn hơn vâng lời người ta” (Công-vụ 5:29).
Dầu hậu quả ra sao, chúng ta cũng phải can đảm, để cho Đức Chúa Trời có
cơ hội thi hành quyền năng siêu việt của Ngài, hầu danh Ngài được vinh
hiển.
II. NHỮNG TẤM GƯƠNG VÂNG PHỤC
1.
Áp-ra-ham: (Sáng-thế Ký 12:1-3; Hê-bơ-rơ 11:8).
Chúa bảo ông ra khỏi quê hương, vòng bà con, nhà cha ông mà đến một xứ
xa, rồi Ngài sẽ ban phước lớn cho ông. Phước lớn thật song sự vâng phục cũng khó
thật. Nhưng Áp-ra-ham đã sẵn sàng ra đi, mặc dầu ông không biết mình đi đâu. Ông
không biết song Chúa biết, nên ông chỉ vâng phục Ngài còn Chúa dẫn dắt và lo
liệu mọi sự cho ông.
Không phải Áp-ra-ham chỉ vâng phục chừng đó. Về sau ông còn vâng phục
Chúa mà đuổi A-ga và Ích-ma-ên ra khỏi nhà (Sáng-thế Ký 21:8-14). Hơn nữa ông
vâng phục Chúa mà đem con trai một yêu dấu của mình là Y-sác lên núi Mô-ri-a
dâng làm của lễ thiêu cho Ngài (Sáng-thế Ký 22:1-19).
2.
Môi-se (Xuất 3:1-14; Hê-bơ-rơ 11:27).
Môi-se đã thực hiện một công tác rất vĩ đại là giải phóng hơn một triệu
người Y-sơ-ra-ên ra khỏi tay độc ác của hoàng đế nước Ê-díp-tô. Môi-se là một
người chăn chiên, trong tay chỉ có cây gậy, còn hoàng đề Ê-díp-tô trong tay có
cả lực lượng của một cường quốc. Môi-se chống Pha-ra-ôn như châu chấu chống với xe, như trứng chọi vào
đá. Thế mà binh mã Ê-díp-tô bị tiêu diệt, Môi-se hoàn toàn thắng, buộc Pha-ra-ôn
phải phóng thích dân Y-sơ-ra-ên. Thật ra, không phải Môi-se chống với Pha-ra-ôn
mà Pha-ra-ôn chống với Đức Chúa Trời. Pha-ra-ôn chống với Đức Chúa Trời như châu
chấu chống với xe, như trứng chọi vào đá. Môi-se thành công chỉ vì ông hoàn toàn
vâng phục Đức Chúa Trời.
Ngoài ra, Môi-se làm sao mà nuôi nổi hơn một triệu người Y-sơ-ra-ên
trong đồng vắng suốt 40 năm? Mọi sự đó có Chúa lo, ông chỉ vâng phục Ngài là đủ.
Chúa làm mưa mana từ trời cho họ ăn, khiến hòn đá tuôn ra nước cho họ uống, che
phủ họ ban ngày bằng một đám mây, soi sáng họ ban đêm bằng một trụ lửa. Ngài dẫn
dắt họ từng bước, cung cấp cho họ đầy đủ mọi nhu cầu. “Phải, Chúa nuôi dưỡng
chúng 40 năm trong đồng vắng, chúng chẳng thiếu thốn chi cả, quần áo chúng không
cũ rách, và chân chúng chẳng phù lên” (Nê-hê-mi 9:21).
3.
CÁC MÔN ĐỒ (Ma-thi-ơ 28:18-20)
Chúa bảo các môn đồ làm một việc mà sức người không ai làm nỗi. Họ là
những người quá tầm thường, suốt đời chưa hề ra khỏi xứ, bị kể là thành phần dốt
nát, vô học. Thế mà họ phải khiến muôn dân trở nên môn đồ của Chúa. Chúa bảo như
vậy không phải vô lý đâu, vì Ngài đã phán: “Và này Ta thường ở cùng ngươi luôn
cho đến tận thế”. Chúa cũng đã hứa với Môi-se câu đó (Xuất 3:12). Họ ngu dại
song Chúa khôn ngoan, họ yếu đuối song Chúa mạnh mẽ, họ vô quyền song Chúa toàn
quyền, họ không có gì cả song Chúa có đủ mọi sự. Họ chỉ cần vâng phục, bao nhiêu
việc khác Chúa sẽ làm và làm trổi hơn mọi điều họ cầu xin và suy tưởng. Lịch sử
chứng minh các môn đồ đã thành công.
Ngày nay, phạm vi trách nhiệm của chúng ta là truyền giảng Tin Lành cho
trên 70 triệu đồng bào Việt Nam. Chúng ta phải làm sao? Nếu chúng ta vâng phục
Đức Chúa Trời như Áp-ra-ham, Môi-se, như các sứ đồ, chắc chắn Chúa sẽ bày tỏ
quyền năng vô cùng của Ngài để thực hiện công tác truyền giảng, cứu vớt tội nhân
và Danh Chúa được vinh hiển.
Nguyện Chúa cho chúng ta thảy đều đồng một lòng, một miệng nói lên: “Lạy
Chúa, con xin vâng phục Ngài!”
III. KẾT QUẢ CỦA SỰ VÂNG PHỤC
1.
So sánh sự không vâng phục của A-đam với sự vâng phục của Chúa
Jêsus (Rô-ma 5:12, 19).
A-đam đã không vâng phục, chẳng những mang họa vào đời sống của ông mà
còn gây họa cho muôn vàn con cháu trải qua các đời. Chắc A-đam không ngờ, và cho
đến bây giờ, không ai có thể lường hết tai họa đó. Thế mà ngày nay cũng còn lắm
bậc ông bà, cha mẹ không cẩn thận về cách ăn ở của mình. Dầu đã tin Chúa, nhiều
người đang sống cuộc đời không vâng phục nên họ sẽ hối tiếc đời đời khi thấy con
cháu mình phải chịu họa lây.
Chúa Jêsus là A-đam cuối cùng đã vâng phục trọn vẹn, nên sự chết đền tội
và sự sống lại của Ngài làm cho Ngài trở thành đầu của nhân loại mới, tức là một
dòng dõi công bình. Ơn phước tràn ra từ sự vâng phục của Chúa Jêsus thật không
xiết kể, đem nhân loại mới trở lại thời A-đam trước khi phạm tội. Những gì A-đam
đã làm mất do sự bất phục của ông, chúng ta tìm lại được do sự vâng phục của
Chúa Jêsus. Vì vậy, Ngài đã “trở nên cội rễ của sự cứu rỗi đời đời cho những kẻ
vâng lời Ngài” (Hê-bơ-rơ 5:8, 9). Chúng ta không được kể là dòng dõi của Chúa
Jêsus nếu chúng ta không vâng phục.
2.
Có rất nhiều phần thưởng dành cho kẻ vâng phục.
Chúng ta biết nhiều lần Chúa buồn rầu vì sự không vâng phục của nhân
loại trong đời Nô-ê, của dân Y-sơ-ra-ên, của Sau-lơ và của Hội Thánh ngày nay
(Ê-phê-sô 4:30). Nếu yêu Chúa, chúng ta không nỡ nào làm cho Ngài buồn rầu, mà
phải làm cho Ngài vui (Lu-ca 15:7, 10, 23, 24, 32).
Các phước lành của Chúa đều dành cho kẻ vâng phục Ngài. Đó là một đời
sống hạnh phúc, một đời sống thành công, một đời sống phong phú, một đời sống
thánh khiết, một đời sống bất diệt trên trời.
TÔI
SỐNG ĐỂ VÂNG PHỤC CHÚA
CÂU
HỎI
1.
Đức
tính tốt nhất của một người là gì?
2.
Tại
sao muôn loài vạn vật được đẹp đẽ?
3.
Tại
sao loài người vẫn đau khổ?
4.
Hãy
thuật lại gương vâng phục của Áp-ra-ham?
5.
Hãy
thuật lại gương vâng phục của Môi-se?
6.
Hãy
thuật lại gương vâng phục của các môn đồ?
7.
Bí
quyết thành công của họ là gì?
8.
Tại
sao con cháu A-đam bị đau khổ?
9.
Tại
sao dòng dõi của Chúa Jêsus được phước?
10. Sau
khi học bài học này, chúng ta có quyết định gì?