Ðức Chúa Jêsus là Con người
Lu-ca đặc biệt nhấn mạnh vào nhân tánh của Ðức Chúa Jêsus. Cũng như tác giả các sách Tin Lành khác, ông hình dung Ðức Chúa Jêsus là Con Ðức Chúa Trời; nhưng trên hết, ông diễn tả lòng thương xót của Ngài đối với các người yếu đuối, đau đớn và bị xã hội duồng bỏ.
Người ta thường cho rằng dầu mỗi sách Tin Lành cứu cánh cốt đạt cho cả loài người, song Ma-thi-ơ trực tiếp đạt cho dân Do-thái, Mác cho dân La-mã, và Lu-ca cho dân Hi-lạp.
Nền văn minh của dân Do-thái đã được xây dựng trên Kinh Thánh của họ. Vậy nên Ma-thi-ơ viện dẫn Kinh Thánh ấy.
Nền văn minh La-mã khoe khoang ý niệm về chánh phủ và quyền lực. Vậy nên Mác khiến người ta chú ý đến các phép lạ của Ðức Chúa Jêsus để tỏ ra quyền lực siêu nhân của Ngài.
Nền văn minh Hi-lạp đại diện cho văn hóa, triết lý, khôn ngoan, lý trí, mỹ quan và giáo dục. Vậy nên, để kích thích tâm trí của người Hi-lạp vốn thiên về tư tưởng, văn hóa và triết lý, Lu-ca đã mô tả vẻ đẹp vinh hiển và sự trọn lành của đời sống Ðức Chúa Jêsus, là Người lý tưởng và quốc tế. Truyện ông mô tả thật là hoàn toàn, có thứ tự, cổ điển và được gọi là "sách đẹp đẽ nhứt từng trứ tác xưa nay."
Giăng thêm sách Tin Lành của ông vào 3 sách Tin Lành trên để tỏ ra Ðức Chúa Jêsus là Ðức Chúa Trời thành nhục thể, mang hình Người, không sao lầm lẫn được.
Ðoạn 1:1-4 -- Tiểu dẫn
"Nhiều sử" (câu 1) về Ðức Chúa Jêsus đã xuất hiện, có lẽ quyển thì không đầy đủ, quyển thì đầy đủ hơn, quyển thì đáng tin cậy, quyển thì khả nghi. Một cách cẩn thận và chuyên cần, Lu-ca xem xét hết các bản tường thuật chân chánh, và hỏi han mọi "người chứng kiến" mà ông có thể gặp, cùng những đồng bạn của Ðức Chúa Jêsus từ lúc đầu, để ông có thể chọn lọc những sự kiện thật đúng.
"Theo thứ tự" (câu 3), -- không buộc phải theo thứ tự niên đại, mặc dầu về toàn thể, chúng ta cho là có theo thứ tự niên đại.
"Thê-ô-phi-lơ" (câu 3) (1) là người mà Lu-ca gởi cho xem hoặc tặng sách Tin Lành của ông và sách Công vụ các sứ đồ (cũng do ông viết). Có thể rằng Thê-ô-phi-lơ đã chịu khoản chi phí sao làm nhiều bản để gởi tới nhiều chi hội. Ta không biết ông là ai. Chữ "quí nhơn" tỏ ra ông là một thượng quan La-mã. Có lẽ ông là một người mà Lu-ca đã dẫn về với Chúa tại thành Phi-líp hoặc thành An-ti-ốt.
"Tôi" (câu 3). Tác giả không tự xưng danh. Nhưng ông dùng đại danh từ "tôi" như vậy, thì tỏ ra rằng các người đầu tiên nhận sách biết tác giả là ai. Ngay từ lúc đầu và theo truyền thoại liên tục, thì tác giả chính là Lu-ca.
Lu-ca
Tên ông chỉ được ghi 3 lần trong Tân Ước: Ở Cô-lô-se 4:14 gọi ông là "thầy thuốc rất yêu dấu;" ở Phi-lê-môn 24 gọi ông là "bạn cùng làm việc với" Phao-lô; và ở II Ti-mô-thê 4:11 chép rằng ông ở với Phao-lô trong những ngày, giờ tối tăm gần tuận đạo. Trong cả 3 câu nầy đều có nói đến Mác, tỏ ra Mác và Lu-ca là bạn đồng sự. Lu-ca cũng xuất hiện trong những khúc sách Công vụ các sứ đồ có dùng đại danh từ "chúng ta" (16:10, 11, 16; 20:5, 6, 7, 13, 14, 15; 21:1 v.v...). Xem thêm tiểu dẫn sách Công vụ các sứ đồ.
Niên hiệu
Một cách chung, người ta giả định rằng Lu-ca viết sách Tin Lành khoảng năm 60 S.C., đang khi Phao-lô bị cầm tù tại thành Sê-sa-rê; sau do, ông viết sách Công vụ các sứ đồ đang khi Phao-lô bị cầm tù tại thành La-mã trong 2 năm kế tiếp; ấy vì hai sách nầy gởi cho một người, nhưng thật ra là hai quyển của một tác phẩm. Thời gian cư ngụ tại Sê-sa-rê đã hiến ông nhiều cơ hội tiếp xúc với các đồng bạn đầu tiên của Ðức Chúa Jêsus và các người đầu tiên sáng lập Hội Thánh, để được trực tiếp bảo cho ông biết đúng các chi tiết. Mẹ của Ðức Chúa Jêsus có lẽ còn sống, và ở nhà của Giăng tại Giê-ru-sa-lem. Lu-ca chắc đã ở bên bà hàng bao nhiêu giờ quí báu, nghe bà thuật lại các kỷ niệm về Con Trai kỳ diệu của bà. Gia-cơ, Giám mục ở Giê-ru-sa-lem, em ruột của Ðức Chúa Jêsus, cũng đã có thể thuật cho Lu-ca nghe nhiều điều bổ ích.
Khi Phao-lô viết thơ I Ti-mô-thê, khoảng năm 60 S.C., thì sách Tin Lành Ma-thi-ơ hoặc sách Tin Lành Lu-ca đã lưu hành trong các chi hội và được thừa nhận là "Kinh Thánh"' vì ở I Ti-mô-thê 5:18, Phao-lô trưng dẫn một câu mà ông gọi là Kinh Thánh, rằng: "Người làm công thì đang được tiền công mình." Ta không thấy câu nầy ở chỗ nào khác, trừ ra Ma-thi-ơ 10:10 và Lu-ca 10:7.
Vấn đề "đối quan" (synoptique)
Ma-thi-ơ, Mác, và Lu-ca được gọi là "các sách Tin Lành đối quan," vì cùng trình bày tổng quát đời sống của Ðấng Christ, và cùng ghi chép những biến cố giống nhau tới một mực nào. "Họ đã trứ tác, liên lạc với nhau và có thể liên lạc với một nguyên bổn chung," -- điều đó được gọi là "vấn đề đối quan." Người thì cho rằng sách Tin Lành Mác được chép trước nhứt. Ma-thi-ơ đã bổ túc sách Tin Lành của Mác, và Lu-ca dùng cả hai sách ấy. Người khác lại cho rằng Ma-thi-ơ chép trước nhứt, rồi Mác rút ngắn sách Tin Lành của Ma-thi-ơ. Không cần nghĩ rằng Ma-thi-ơ, Mác hoặc Lu-ca trưng dẫn sách của nhau, hoặc dùng lẫn sách của nhau bằng bất cứ cách nào. Các biến cố trong đời Ðức Chúa Jêsus và các lời phán của Ngài đã được các Sứ đồ và nhiều người lặp đi lặp lại bằng miệng trải qua bao nhiêu năm, và đã được truyền tụng giữa vòng tín đồ. Ðó là yếu tố sự giảng dạy hằng ngày của các Sứ đồ. Có lẽ ngay từ lúc đầu, nhiều điều ấy đã được chép ra, hoặc chép lẻ tẻ, hoặc chép dưới một hình thức đầy đủ hơn. Khi Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca chép sách Tin Lành, thì ba ông đã lựa chọn tài liệu thích hợp với mục đích của mình nơi kho kiến thức truyền miệng hoặc viết thành sách. Kho ấy là vật sở hữu chung của tín đồ Ðấng Christ và được lưu hành khắp trong vòng họ. Phần nhiều biến cố ghi trong kho kiến thức ấy, thì Ma-thi-ơ đã chứng kiến và các tín đồ đã thuật lại hàng ngàn lần cho vô số người nghe.
Ðoạn 1:5-80 -- Giăng Báp-tít sanh ra
Chỉ có Ma-thi-ơ và Lu-ca thuật lại sự giáng sanh và thời thơ ấu của Ðức Chúa Jêsus. Lu-ca thuật đầy đủ hơn Ma-thi-ơ, và hai ông kể lại những chi tiết khác nhau.
Ma-thi-ơ
|
Lu-ca
|
Gia hệ (1:1-17).
Lời báo cho Giô-sép (1:18-25).
Các bác sĩ tới thăm (2:1-12).
Trốn qua Ai-cập (2:13-15).
Con trẻ bị tàn sát (2:16-18).
Từ Ai-cập hồi hương (2:19-23).
|
Báo tin cho Xa-cha-ri (1:5-25).
Báo tin cho Ma-ri (1:26-38).
Ma-ri và Ê-li-sa-bét (1:39-56)
Giăng Báp-tít sanh ra (1:57-80).
Ðức Chúa Jêsus giáng sanh (2:1-7).
Các gã chăn chiên (2:8-20).
Dâng Chúa tại Ðền thờ (2:21-38).
Trở về Na-xa-rét (2:39).
|
Về sự sắp đặt các biến cố kết chung nhau nầy theo thứ tự niên đại, xin xem ở dưới Lu-ca 2:39.
Ðoạn 1:5-25 -- Báo tin cho Xa-cha-ri
BIẾN CỐ mà hết thảy lời tiên tri Cựu Ước đồng qui vào đó, tức là sự ngự đến của Ðấng Mê-si sắp xảy ra. Câu cuối cùng của Cựu Ước là Ê-li sẽ lại xuất hiện, làm tiền khu của Ngài (Ma-la-chi 4:5-6). Bấy giờ một thiên sứ hiện ra cùng thầy tế lễ tuổi cao đức trọng và báo tin cho ông biết rằng con ông sẽ sanh ra là vị tiền khu mà lời tiên tri kia chỉ tỏ (câu 17). Về sau, Ðức Chúa Jêsus giải thích khúc sách ấy như vậy (Ma-thi-ơ 11:14). Giăng Báp-tít là Ê-li được lựa chọn để đưa Vua Mê-si đến.
Toàn dân trông đợi Ðấng Mê-si
Các sứ giả Josèphe, Tacite và Suétone quả quyết rằng khắp Ðông phương, toàn dân mong chờ ngày Ðấng Mê-si ngự đến đã gần rồi. Ít ra sự mong chờ nầy cũng căn cứ một phần nào trên lời tiên tri của Ða-ni-ên về "70 tuần lễ" (Ða-ni-ên 9:24-27). Theo sự giải thích phổ thông, thì người ta hiểu rằng 70 tuần lễ nghĩa là 70 lần 7 năm, tức là 490 năm. Chiếu chỉ cho phép xây lại thành Giê-ru-sa-lem mà 70 tuần lễ phải bắt từ đó mà tính (Ða-ni-ên 9:25), đã được ban hành năm 475 T.C.. Như vậy, thời gian gần mãn. Lòng Xa-cha-ri chắc xúc cảm sâu xa biết bao khi ông nghe thiên sứ báo tin!
Ánh sáng rực rỡ của cõi siêu nhiên
Rõ ràng lắm, các tác giả định ý tỏ ra rằng đạo Ðấng Christ có một căn nguyên siêu nhiên. Ðạo Ngài được dự ngôn từ lâu, nên khi xuất hiện, không khỏi có bằng cớ thiên thượng rằng Biến cố của các Thời đại đã xảy đến! Ðấng Christ sanh ra bởi nữ đồng trinh. Kẻ tiền khu của Ngài cũng sanh ra bởi một bà son sẻ đã quá tuổi sanh con. Các thiên sứ báo tin ấy cho Xa-cha-ri, Ma-ri, Giô-sép, các gã chăn chiên, và đã cứu Hài nhi khỏi bị tàn sát. Các bác sĩ đã được ngôi sao dắt dẫn một cách siêu nhiên, từ các xứ xa xăm tới để thờ kính Ngài và để cung hiến Hài Nhi phương tiện trốn khỏi Hê-rốt. Con Ðức Chúa Trời, Con của Ða-vít, Vua đời đời sắp hiện ra. Nếu không có những dấu hiệu siêu nhiên, há chẳng phải là kỳ lạ sao?
Ðoạn 1:26-38 -- Báo tin cho Ma-ri
Người ta thường gọi sự trạng nầy là "Lễ Báo Tin." Ðấng Mê-si phải sanh ra trong gia tộc Ða-vít. Từ thời Ða-vít tới đây đã có một ngàn năm, và đã có hàng ngàn gia đình là dòng dõi Ða-vít. Khi Ðức Chúa Trời nhìn xem các gia đình ấy để chọn lấy một gia đình do đó Con Ngài sẽ ngự vào thế gian, thì Ngài đã bỏ qua các gia đình quyền thế ở chung quanh Giê-ru-sa-lem; và mắt Ngài đã dừng trên một người nữ thấp thỏi, ở một gia đình thấp thỏi, trong một làng không tiếng tăm trên dãy đồi xa xôi của xứ Ga-li-lê.
Chắc nàng là một người nữ đạo đức cao sâu biết bao, nên được Ðức Chúa Trời lựa chọn để truyền và nắn nhân tánh của Con Ngài! Lòng nàng chắc rung động biết bao khi thiên sứ báo tin rằng nàng sẽ được làm mẹ Vua thiên thượng của muôn đời!
Sự giáng sanh bởi nữ đồng trinh
Người ta tưởng rằng chính Ma-ri đã trực tiếp thuật truyện tích sự giáng sanh của Ðức Chúa Jêsus cho Lu-ca. Có lẽ Ma-thi-ơ được Giô-sép kể cho. Cả hai ông quả quyết rõ ràng, dứt khoát, không thể lầm lẫn và không mơ hồ rằng Ðức Chúa Jêsus do một nữ đồng trinh sanh ra.
Sự giáng sanh bởi nữ đồng trinh được coi như giáo lý của Hội Thánh ngay từ lúc đầu, một cách liên tục mãi, cho đến khi phái phê bình kim thời nổi lên. Tại sao ta không tin nhận giáo lý ấy y như Kinh Thánh đã nêu lên? Tại sao lại lấy làm khó tin và chống đối sự tin nhận như vậy? Nếu chúng ta tin Ðức Chúa Jêsus là Ðức Chúa Trời và tin Ngài đã sống lại từ trong kẻ chết, thì ta sẽ được gì bởi nghi ngờ sự Ngài giáng sanh do nữ đồng trinh? Sự sống lại của Chúa là phép lạ lớn lao nhứt. Nếu không tin Chúa sống lại, thì còn quan tâm đến Ngài làm chi? Mà nếu tin Chúa sống lại, thì sao còn chỉ trích những phần khác của truyện tích lạ lùng? Ngài ra khỏi thế gian một cách siêu nhiên, khiến ta giả định rằng Ngài cũng vào trong thế gian một cách siêu nhiên. Nếu Ngài không sanh ra bởi nữ đồng trinh, thì Ngài đã sanh ra cách nào? Ngài có thể sanh ra cách nào khác chăng? Chắc bất cứ tín đồ nào của Ðấng Christ cũng cho là không thích hợp nếu hùa theo sự vu cáo lâu đời của người Do-thái rằng Ðức Chúa Jêsus là một con đẻ hoang. Ta không thể tưởng có như vậy, và phải nói rằng đó là sự phạm thượng ghê tởm hơn hết. Hỡi Cứu Chúa Lạ lùng, mặt chúng tôi đỏ bừng xấu hổ, vì có những người gian ác và cứng lòng, dám nói về Ngài như vậy!
Ðoạn 1:39-56 -- Ma-ri đi thăm Ê-li-sa-bét
Ma-ri và Ê-li-sa-bét là "bà con" (1:36). Không nói tên quê hương của Ê-li-sa-bét là thành gì, chỉ nói rằng nó ở "trong miền núi,... về xứ Giu-đa" (câu 39). Vì bà thuộc chi phái Lê-vi (1:5), nên thành ấy có thể là Hếp-rôn, một thành của chi phái Lê-vi (Giô-suê 21:11). Bài ca cảm tạ của Ma-ri (câu 46-55), gọi là "Magnificat," giống như bài ca của An-ne lúc bà nầy sanh ra Sa-mu-ên (I Sa-mu-ên 2:1-10). Trong khi suy gẫm, chắc bà đã thốt ra tư tưởng nầy rất nhiều lần, cho đến khi nó thành thể thi ca tuyệt diệu, trong đó những tư tưởng nầy thể hiện như lễ chế (liturgie) riêng của bà vậy.
Ma-ri ở với Ê-li-sa-bét 3 tháng (câu 56,) vào khoảng nầy Giăng Báp-tít đã sanh ra (câu 36). Rồi Ma-ri trở về Na-xa-rét (xem ở Ma-thi-ơ 1:18-24).
Ðoạn 1:57-80 -- Giăng Báp-tít sanh ra
Sự đặt tên cho con và lời tiên tri của cha làm cho cả một vùng trông đợi. Xem thêm ở dưới Lu-ca 3:1-20.
Ðoạn 2:1-38 -- Ðức Chúa Jêsus giáng sanh
Những việc kể trong đoạn 1 và 2 đây, thì các sách Tin Lành khác đã hoàn toàn bỏ qua, trừ ra ở Ma-thi-ơ 1:25 đến 2:1 có chép rằng Ðức Chúa Jêsus giáng sanh tại Bết-lê-hem, và ở Ma-thi-ơ 2:2-23 có chép về Ngài trở về xứ Ga-li-lê.
Ðoạn 2:1-5 -- Việc kiểm tra dân số dưới thời cai trị của Qui-ri-ni-u
Ðây là cuộc kiểm tra dân số khắp cả đế quốc La-mã. Sử ký La-mã đặt cuộc kiểm tra dưới thời Qui-ri-ni-u vào năm 7 S.C., tức là 10 hoặc 12 năm sau khi Ðức Chúa Jêsus giáng sanh. Trong một thời gian, sự tương phản về lịch sử nầy đã làm cho các nhà nghiên cứu Kinh Thánh bối rối. Song những năm mới đây, người ta đã tìm được nhiều chỉ thảo thư (papyrus) thời xưa và nhiều bằng cớ khác, do đó biết rằng Qui-ri-ni-u đã làm thống đốc xứ Sy-ri HAI LẦN. Lu-ca nói rõ rằng đây là lần kiểm tra dân số "trước hết." Người ta cũng khám phá ra rằng nhân dân buộc phải trở về nguyên quán để chịu kiểm tra. Như vậy, cái xuổng của nhà khảo cổ học cứ tiến đi, và xác chứng rằng mỗi lời ghi trong Kinh Thánh là thật đúng với lịch sử, cho đến chi tiết nhỏ nhặt hơn hết cũng vậy.
Bết-lê-hem
Nơi Ðức Chúa Jêsus giáng sanh là một trung tâm của những phối hợp lịch sử. Ðây là thành của Ða-vít, nơi an táng Ra-chên, nơi Ru-tơ cư ngụ. Cách 15 dặm về phía Nam là Hếp-rôn, nơi ở của Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp. Cách 10 dặm về phía Tây bắc là Ga-ba-ôn, nơi mà Giô-suê đã được Ðức Chúa Trời làm cho mặt trời dừng lại. Cách 12 dặm về phía Tây là Sô-cô, nơi Ða-vít giết Gô-li-át, người Phi-li-tin khổng lồ. Cách 6 dặm về phía Bắc là Giê-ru-sa-lem, nơi Áp-ra-ham đã dâng phần mười cho Mên-chi-xê-đéc. Giê-ru-sa-lem là thủ đô hoa lệ của Ða-vít và Sa-lô-môn, là nơi đặt ngôi Ða-vít trải 400 năm, là nơi Ê-sai và Giê-rê-mi thi hành chức vụ, là trung tâm của Ðức Chúa Trời bao nhiêu đời cố gắng tỏ mình cho loài người.
Giáo đường Giáng sanh tại Bết-lê-hem là nhà thờ cổ nhứt của đạo Ðấng Christ; nguyên thủy nó được xây cất bởi Hélène, mẹ của Constantin, là Hoàng đế đầu tiên của đế quốc La-mã tin theo Ðấng Christ (330 S.C.). Ở dưới nhà thờ có một phòng giống như cái hầm, và người ta nói rằng đó chính là máng cỏ, nơi Ðức Chúa Jêsus giáng sanh. Có một truyền thoại rằng chính phòng nầy là một phần tòa nhà của các tổ tiên, là Ða-vít, Bô-ô và Ru-tơ. Xem thêm ở dưới RU-TƠ. Trong phòng nầy, Jérôme, nhà học giả La-tinh, đã ở 30 năm để phiên dịch Kinh Thánh ra tiếng La- tinh.
Thiên cơ kỳ diệu của Ðức Chúa Trời
Ðấng Mê-si phải thuộc trong gia tộc Ða-vít và phải giáng sanh tại Bết-lê-hem (Mi- chê 5:2-5). Nhưng người được lựa chọn làm cha mẹ Ngài lại ở Na-xa-rét, cách Bết-lê-hem 100 dặm. Một chiếu chỉ của Hoàng đế La-mã buộc họ phải đi Bết-lê-hem, chính lúc Hài Nhi gần giáng sanh. Như vậy, Ðức Chúa Trời đã dùng chiếu chỉ của một đế quốc ngoại đạo để làm ứng nghiệm các lời tiên tri của Ngài.
Ðoạn 2:6-7 -- Giáng sanh trong máng cỏ
Chữ dịch là "nhà quán" có thể có nghĩa là một nơi trọ công cộng, hoặc phòng dành cho khách liền với một nhà riêng. Người ta cho rằng đây là loại thứ hai, có lẽ là nhà của bà con họ theo dòng Ða-vít, và cũng là "nhà" mà về sau các bác sĩ đã tới (Ma-thi-ơ 2:11). Ðối với người đờn bà gần sanh con, thì hành trinh 100 dặm từ Na-xa-rét đến Bết-lê-hem, lúc đi bộ, lúc cỡi lừa, chắc mất nhiều thì giờ và rất khó nhọc. Vì phòng dành cho khách đã có những người tới trước ở chật ních, nên không còn chỗ cho Giô-sép và Ma-ri; ông bà phải tạm ở trong chuồng bò. Giờ phút thiêng liêng đã điểm, và Con Ðức Chúa Trời đã được máng cỏ làm cái nôi. Ðiều nầy chứng minh Ðức Chúa Trời "xót thương số phận nhọc nhằn của kẻ nghèo" và Ngài "khinh dể sự hoa lệ, huy hoàng của loài người!" Sau khi các gã chăn chiên tới thuật truyện của họ, chắc người ta đã mở phòng tốt nhứt trong nhà để tiếp đón Giô-sép và Ma-ri.
Ðoạn 2:8-20 -- Các gã chăn chiên
Theo truyền thoại,"Cánh đồng của những gã chăn chiên," là nơi các ban hợp ca thiên sứ hát "Ha-lê-lu-gia" chúc tụng ngày Tân Vương của trái đất giáng sanh, cách thành Bết-lê-hem 3 phần 4 dặm về phía Ðông. Xem lời bí chú ở dưới sách Ru-tơ.
Sanh nhật của Ðức Chúa Jêsus
Ngày nay ta kỷ niệm sanh nhật của Ðức Chúa Jêsus vào ngày 25 tháng 12 dương lịch. Không có gì trong Kinh Thánh xác chứng cho ngày đó. Ngày, tháng nầy được dùng làm sanh nhật của Ðức Chúa Jêsus lần đầu tiên nhằm thế kỷ thứ 4, ở Tây phương. Còn ở Ðông phương thì là ngày 6, tháng giêng dương lịch. Sự thực là các gã chăm chiên cùng bầy ở giữa cánh đồng từ mùa xuân đến mùa thu, chớ thường không phải mùa đông; vậy, ngụ ý rằng có lẽ không phải Ðức Chúa Jêsus đã sanh ra giữa mùa đông.
Gáp-ri-ên
Gáp-ri-ên là tên của một thiên sứ trưởng từ Thiên đàng sai xuống sắp đặt cho Con Ðức Chúa Trời ngự đến (Lu-ca 1:19, 26). Chúng tôi phỏng đoán rằng Gáp-ri-ên chính là thiên sứ đã cùng đạo thiên binh hiện ra với các gã chăn chiên (2:9, 13). Gáp-ri-ên cũng có lẽ là thiên sứ được sai đến cùng Giô-sép (Ma-thi-ơ 1:24) và chỉ huy cuộc trốn qua Ai-cập (Ma-thi-ơ 2:13, 19). Gáp-ri-ên đã truyền cho Ða-ni-ên lời tiên tri về 70 tuần lễ (Ða-ni-ên 9:21). Gáp-ri-ên chú ý đến sự cứu chuộc loài người biết bao! Khi tới Thiên đàng, chúng ta sẽ ưa thích làm quen với Gáp-ri-ên là dường nào!
Ðoạn 2:21-38 -- Ðức Chúa Jêsus chịu phép cắt bì và được dâng tại Ðền thờ
Giô-sép và Ma-ri dâng hai con bò câu, chớ không dâng một chiên con và một bò câu, thì tỏ ra ông bà nghèo (Lê vi ký 12:8).
Ðoạn 2:39 -- Trở về Na-xa-rét
Ðây, Lu-ca đi thẳng từ sự dâng Chúa tại Ðền thờ đến sự trở về Na-xa-rét, mà bỏ qua những biến cố chép ở Ma-thi-ơ 2:1-21, tức là sự thăm viếng của các bác sĩ, sự trốn xuống Ai-cập, sự tàn sát con trẻ, và sự từ Ai-cập trở về.
Niên biểu sự giáng sanh và thời thơ ấu của Ðức Chúa Jêsus
Mác và Giăng không nói chi hết về sự giáng sanh và thời thơ ấu của Ðức Chúa Jêsus. Ma-thi-ơ và Lu-ca chép các biến cố khác nhau (xem ở dưới Lu-ca 1:5-80). Không dễ dung hợp các biến cố nầy theo thứ tự niên đại thật đúng.
Dưới đây là những niên hiệu có thể gần đúng:
5 T.C.
|
Báo tin cho Xa-cha-ri
|
Lu-ca 1:5-25
|
6 tháng sau
|
Báo tin cho Ma-ri
|
Lu-ca 1:26-38
|
Ma-ri đến viếng Ê-li-sa-bét
|
Lu-ca 1:39-56
| |
3 tháng sau
|
Ma-ri trở về Na-xa-rét
|
Lu-ca 1:56
|
Báo tin cho Giô-sép
|
Ma-thi-ơ 1:18-24
| |
Giăng Báp-tít sanh ra
|
Lu-ca 1:57-80
| |
4 T.C.
|
Ðức Chúa Jêsus giáng sanh
|
Ma-thi-ơ 1:25
|
Lu-ca 2:1-7
| ||
Báo tin cho các gã chăn chiên
|
Lu-ca 2:8-20
| |
8 ngày sau
|
Ðức Chúa Jêsus chịu phép cắt bì
|
Lu-ca 2:21
|
32 ngày sau
|
Dâng Ðức Chúa Jêsus tại Ðền thờ
|
Lu-ca 2:22-38
|
3 T.C.
|
Các bác sĩ tới thăm
|
Ma-thi-ơ 2:1-12
|
Trốn qua Ai-cập
|
Ma-thi-ơ 2:13-15
| |
Con trẻ bị giết
|
Ma-thi-ơ 2:16-18
| |
2 T.C.
|
Trở về Na-xa-rét
|
Lu-ca 2:39
|
Ma-thi-ơ 2:19-23
|
Tại sao Ðấng Christ lại giáng sanh 4 năm T.C. ?
Khi Ðấng Christ giáng sanh, thì tại đế quốc La-mã, người ta tính thời gian từ lúc sáng lập kinh thành La-mã. Khi đạo Ðấng Christ trở thành đạo phổ thông trên toàn thể thế giới La-mã, thì theo lời yêu cầu của Hoàng đếJustinien, một tu sĩ, tên là Dionysius Exiguus, đã làm một niên lịch, nhằm năm 526 S.C., tính thời gian từ lúc Ðấng Christ giáng sanh, để thay thế niên lịch La-mã. Lâu lắm sau khi niên lịch Cơ đốc thay thế niên lịch La-mã, người ta mới khám phá ra rằng Dionysius đã sai lầm vì đặt sự giáng sanh của Ðấng Christ vào năm 753 A.U.C. (kể từ sáng lập kinh thành La-mã). Ðúng ra là năm 749, hoặc 1, 2 năm trước nữa. Vậy, chúng ta nói rằng Ðấng Christ giáng sanh năm 4 T.C., chỉ vì người làm niên lịch Cơ-đốc đã lầm mất 4 hoặc 5 năm trong khi phối hợp nó với niên lịch La-mã mà nó thay thế.
Ðoạn 2:40 -- Thời thơ ấu của Ðức Chúa Jêsus
mấy tháng đầu, hoặc 1 hay 2 năm đầu, Ngài đã là một Hài nhi tại Bết-lê-hem. Rồi Ngài ở 1 hoặc 2 năm tại Ai-cập. Việc xảy ra ở Ðền thờ tỏ ra rằng Ngài là một Cậu Con Trai sớm thông minh lạ lùng. Nhưng Kinh Thánh ít nói tới thời thơ ấu của Ngài. Các sách Tin Lành ngụy tạo đầy dẫy những thần thoại kỳ cục về các phép lạ mà họ cho là Ðức Chúa Jêsus đã làm khi còn thơ ấu. Những sách Tin Lành ngụy tạo nầy hoàn toàn không chân chánh. Kinh Thánh chép rằng phép lạ tại Ca-na là phép lạ đầu tiên của Ngài (Giăng 2:11). Theo như người ta thường hiểu biết (xem bí chú ở dưới Ma-thi-ơ 1:18-25), thì Ðức Chúa Jêsus là Con Trưởng của một gia đình nghèo có 7 con. Vậy, chúng tôi suy luận rằng Ngài sớm học biết trách nhiệm và từng trải cảnh thiếu thốn. Ta rất mong biết chút ít về cuộc sanh hoạt gia đình của Ngài, -- về Con Ðức Chúa Trời với tư cách một Thiếu niên đang lớn lên, đã xử sự thể nào trước những sự kích thích hằng ngày thường có trong một hoàn cảnh dường ấy!
Sự giáo dục Ðức Chúa Jêsus
Ðức Chúa Jêsus có một bà mẹ tin kính và dịu hiền; từ lúc Ngài còn thơ ấu, bà đã dạy cho Ngài những truyện tích và huấn giới của Cựu Ước. Còn có những trường học phụ thuộc vào các nhà hội, tại đó họ dạy cho con trẻ Kinh Thánh Cựu Ước và tác phẩm của các đạo sư Do-thái. Sau khi được 12 tuổi, chắc Chúa đã thường xuyên thăm viếng thành Giê-ru-sa-lem mỗi năm ít nhứt là 3 lần, nhằm những kỳ đại lễ. Chắc ngay từ lúc Ngài còn niên thiếu, sự huy hoàng gian ác, bại hoại hoa lệ và hoàn toàn không tin kính Ðức Chúa Trời của giai cấp cai trị nhơn Danh Ðức Chúa Trời, đã làm cho linh hồn Ngài cháy phừng và khiến Ngài đầy hăng hái thánh muốn chấm dứt tình trạng ấy. Cùng với sự giáo dục của loài người, chắc Ngài lần lần được sự tri thức vốn có trước khi thành nhục thể.
Ðoạn 2:41-50 -- Chúa viếng thành Giê-ru-sa-lem
Lúc 12 tuổi. Người ta cho rằng đây là lần đầu tiên Ngài lên thành Giê-ru-sa-lem. Ngài chú ý tới và hoàn toàn bị thu hút bởi lời giảng luận của các giáo sư, đến nỗi cha mẹ đã ra về 3 ngày mà Ngài không biết. Suốt một ngày, ông bà cũng chẳng biết Ngài không có mặt trong đoàn bộ hành; đến tối, vào nơi trọ, ông bà mới biết. Ðoàn người nầy chắc khá đông, đi một quãng dài trên đường. Cho đến lúc tối trời, ông bà vẫn chắc rằng Cậu Con tự tín đang ở một chỗ nào trong đoàn và Ngài có thể tuyệt đối tự lo liệu lấy. Ðức Chúa Jêsus thông thạo Cựu Ước (câu 47). Ðương thời ấy, Cựu Ước là Lời Ðức Chúa Trời được viết ra. Ðức Chúa Jêsus ưa thích Cựu Ước. Xem ở dưới Lu-ca 11:27-28. Lúc 12 tuổi, Ngài đã thông thạo Cựu Ước đến nỗi các nhà thần học trứ danh trong Ðền thờ phải ngạc nhiên. Ngài sống bởi Cựu Ước, và đã dùng nó để chống cự ma quỉ cám dỗ (Ma-thi-ơ 4:4, 7, 10). Ngài đã lên Thập tự giá để làm ứng nghiệm Cựu Ước (Ma-thi-ơ 26:54). Ngài cũng trưng dẫn Cựu Ước làm lời của Ngài thốt ra khi hấp hối (Ma-thi-ơ 27:46). Thêm vào các tác phẩm Cựu Ước lại có một bộ tác phẩm khác, gọi là Tân Ước, lấy đời sống của Ðức Chúa Jêsus làm trung tâm. Nếu Ðức Chúa Jêsus coi Kinh Thánh Cựu Ước là quí báu, thì chúng ta đáng phải coi quí toàn bộ Kinh Thánh gấp một ngàn lần. Tuy nhiên, sự xao lãng của tín đồ Ðấng Christ đối với Kinh Thánh lan rộng đến nỗi làm cho ta khủng khiếp!
"Lo việc Cha tôi" (câu 49). Lời nầy hơi làm cho mẹ Ngài bối rối. Có lẽ bà chưa nói cho Ngài biết Ngài đã sanh ra thể nào. Bà vừa mới nói Giô-sép là "cha" Ngài (câu 48). Trong câu trả lời, Ngài phán Ðức Chúa Trời là "Cha tôi," thì có lẽ ngụ ý cho bà hay rằng Ngài đã biết sự bí mật của bà rồi.
Ðoạn 2:51-52 -- 18 năm yên lặng
Chúng ta rất ưa biết đời sống của Ðức Chúa Jêsus từ lúc 12 tuổi tới lúc 30 tuổi, nhưng theo sự khôn ngoan của Ngài, Ðức Chúa Trời đã buông bức màn che thời gian ấy.
Tiếng nói của xứ Ga-li-lê
Tiếng Araméen là tiếng nói thông dụng của dân chúng. Ðó là tiếng mà Ðức Chúa Jêsus đã dùng. Ngài được dạy dỗ bằng tiếng Hê-bơ-rơ, là tiếng của Cựu Ước và của chính dân Ngài. Chắc Ngài cũng biết tiếng Hi-lạp, vì là tiếng nói của phần lớn nhân dân, và là tiếng phổ thông đương thời ấy. Ðức Chúa Jêsus thông thạo cả Cựu Ước bằng tiếng Hê-bơ-rơ và bản Séptante (Cựu Ước dịch ra tiếng Hi-lạp). Chính tiếng nói của Ngài là tuyệt mỹ.
Na-xa-rét
Na-xa-rét ở trong lòng chảo phía Nam một ngọn đồi cao hơn mặt biển chừng 380 thước tây. Leo lên ngọn đồi hết 10 phút, ta thấy một phong cảnh vô song của xứ Ga-li-lê. Phía Bắc có thắng cảnh gồm những ngọn đồi và thung lũng phì nhiêu, lấm chấm thành thị thịnh vượng, và đằng xa có đỉnh tuyết Hẹt-môn. Gần đó, cách 3 dặm, là quê hương của Giô-na. Phía Nam là đồng bằng Gít-rê-ên, chạy từ sông Giô-đanh tới Ðịa-trung-hải, là sân khấu chính của dân Y-sơ-ra-ên chiến đấu trải qua bao đời để sanh tồn. Cách Na-xa-rét 10 dặm về phía tây, ta thấy trọn núi Cạt-mên, là nơi trong cuộc giao tranh với Ba-anh, Ê-li đã kêu lửa từ trời xuống. Cũng chừng đó về phía Tây nam, có đèo Ha-ma-ghê-đôn, là chiến trường trứ danh của các nước; đèo nầy gợi cho Ðức Chúa Jêsus tên trận đánh lớn cuối cùng của các thời đại mà chính Ngài sẽ đưa kẻ thuộc về Ngài tới toàn thắng. Chỉ cách Na-xa-rét 8 dặm về phía nam có Su-nem, là nơi Ê-li-sê làm cho con trai người nữ Su-nem sống lại. Gần đó có suối Hê-rốt, là nơi Ghê-đê-ôn và 300 chiến sĩ của ông đã đánh bại quân Ma-đi-an. Và Gít-rê-ên, là nơi Giê-sa-bên khả ố đã gặp số phận vô phước. Và núi Ghinh-bô-a, là nơi vua Sau-lơ bị quân Phi-li-tin giết chết. Và Ên-đô-rơ, là nơi bà bóng đã gọi hồn Sa-mu-ên về. Và khe Ki-sôn, là nơi Ðê-bô-ra và Ba-rác khắc phục quân Ca-na-an. Ðứng trên đỉnh đồi Na-xa-rét, ta thấy trọn mọi chỗ đó. Thật là trung tâm của những sự phối hợp lịch sử kỳ lạ biết bao! Ta có thể tưởng tượng Ðức Chúa Jêsus thường leo lên ngọn đồi nầy và suy gẫm sâu xa về lịch sử đã được cấu tạo để đưa Ngài vào trong thế gian.
Ðoạn 3:1-20 -- Giăng Báp-tít
Cả 4 sách Tin Lành nói đến sự giảng dạy của Giăng Báp-tít (Ma-thi-ơ 3:1-12; Mác 1:1-8; Giăng 1:6-8, 19-28). Bản tường thuật của Lu-ca đầy đủ hơn hết.
Truyện tích thời thơ ấu và thời thanh niên của Giăng đã được ghi chép vẻn vẹn trong một câu (1:80). Ông tránh những nơi ở của loài người, và sống trong miền cô tịch, hoang vu, hiu quạnh ở phía Tây Biển Chết.
Từ thời thơ ấu, ông biết rằng Biến cố của các Thời đại gần xảy đến, và ông sanh ra để làm tiền khu báo cáo Biến cố ấy đã đến.
Giăng Báp-tít sanh ra trong thành của Áp-ra-ham, là người đã tạo thành dân tộc có sứ mạng sanh ra Ðấng Mê-si. Ðang khi được trưởng dưỡng, ông hằng ngày đối diện với núi Nê-bô, -- trên đỉnh núi đó, Môi-se đã đưa mắt ước vọng nhìn xem Ðất Thánh và đã nói về Ðấng Mê-si mà Ðức Chúa Trời hứa ban cho. Ông cũng nhìn xem sông Giô-đanh, tại nơi Giô-suê đã đi qua, và thành Giê-ri-cô mà chiến lũy sụp đổ trước tiếng kèn của Giô-suê. Ông sống trong cùng một miền mà A-mốt đã chăn bầy và đã được sự hiện thấy về Vua hầu đến thuộc dòng Ða-vít, sẽ trị vì muôn nước. Ông thường đi thăm khe Kê-rít, là nơi Ê-li đã được chim quạ nuôi sống. Ông suy gẫm sâu xa về lịch sử hiện đang lên tới tuyệt điểm, và ông chờ đợi tiếng Ðức Chúa Trời kêu gọi.
Ông biết mình là Ê-li của lời tiên tri (1:17; Ma-thi-ơ 11:14; 17:10-13; Ma-la-chi 4:5), chớ không phải là chính Ê-li bằng xương, thịt (Giăng 1:21), nên có lẽ ông đã cố ý bắt chước các thói quen và cách phục sức của Ê-li.
Ông nuôi mình bằng châu chấu và mật ong rừng (Ma-thi-ơ 3:4). Từ đời thượng cổ, người ta đã dùng châu chấu làm thực phẩm. Họ đem nướng, hoặc phơi nắng, rồi ăn như lúa rang. Họ nói rằng ăn châu chấu có mùi vị như tép vậy.
Khi Giăng được 30 tuổi, thì Ðức Chúa Trời kêu gọi ông. Nhân dân đang rên siết dưới ách tôi mọi tàn khốc của đế quốc La-mã, đã bị "điện giựt" khi nghe tiếng sang sảng của vị tu sĩ nơi đồng vắng, quái dị, cường tráng, gan dạ, kêu la trên bờ sông Giô-đanh rằng Ðấng Giải cứu dự ngôn từ lâu đời nay đã hiện đến.
Nơi ông rao giảng là hạ lưu sông Giô-đanh, đối ngang với Giê-ri-cô, trên một ngã tư chánh yếu của xứ, và trên một con đường chính đi tới cổng thành Giê-ru-sa-lem. Xem bản đồ ở dưới, Ma-thi-ơ 3:13-17.
Ðiệp khúc trong tiếng kêu la của ông là: "Hãy ăn năn!" Sự giảng dạy của ông được kết quả vô biên trong dân chúng. Cả xứ bị rúng động tới cội rễ, kể từ những bậc cầm quyền giống như "rắn lục" trở xuống. Nhiều đoàn dân đông đảo đến xin ông làm lễ báp-têm cho. Cả đến Hê-rốt cũng "bằng lòng nghe" ông giảng. Sử gia Josèphe nói rằng Giăng Báp-tít "có ảnh hưởng lớn trên dân chúng, và họ dường như sẵn lòng làm bất cứ điều chi ông khuyên bảo."
Ông đòi những kẻ tuyên bố ăn năn phải chịu lễ báp-têm, là nghi lễ mở đường cho lễ báp-têm tốt đẹp trong đạo Ðấng Christ.
Khi được dân chúng hoan nghinh tới cực độ, thì ông làm lễ báp-têm cho Ðức Chúa Jêsus, và tuyên bố Ngài là Ðấng Mê-si. Rồi sau khi làm trọn sứ mạng, ông lẹ làng rời khỏi sân khấu. Ông đã thức tỉnh quốc dân khỏi cảnh hôn mê, và đã giới thiệu Con Ðức Chúa Trời với họ. Như vậy, công việc ông đã xong.
Tuy nhiên, ông cứ giảng dạy và làm lễ báp-têm mấy tháng nữa; ông tiến về phía Bắc, tới Ê-nôn (Giăng 3:23). Xem bản đồ ở dưới, Ma-thi-ơ 3:13-17.
Chừng một năm sau khi làm lễ báp-têm cho Ðức Chúa Jêsus, thì ông bị Hê-rốt cầm tù, chẳng phải vì cớ ông giảng dạy, nhưng để thỏa mãn tánh thất thường của một mụ đờn bà gian ác (Ma-thi-ơ 14:1-5). Việc nầy xảy ra vào tháng 12 dương lịch, nhằm lúc Ðức Chúa Jêsus chấm dứt phần đầu của chức vụ Ngài tại xứ Giu-đê (Ma-thi-ơ 4:12; Giăng 3:22; 4:3, 35).
Không có chép ông bị cầm tù tại nơi nào. Nhưng người ta cho là hoặc tại Machaerus, ở phía Ðông Biển Chết, hoặc tại Ti-bê-ri-át, ở bờ phía Tây biển Ga-li-lê, -- cả hai nơi nầy Hê-rốt đều có cung điện. Ông bị chém đầu vào khoảng kỳ Lễ Vượt Qua thứ hai sau đó (Ma-thi-ơ 14:12-13; Giăng 6:4).
Chúng ta ngạc nhiên vì Giăng hồ nghi (Ma-thi-ơ 11:3). Một cách tin tưởng và tích cực, ông đã làm chứng rằng Ðức Chúa Jêsus là Chiên Con của Ðức Chúa Trời và là Con Ðức Chúa Trời (Giăng 1:29-34). Nhưng lúc nầy, đang khi suy gẫm ở phía sau các bức tường của khám tù, thì ông sanh ra bối rối. Ðức Chúa Jêsus không làm việc mà ông tưởng Ðấng Mê-si sẽ làm. Rõ ràng lắm, ông cùng quan niệm với nhân dân về một Nước chánh trị của Ðấng Mê-si. Ðức Chúa Trời không khải thị cho ông mọi điều liên quan đến tánh chất của Nước ấy. Cả đến 12 Sứ đồ cũng chậm học biết điều đó, và không hiểu chi hết cho tới khi Ðức Chúa Jêsus sống lại. Xem ở Ma-thi-ơ, đoạn 10.
Nếu giả dịnh rằng Giăng Báp-tít bắt đầu chức vụ ít lâu trước khi ông làm lễ báp-têm cho Ðức Chúa Jêsus, có lẽ là mùa hạ năm 26 S.C., thì chức vụ ông kéo dài chừng 1 năm rưỡi (hoặc không tới). 30 năm ẩn dật. 1 năm rưỡi (hoặc không tới) giảng dạy công khai. 1 năm 4 tháng ở trong khám tù. Rồi bức màn buông xuống. Ðó là lược sử của người đã mở đường cho Cứu Chúa của thế gian; và Ðức Chúa Jêsus đã phán về ông rằng: "Trong những người bởi đờn bà sanh ra, không có ai được tôn trọng hơn Giăng Báp-tít" (Ma-thi-ơ 11:11). Giăng không làm phép lạ chi hết (Giăng 10:41).
Ðoạn 3:21-22. Ðức Chúa Jêsus chịu lễ báp-têm.-- Xem ở Ma-thi-ơ 3:13-17.
Ðoạn 3:23-38. Gia hệ của Ðức Chúa Jêsus.-- Xem ở Ma-thi-ơ 1:1-17.
Ðoạn 4:1-13 -- 40 ngày cám dỗ
Xem lời chú giải ở Ma-thi-ơ 4:1-11. Trong cả ba bản tường thuật của Ma-thi-ơ, Mác, và Lu-ca, đều có quả quyết rằng chính Sa-tan đã cám dỗ Ðức Chúa Jêsus.
SA-TAN
Ðức Chúa Jêsus đã phán rất nhiều về quỉ Sa-tan.
Ngài gọi nó là "kẻ nghịch thù" (Ma-thi-ơ 13:39).
Là "quỉ dữ" (Ma-thi-ơ 13:38).
Là "vua chúa của thế gian nầy" (Giăng 13:31; 14:30).
Là "kẻ nói dối và là cha sự nói dối" (Giăng 8:44).
Là "kẻ giết người" (Giăng 8:44).
Ngài phán rằng Ngài thấy nó "từ trời sa xuống như chớp" (Lu-ca 10:18).
Rằng nó có một "nước" (Ma-thi-ơ 12:26).
Rằng người ác là "con cái của nó" (Ma-thi-ơ 13:38).
Rằng nó "gieo cỏ lùng" chung với "giống tốt" (Ma-thi-ơ 13:38, 39).
Rằng nó "cướp điều đã gieo trong lòng" người nghe đạo (Ma-thi-ơ 13:19, Mác 4:15; Lu-ca 8:12).
Rằng nó "đã cầm buộc" một người đờn bà suốt "18 năm" (Lu-ca 13:16).
Rằng nó "đòi sàng sảy" Phi-e-rơ (Lu-ca 22:31).
Rằng nó có " những quỉ sứ" (Ma-thi-ơ 25:41).
Rằng "lửa đời đời đã sắm sẵn cho" nó (Ma-thi-ơ 25:41).
Kinh Thánh hình dung Sa-tan nhiều cách:
Nó là "quỉ cám dỗ" (Ma-thi-ơ 4:3).
Nó là "chúa quỉ" (Ma-thi-ơ 12:24; Mác 3:22; Lu-ca 11:15).
Nó là nguồn gốc của sự bị quỉ ám (Ma-thi-ơ 12:22-29; Lu-ca 11:14-23).
Nó đặt sự phản bội vào lòng Giu-đa (Giăng 13:2, 27).
Nó dùng sai Kinh Thánh (Ma-thi-ơ 4:4; Lu-ca 4:10, 11).
Nó là "chúa đời nầy" (II Cô-rinh-tô 4:4).
Nó là "vua cầm quyền chốn không trung" (Ê-phê-sô 2:2).
Nó "mạo làm thiên sứ sáng láng" (II Cô-rinh-tô 11:14).
Nó là "kẻ thù nghịch của chúng ta" (I Phi-e-rơ 5:8).
Nó "dỗ dành cả thiên hạ" (Khải Huyền 12:9; 20:3, 8, 10).
Nó là "con rồng lớn," là "con rắn đời xưa" (Khải Huyền 12:9; 20:2).
Nó cám dỗ A-đam và Ê-va (Sáng-thế Ký 3:1-20).
Nó sẽ "lánh xa" nếu chúng ta "chống trả" nó (Gia-cơ 4:7).
Nó làm cho "giằm xóc vào thịt" Phao-lô (II Cô-rinh-tô 12:7).
Nó ngăn cản kế hoạch truyền giáo của Phao-lô (I Tê-sa-lô-ni-ca 2:18).
Nó xui cho A-na-nia nói dối (Công vụ các sứ đồ 5:3).
Nó cầm quyền trên các dân ngoại (Công vụ các sứ đồ 26:18).
Nó làm đui mù trí óc của những người không tin Chúa (II Cô-rinh-tô 4:4).
Các giáo sư giả "thuộc về hội quỉ Sa-tan" (Khải Huyền 2:8; 3:9).
Nó có thể làm những phép lạ giả mạo (II Tê-sa-lô-ni-ca 2:9).
Nó là tà linh hành động, làm cho người ta bội đạo (II Tê-sa-lô-ni-ca 2:9).
Nó là sư tử rống, tìm cách ăn nuốt tín đồ (I Phi-e-rơ 5:8).
Ta thắng nó bởi đức tin (I Phi-e-rơ 5:9).
Nó nhiều "mưu kế" (Ê-phê-sô 6:11).
Nó là "thần hiện đương hành động trong các con bạn nghịch" (Ê-phê-sô 2:2).
Nó xui giục Ða-vít phạm tội (I Sử ký 21:1).
Nó gây cho Gióp bị tai họa (Gióp 1:7-2:10).
Nó là kẻ thù của Giê-hô-sua (Xa-cha-ri 3:1-9).
Nó có thể thắng tín đồ (II Cô-rinh-tô 2:11).
Những người tội ác là con cái nó (I Giăng 3:8, 10).
Thật có ma quỉ chăng? Lời lẽ của Ðức Chúa Jêsus chắc chắn tỏ ra rằng Ngài tin có ma quỉ và ma quỉ có thân vị. Ðức Chúa Jêsus tự biết Ngài phán về điều chi. Ngài biết nhiều sự trạng của thế giới vô hình mà chúng ta không biết. Nếu Ðức Chúa Jêsus chỉ dung hợp với sự sai lầm phổ thông, thì lời phán của Ngài chẳng khải thị chân lý chi hết, và như vậy, ai còn phân biệt được chân lý thực sự mà Ngài muốn dạy dỗ với sự sai lầm mà Ngài phán tỏ dường như là chân lý?
Chức Vụ Ở XỨứ GA-LI-LÊ(4:14 đến 9:51)
Lu-ca không dành nhiều chỗ cho chức vụ của Chúa ở xứ Ga-li-lê y như Ma-thi-ơ và Mác đã dành. Hãy xem những lời bí chú ở dưới Ma-thi-ơ 4:12 và Mác 1:14.
Ðoạn 4:14-15 -- Ðức Chúa Jêsus bắt đầu chức vụ ở xứ Ga-li-lê
Cũng như Ma-thi-ơ và Mác, Lu-ca hoàn toàn bỏ qua các biến cố xảy ra trong năm giữa lúc Ðức Chúa Jêsus bị cám dỗ và lúc Ngài bắt đầu chức vụ ở xứ Ga-li-lê, theo như có chép ở Giăng 1:19 đến 4:54. Xem ở Mác 1:14-15.
Ðoạn 4:16-30 -- Chúa bị chối bỏ tại Na-xa-rét
Ðây dường như là lần đầu tiên Ngài trở về Na-xa-rét, kể từ khi Ngài chịu lễ báp-têm hơn một năm trước. Theo chỗ chúng ta biết, thì trong thời gian đó, Ngài ở đồng vắng, thành Ca-na, thành Ca-bê-na-um, và xứ Giu-đê (Giăng 2:1, 12; 4:46). Và Ngài đã làm một ít phép lạ. Ngài đã chữa lành con trai quan thị vệ (Giăng 4:46). Câu 23 ngụ ý rằng Ngài có thể đã làm nhiều phép lạ khác tại Ca-bê-na-um. Dầu sao, danh tiếng Ngài cũng đã lan tới chính quê hương Ngài. Khi Ngài phán dạy, thì họ ngạc nhiên trước cá tánh từ ái, hấp dẫn và hùng mạnh rõ rệt của Ngài. Họ hầu như không thể tin rằng đó là người đồng hương thấp thỏi của mình. Ngay trong thành nhỏ nầy, Ðức Chúa Jêsus cũng đã sống một đời quá phẳng lặng và xuất thân từ một gia đình quá thấp thỏi, đến nỗi những người nhóm trong nhà hội hầu như chẳng nhận biết Ngài (câu 22). Ngài nhắc tới Ê-li và Ê-li-sê cốt để tỏ ra rằng hai ông đã được sai đến cùng các dân ngoại, chớ không phải dân Y-sơ-ra-ên, -- đó là ngụ ý về chính sứ mạng của Ngài. Lời nhắc đó và việc Ngài làm nhiều phép lạ ở những thành khác, chớ không làm ở quê hương Ngài, đã khiến kẻ đồng hương tức giận và điên cuồng đến nỗi họ toan giết Ngài. Theo Ma-thi-ơ 13:54-58 và Mác 6:1-6, thì dường như mấy tháng sau, Ngài lại tới Na-xa-rét, và làm một ít phép lạ.
Ðoạn 4:31-37. Người bị quỉ ám được chữa lành.-- Xem ở Mác 1:21-28.
Ðoạn 4:38-39. Bà gia Phi-e-rơ.-- Xem ở Mác 1:29-31.
Ðoạn 4:40-41. Rất đông người được chữa lành.-- Xem ở Mác 1:32-34.
Ðoạn 4:42. Chúa đi tẻ cầu nguyện.-- Xem ở Mác 1:35-37.
Ðoạn 4:43-44. Chúa đi tới các miền chung quanh.-- Xem ở Mác 1:38-39.
Ðoạn 5:1-11. Chúa kêu Phi-e-rơ, Gia-cơ, và Giăng.-- Xem ở Mác 1:16-20.
Ðoạn 5:12-16. Người phung được sạch.-- Xem ở Mác 1:40-45.
Ðoạn 5:17-26. Người bại được chữa lành.-- Xem ở Mác 2:1-12.
Ðoạn 5:27-32. Chúa kêu gọi Lê-vi (Ma-thi-ơ).-- Xem ở Mác 2:13-17.
Ðoạn 5:33-39. Câu hỏi về sự kiêng ăn.-- Xem ở Mác 2:18-22.
Ðoạn 6:1-11. Ăn và chữa bịnh trong ngày Sa-bát.-- Xem ở Mác 2:23.
Ðoạn 6:12-19 -- Lựa chọn 12 Sứ đồ
Nói về phương diện loài người, thì đây là việc quan trọng hơn hết trong đời Ðức Chúa Jêsus, sau sự chết và sự sống lại của Ngài; vì Ngài giao kết quả của công nghiệp đời Ngài vào tay những người nầy. Lẽ tự nhiên, Ngài biết rằng từ Thiên đàng, bởi Thánh Linh Ngài, Ngài sẽ dắt dẫn, điều khiển và giúp đỡ họ. Tuy nhiên, vẫn phải xét tới các đặc điểm và tài năng thiên nhiên của họ. Vậy, trước khi lựa chọn chung kết, Ðức Chúa Jêsus đã thức suốt đêm cầu nguyện Ðức Chúa Trời.
Sau 2 năm huấn luyện (xem ở dưới Ma-thi-ơ, đoạn 10), Ngài sai họ đi "làm chứng về Ngài... cho đến cùng trái đất" (Công vụ các sứ đồ 1:8). Tân Ước chỉ nói một ít về công việc của họ, tức là việc họ đã làm ở xứ Pa-lét-tin, Tiểu-Á-tế-á, Hi-lạp và La- mã. Còn về công vụ cá nhân, thì ngoài việc của Phi-e-rơ, Giăng và Phao-lô, lại nói đến việc của những người khác rất ít.
Có lẽ 12 Sứ đồ đã thỏa thuận chia nhau đi các ngả. Hoặc mỗi ông được Chúa dắt dẫn đi tới nơi nào mình cho là tốt nhứt. Nhiều lúc họ đi từng đôi. Chắc hẳn người nầy thăm viếng công cuộc của người kia, và giúp phần lập vững các chi hội ở khắp mọi nơi.
Khoảng năm 62 S.C., Phao-lô nói ở thơ Cô-lô-se 1:23 rằng: "Ðạo Tin Lành... được giảng ra giữa mọi vật được dựng nên ở dưới trời." Như vậy, trong vòng 30 năm, truyện tích Ðấng Christ đã được truyền giảng khắp thế giới mà người ta biết thời đó.
Theo nhiều truyền thoại khác nhau và không chắc đúng, thì hầu hết 12 Sứ đồ đã tuận đạo để đóng ấn cho lời mình làm chứng về Ðấng Christ.
Vậy, trừ ra một tên phản bội trong nhóm, còn thì về toàn thể, việc Ðức Chúa Jêsus lựa chọn và huấn luyện 12 Sứ đồ thật là một thành công vĩ đại.
Ðoạn 6:20-49 -- Bài Giảng trên Núi
Khúc sách nầy được ai nấy kể là toát yếu của cùng một bài giảng đã chép ở Ma-thi-ơ, đoạn 5, 6, 7. Ma-thi-ơ đoạn 5:1 chép rằng: "Ðức Chúa Jêsus... lên núi kia," và "Ngài... ngồi." Còn Lu-ca 6:17 thì chép rằng "Ngài... xuống, dừng lại nơi đồng bằng," nghĩa là Ngài đã từ nơi cao hơn (núi) đi xuống. Ngài có thể đã làm cả hai điều đó, vì thấy sự giảng dạy cần nhiều thì giờ lắm.
Hai bản chép hơi khác nhau. Chúng ta không thể biết chắc là hai bản khác nhau tường thuật cùng một bài giảng, hoặc về thực thể, là cùng một bài giảng trong hai cơ hội khác nhau. Ðức Chúa Jêsus giảng dạy luôn luôn, nên có lẽ Ngài phán một vài lời nầy hàng trăm lần, dưới những hình thức khác nhau. Ðây có thể là một bộ gồm những lời tiêu biểu của Ngài, một bản tóm tắt các lời dạy dỗ chánh yếu của Ngài. Văn chương hoa mỹ cũng như sự dạy dỗ vô song của bài giảng nầy, thật không có văn phẩm nào trổi hơn được.
Ðoạn 6:20-26. Các phước lành.-- Xem ở Ma-thi-ơ 5:1-12.
Ðoạn 6:27-38 -- Luật Vàng
Ðây như là tóm tắt các tư tưởng ở Ma-thi-ơ, đoạn 5 và đoạn 7. Một vài lời dạy dỗ của Ðức Chúa Jêsus, tỉ như yêu thương kẻ lân cận như mình, yêu thương kẻ thù nghịch, và làm cho kẻ khác điều ta muốn họ làm cho mình, thật cao quá bổn tánh ích kỷ của loài người chúng ta, nên ta không thử sống đúng như vậy, và tự bào chữa mà nói rằng chắc Ðức Chúa Jêsus biết Ngài đặt trước mặt chúng ta những lý tưởng không thực tế và không sao làm theo được.
Tuy nhiên, chính Ðức Chúa Jêsus đã sống đúng như vậy, và Ngài dạy rõ rằng ta phải giữ lòng mình khỏi sự căm giận, bất cứ mình bị ngược đãi chừng nào; chẳng những vậy thôi, ta còn phải thực sự mưu an lạc cho người toan làm hại mình, và yêu thương kẻ ghét mình. Không làm được sao? Có chớ, ta làm được một phần nào bởi sự khắc kỷ nghiêm nhặt hơn hết và bởi sự cứu giúp từ ái của Ðức Chúa Trời.
Nếu thực hành được Luật Vàng nầy, dầu chỉ một mức nhỏ, thì ta cũng sung sướng, được ích lợi trong cuộc kinh doanh và trong mọi liên lạc ở đời. Ðây là điều thực tế hơn hết ở thế giới nầy: Trong khi phụng sự kẻ khác, thì ta tự phụng sự mình. Anh em hãy thử làm như vậy coi. Người ta thích giao thiệp với những ai tin và thực hành Luật Vàng nầy.
Luật Vàng chẳng phải là lý do đầy đủ để tự miễn trừ quân dịch. Ðức Chúa Jêsus phán với Cá Nhân, chớ không phán với chánh quyền. Chánh quyền do Ðức Chúa Trời chỉ định (Rô-ma 13:1-7; I Phi-e-rơ 2:13-17). Những phần tử phạm trọng tội thì phải dùng võ lực mà bài trừ chúng. Ðức Chúa Jêsus tuyên bố rõ ràng rằng Nước của Ngài có thể tồn tại ở trong Nước của Sê-sa (Ma-thi-ơ 22:21). Người dân ngoại đầu tiên được nhận vào Hội Thánh là một quân nhân La-mã (Công vụ các sứ đồ 10:1). Ông ấy không buộc phải từ bỏ quân dịch. Trong tấm lòng và đời sống của mình, một quan tòa, một nhân viên cảnh sát, hoặc một quân nhân, có thể thực hành các nguyên tắc của Luật Vàng với tư cách cá nhân; còn với tư cách một vị thừa hành luật pháp hoặc một viên chức của chánh phủ, thì họ phải theo đúng các qui tắc của công lý. Theo một vài phương diện và với một mực độ hạn chế, các chánh phủ cũng có thể thực hiện Luật Vàng. Nhưng nếu bỏ võ lực, thì có nghĩa là hỗn loạn, là cho bọn sát nhân, trộm cắp, hãm hiếp và mọi tên đại ác, xấu xa được tự do hành động. Chúng ta hãy có tư tưởng sáng suốt về điểm nầy. Dầu chúng ta chán ghét chiến tranh, nhưng tín đồ nào của Ðấng Christ lấy Luật Vàng làm cớ để mặc kẻ khác chiến đấu bảo vệ sự tự do của mình, thì chẳng được khen ngợi đâu. Hành động như vậy không phải là trượng phu.
Ðoạn 6:39-45 -- Ðoán xét anh em mình
Ở đây cũng như ở nhiều trường hợp khác, Ðức Chúa Jêsus bày tỏ hai phương diện dường như mâu thuẫn của một chân lý. Lời nói và hành vi của người nào thật biểu thị tâm tánh của người ấy. Hơn nữa, chúng ta thường phạm đúng những tội mà mình lên án nơi người khác.
Ðoạn 6:46-49 -- Xây nhà trên vầng đá hoặc trên cát
Những lời nầy và nhiều lời giống như vậy tỏ rõ rằng Ðức Chúa Jêsus muốn người ta phải đối xử với Ngài một cách cẩn trọng. Một ngày kia, nhiều kẻ lưu loát xưng nhận Danh Ngài sẽ tỉnh ngộ và sầu thảm (Ma-thi-ơ 7:22-23).
Ðoạn 7:1-10 -- Ðầy tớ của viên bách nhân đội trưởng
Việc nầy cũng có chép ở Ma-thi-ơ 8:5-13. Bách nhân đội trưởng là một sĩ quan La- mã cai quản 100 lính. Ðương thời ấy, xứ Pa-lét-tin đã ở dưới quyền cai trị của người La-mã chừng 100 năm. Nói chung, các sĩ quan La-mã tàn ác và khinh người. Song một vài sĩ quan cũng nhân đức vì chịu ảnh hưởng của đạo Do-thái. Người dân ngoại đầu tiên được tiếp nhận vào Hội Thánh là một bách nhân đội trưởng, tên là Cọt-nây (Công vụ các sứ đồ 10).
Viên bách nhân đội trưởng nầy đã xây cất nhà hội cho người Do-thái tại Ca-bê-na- um (câu 5). Ðức Chúa Jêsus thường giảng dạy trong nhà hội nầy, và Ngài cũng chữa lành người bị quỉ ám tại đó (Mác 1:21-23. Năm 1905, một phái đoàn khảo cổ của người Ðức đã phát giác di tích của một nhà hội dường như xây cất vào thế kỷ thứ 4 S.C., dưới nhà hội nầy là nền của một nhà hội lâu đời hơn nữa, và người ta cho rằng đó thật là nhà hội mà Ðức Chúa Jêsus đã thường giảng dạy (Mác 1:21; Lu-ca 7:5). Ở vách phía Tây có ghế đá cho các thầy thông giáo và người Pha-ri-si ngồi. Tòa giảng ở phía Bắc. Ta có thể nhìn thấy gần đúng chỗ Chúa đã đứng giảng dạy.
Ðoạn 7:11-17 -- Con trai bà góa ở Na-in được sống lại.
Ðây là một trong ba phép lạ làm cho sống lại. Xem Mác 5:22 và Giăng 11:1. Có lẽ Ðức Chúa Jêsus còn làm cho nhiều người khác sống lại nữa (Lu-ca 7:22). Ngài sai 12 Sứ đồ đi kêu kẻ chết sống lại (Ma-thi-ơ 10:8).
Ðoạn 7:18-35. Các sứ giả của Giăng Báp-tít sai đến.-- Xem ở Ma-thi-ơ 11:1-19.
Ðoạn 7:36-50 -- Người đờn bà tội lỗi
Không có một sự kiện nào, dầu là nhỏ nhặt hơn hết, để dựa vào đó mà bảo rằng người đờn bà nầy chính là Ma-ri Ma-đơ-len, hoặc Ma-ri ở Bê-tha-ni. Chỉ nêu lên điều đó cũng đã là giải thích Kinh Thánh một cách cẩu thả đáng tức bực và nông cạn dại dột. Sự xức dầu nầy KHÔNG PHẢI cùng là sự xức dầu ở Bê-tha-ni (Giăng 12:1-8). Người đờn bà nầy nổi tiếng trong thành là "xấu nết" (câu 37), và chắc là một kỹ nữ đã được cải hóa bởi Giăng Báp-tít hoặc bởi Ðức Chúa Jêsus (Ma-thi-ơ 21:31-32); lúc nầy, bà xấu hổ, ăn năn, hạ mình sâu xa, và đến để công khai tỏ lòng biết ơn Ðức Chúa Jêsus. Việc xảy ra trong nhà một người Pha-ri-si. Bữa tiệc ở Ðông phương là cả một công vụ. Ðức Chúa Jêsus nằm ngã trên "đi-văng," xây mặt về bàn ăn, chơn co lại, nên người đờn bà đó đến gần Ngài dễ dàng. Bà khóc lóc, hôn chơn Ngài, xức dầu thơm quí giá cho chơn Ngài, rồi dùng tóc mình lau những giọt nước mắt đã rơi xuống đó. Bà cúi thấp như vậy, khiêm cung, hèn hạ và nhiệt thành thờ lạy nơi chơn Chúa như vậy, thì làm cho chúng ta, là những người khả kính, phải hổ thẹn biết bao!
Ðức Chúa Jêsus có thái độ rất từ ái đối với các người đờn bà đã lầm đường lỡ bước (Giăng 4:18; 8:1-11). Song không hề có ai gán cho Ngài những cớ tích khả nghi (Giăng 4:27). Xem thêm ở dưới Lu-ca, đoạn 15.
Ðoạn 8:1-3 -- Các bậc phụ nữ
Có kể tên 3 bà, ngoài ra "còn nhiều người khác nữa." Ta không biết gì thêm về bà Su-xan-nơ. Gian-nơ là vợ quan nội vụ của Hê-rốt, ở trong cung vua. Bà thuộc về nhóm bạn hữu thân thứt của Ðức Chúa Jêsus. Bà ở trong số phụ nữ đi thăm phần mộ Chúa (Lu-ca 24:10).
Ma-ri Ma-đơ-len
Ma-ri Ma-đơ-len là thủ lãnh lỗi lạc nhứt trong đám phụ nữ tin theo Chúa. Bà được nhắc tên nhiều hơn bất cứ bà nào khác, và thường được nhắc tên trước nhứt (Ma-thi-ơ 27:56, 61; 28:1; Mác 15:40, 47; 16:1, 9; Lu-ca 8:2; 24:10; Giăng 19:25; 20:1, 18). Theo một phương diện, bà ở trong đám đờn bà cũng như Phi-e-rơ ở trong đám đờn ông. Bà là người đầu tiên mà Ðức Chúa Jêsus hiện ra với sau khi Ngài sống lại. Bà được liệt trong số những người "giúp của cải cho Ngài" (câu 3), thì gợi cho ta nghĩ rằng bà thuộc hạng khá giả. Bà được Chúa "cứu khỏi quỉ dữ" (câu 2), thì chẳng chứng tỏ rằng bà không trinh khiết. Quỉ dữ gây nên nhiều thứ tật bịnh (xem ở dưới Mác 5:1-20), nhưng không có chỗ nào trong Kinh Thánh chép rằng hễ ai bị chúng ám, thì nấy là kẻ đồi phong bại tục. Chắc hẳn bà là một bậc phụ nữ có tâm tình không tì vít. Ta không thể nào tưởng rằng Ðức Chúa Jêsus đã chịu nhận một kỹ nữ phàm tục làm thủ lãnh nhóm phụ nữ tin theo Ngài.
Có lẽ đây là một điều tốt: ấy là giữa vòng chúng ta nên phân biệt tội lỗi "khả kính" với tội lỗi thô lỗ, và gán sự nhơ nhuốc cho những kẻ phạm một vài hình thức tội lỗi thô lỗ. Nếu làm như vậy, chúng ta có thể giúp phần cứu xã hội loài người khỏi bị hủy diệt hoàn toàn. Nhưng đối với Ðức Chúa Trời, thì tội lỗi là tội lỗi. Chắc hẳn Ðức Chúa Trời khó tha thứ tội lỗi "khả kính" của chúng ta cũng như Ngài khó tha thứ tội lỗi đã gây cho kẻ phạm nó bị xã hội khinh bỏ. Ðối với một kỹ nữ, thì được tha thứ tội lỗi và được nhận vào thông công với các người được cứu rỗi là một việc; nhưng lập tức đặt một người như vậy làm đầu công cuộc tôn giáo lại là một việc khác hẳn.
Ðoạn 8:4-18. Thí dụ về người gieo giống.-- Xem Ma-thi-ơ 13:1-23.
Ðoạn 8:19-21. Mẹ và anh em Ðức Chúa Jêsus.-- Xem ở Ma-thi-ơ 12:46-50.
Ðoạn 8:22-25. Dẹp yên cơn bão.-- Xem ở Mác 4:35-41.
Ðoạn 8:26-39. Người Giê-sa-rê bị quỉ ám.-- Xem ở Mác 5:1-20.
Ðoạn 8:40-56. Con gái Giai-ru được sống lại.-- Cũng có chép ở Ma-thi-ơ 9:18-26 và Mác 5:22-43. Ba lần Ðức Chúa Jêsus kêu gọi kẻ chết sống lại. Xem ở Lu-ca 7:11-17 và Giăng, đoạn 11. Chúng ta cảm kích khôn tả vì Chúa cầm quyền trên sự chết.
Ðoạn 9:1-6. 12 Sứ đồ được sai đi.-- Xem ở Ma-thi-ơ, đoạn 10.
Ðoạn 9:7-9. Hê-rốt bối rối.-- Xem ở Lu-ca 3:1-20.
Ðoạn 9:10-17. Chúa cho 5000 người ăn no nê.-- Xem ở Giăng, đoạn 6.
Giữa câu 17 và câu 18 có một khoảng 6 hoặc 8 tháng. Xem ở Mác 6:53.
Ðoạn 9:18-20. Lời xưng nhận của Phi-e-rơ.-- Xem ở Ma-thi-ơ 16:13-20.
Ðoạn 9:21-27. Chúa dự ngôn về sự thương khó của Ngài.-- Xem ở Mác 9:30-32.
Ðoạn 9:28-36. Chúa hóa hình.-- Xem ở Mác 9:2-13.
Ðoạn 9:37-43. Cậu con trai bị kinh phong.-- Xem ở Mác 9:14-29.
Ðoạn 9:43-45. Chúa lại dự ngôn về sự thương khó của Ngài.-- Xem ở Mác 9:30-32.
Ðoạn 9:46-48 -- Ai là lớn hơn hết?
Ðiểm đáng buồn trong biến cố nầy là nó xảy ra ngay sau khi họ chứng kiến cảnh tượng Chúa hóa hình. Còn đáng thương hại hơn nữa, nó là câu đáp lại lời Ðức Chúa Jêsus báo cáo rằng Ngài sắp bị đóng đinh trên Thập tự giá. Tệ hơn nữa là họ diễn lại tấn kịch đó khi tới Ca-bê-na-um (Ma-thi-ơ 18:1-5; Mác 9:33-37). Và khi gần tới thì giờ Ngài bị đóng đinh vào Thập tự giá (xem ở 20:20-28). Ðức Chúa Jêsus chắc phải có lòng kiên nhẫn biết bao! Ngài là một Ðấng đào luyện loài người kỳ diệu biết bao!
Ðoạn 9:49-50 -- Người vô danh làm việc lạ lùng
Cũng có chép ở Mác 9:38-40. Chúa lại quở trách Giăng vì ông muốn giữ độc quyền làm phép lạ. Liền sau đó, lại có một lời quở trách nữa vì Gia-cơ và Giăng nổi giận dữ (câu 52-56). Ba lời quở trách một dây.
Chức Vụ Ở Xứ Pê-Rê Và Phần Cuối Chức Vụ Ở Xứ Giu-Ðê
(Ðoạn 9:51-19:28)
Thời gian giữa lúc Ðức Chúa Jêsus dời khỏi xứ Ga-li-lê và tuần lễ sau chót của Ngài thường được gọi là Chức vụ ở xứ Pê-rê, hoặc phần cuối Chức vụ ở xứ Giu-đê. Thật ra là hai phần, -- một phần ở xứ Pê-rê, và một phần ở xứ Giu-đê. Xứ Pê-rê ở phía Ðông hạ lưu sông Giô-đanh (xem bản đồ số 48), và ở dưới quyền cai trị của Hê-rốt. Xứ Giu-đê ở phía Tây sông Giô-đanh, và ở dưới quyền cai trị của Phi-lát.
Ðoạn 9:51 -- Chúa dời khỏi xứ Ga-li-lê lần chót
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ 19:1 và Mác 10:1. Người ta cho rằng đây chính là lần Ðức Chúa Jêsus thăm viếng thành Giê-ru-sa-lem trong kỳ lễ Lều tạm, nhằm tháng 10 dương lịch (Giăng 7:2, 10), hoặc trong kỳ lễ Khánh thành Ðền thờ, nhằm tháng 12 dương lịch (Giăng 10:22). Như vậy, chức vụ ở xứ Pê-rê và phần cuối chức vụ ở xứ Giu-đê gồm một thời gian 4 tháng, hoặc 6 tháng. Mấy chữ "Khi gần đến kỳ" (câu 51) tỏ ra thời gian ngắn là có lý hơn.
Ma-thi-ơ dành 2 đoạn cho khoảng nầy của đời Ðức Chúa Jêsus; Mác dành 1 đoạn, Lu-ca dành 10 đoạn, và Giăng dành 5 đoạn. Ta sẽ thấy như vậy ở dưới đây.
Bốn Bản Tường Thuật Chức Vụ Của Chúa
Tại Xứ Pê-Rê Và Xứ Giu-Ðê (phần cuối)
Ma-thi-ơ 19 và 20
Sự ly dị (19:1-12).
Con trẻ (19:13-15).
Ông quan trẻ tuổi và giàu có (19:16-30).
Những người làm công trong vườn nho (20:1-16).
Chúa phán trước về sự thương khó của Ngài (20:17-19).
Lời thỉnh cầu của Gia-cơ và Giăng (20:20-28).
Hai người mù tại Giê-ri-cô (20:29-34).
Mác 10
Sự ly dị (10:1-12).
Con trẻ (10:13-16).
Ông quan trẻ tuổi và giàu có (10:17-31).
Chúa phán trước về sự thương khó của Ngài (10:32-34).
Lời thỉnh cầu của Gia-cơ và Giăng (10:35-45).
Người mù Ba-ti-mê (10:46-52).
Giăng 7 đến 11
Tại lễ Lều tạm (7:1-52).
Người đờn bà tà dâm (8:1-11).
Bài giảng thuyết của Ðức Chúa Jêsus (8:12-59).
Một người mù được chữa lành (9:1-51).
Ðấng Chăn Chiên hiền lành (10:1-21).
Tại lễ Khánh thành Ðền thờ (10:22-39).
Ở hạ lưu sông Giô-đanh (10:40-42).
Kêu La-xa-rơ sống lại (11:1-53).
Ở miền Ép-ra-im (11:54-57).
Lu-ca 9:51-19:29
Người Sa-ma-ri không tiếp rước Chúa (9:51-56).
"Con cáo có hang" (9:57-62).
70 môn đồ được sai đi (10:1-16).
70 môn đồ trở về (10:17-24).
Người Sa-ma-ri nhơn lành (10:25-37).
Ma-ri và Ma-thê (10:38-42).
"Lời cầu nguyện của Chúa" (11:1-4).
Khuấy rầy khi cầu nguyện (11:5-13).
"Nhờ Bê-ên-xê-bun" (11:14-26).
Lời Ðức Chúa Trời (11:27-28).
Dấu lạ của Giô-na (11:29-32).
Ðèn thấp sáng (11:33-36).
Người Pha-ri-si bị tố cáo (11:37-54).
Tội lỗi không thể tha thứ (12:1-12).
Người giàu mà dại (12:13-21).
Của báu trên trời (12:22-34).
Sự tỉnh thức (12:35-40).
Người quản gia trung tín (12:41-48).
"Quăng lửa xuống đất" (12:49-53).
Dấu hiệu của các thời kỳ (12:54-59).
Huyết của mấy người Ga-li-lê (13:1-5).
Cây vả đưng (13:6-9).
Người đờn bà còng lưng (13:9-17).
Hột cải và men (13:18-21).
"Chỉ ít kẻ được cứu chăng?" (13:22-30).
"Hãy đi nói với con chồn cáo ấy" (13:31-35).
Người mắc bịnh thủy thũng (14:1-6).
"Chỗ ngồi trên" (14:7-11).
"Ðãi tiệc kẻ nghèo khó" (14:12-14).
Những lời thoái thác (14:15-24).
Vác Thập tự giá (14:25-35).
Con chiên đi lạc và đồng bạc mất (15:1-10).
Người con trai phóng đãng (15:11-32).
Người quản gia bất trung (16:1-17).
Sự ly dị ( 16:18).
Người giàu và La-xa-rơ (16:19-31).
Sự tha thứ (17:1-4).
Quyền năng của đức tin (17:5-10).
Mười người phung (17:11-19).
Sự tái lâm của Chúa (17:20-37).
Người đờn bà góa khuấy rầy (18:1-8).
Người Pha-ri-si và người thâu thuế (18:9-14).
Con trẻ (18:15-17).
Ông quan trẻ tuổi và giàu có (18:18-30).
Chúa phán trước về sự thương khó của Ngài (18:31-34).
Người mù ở thành Giê-ri-cô (18:35-43).
Xa-chê (19:1-10).
Thí dụ về những nén bạc (19:11-28).
Ðoạn 9:52-56 -- Người Sa-ma-ri chối bỏ Ðức Chúa Jêsus
Vì Ngài đi về hướng thành Giê-ru-sa-lem. Người Sa-ma-ri trông mong Ðấng Mê-si đặt ngôi Ngài trên núi Ga-ri-xim. Dân chối bỏ Ðức Chúa Jêsus thì làm cho Gia-cơ và Giăng nổi giận và họ lập tức chứng tỏ tại sao Ngài đặt cho họ biệt hiệu "Con trai của sấm sét" (Mác 3:17). Ðức Chúa Jêsus không phẫn nộ, nhưng đã đổi đi đường khác.
Ðoạn 9:57-62 -- "Con cáo có hang"
Hơn 1 năm trước, Ðức Chúa Jêsus cũng đã phán lời nầy với một thầy thông giáo tỏ ý muốn theo Ngài qua bờ biển bên kia (Ma-thi-ơ 8:19-22). Có lẽ Ngài đã nhiều lần trả lời như vậy cho những kẻ mà Ngài biết là đang tìm kiếm, ưa chuộng một điều gì Ngài chẳng có để cho họ. Lời Ngài phán chứa đựng một niềm cảm động vô biên, vì Cứu Chúa của loài người không có nhà ở, sanh ra trong chuồng bò, dùng máng cỏ làm nôi, và được an táng trong một phần mộ mượn. Lời Ðức Chúa Jêsus đáp lại người thứ hai và người thứ ba, lẽ tự nhiên, không có nghĩa rằng chúng ta không cần biết đến những thiên chức êm dịu của đời sống trần gian. Kinh Thánh nhiều lần dạy rằng một dấu hiệu đích xác hơn hết của tín đồ Ðấng Christ là phải ân cần và thận trọng trong mọi mối liên lạc của đời sống gia đình, nhứt là những lúc đau thương. Ðức Chúa Jêsus có ý dạy rằng những sự thuộc về Ðức Chúa Trời quan trọng hơn vô cùng, và trong trường hợp xung đột, thì không nên ngần ngại một giây phút nào.
Ðoạn 10:1-16 -- 70 môn đồ được sai đi
Việc nầy dường như xảy ra lúc Ngài dời khỏi xứ Ga-li-lê lần sau chót, chừng 8 hoặc 9 tháng sau khi Ngài sai 12 Sứ đồ đi. mục đích của Ngài là hoàn tất sự báo cáo cho nhân dân rằng Ðấng Mê-si đã ngự đến. Có lẽ Ngài sai họ đi trước, xuôi theo thung lũng sông Giô-đanh. Chỉ thị của Ngài giống như chỉ thị đã ban cho 12 Sứ đồ.
Ðức Chúa Jêsus đài thọ công việc của Ngài thể nào?
Ðức Chúa Jêsus là một Người nghèo, "không có chỗ mà gối đầu." Trong vòng 3 năm, Ngài đi đây đi đó, và nhiều khi có một đám tùy tòng rất đông. Rất ít là hai lần Ngài đã tổ chức phái đoàn giảng đạo đông người. Chúa và môn đồ sống nhờ sự tiếp đón, đãi đằng của dân chúng (Ma-thi-ơ 10:11), theo lệ thường đối với khách lạ và người bộ hành đương thời ấy. Ngài nhận được tiền dâng của những bậc khá giả và nhiều người khác (Lu-ca 8:3). Do đó có túi bạc để mua các thứ cần dùng (Giăng 12:6; 13:29). Nếu Ngài muốn, thì có thể thâu một số tiền lớn nơi những đoàn dân đông theo Ngài và những người bịnh mà Ngài đã chữa lành, để sống như một ông hoàng. Nhưng Ngài đã sống và chết trong cảnh nghèo túng.
Ðoạn 10:17-24 -- 70 môn đồ trở về
Không chép cuộc hành trình của họ lâu chừng nào. Có lẽ họ đi trọn đường xuống miền Giê-ri-cô, còn Chúa thì theo sau chậm hơn. Ðối với Ðức Chúa Jêsus, sự thành công của họ là một dấu hiệu Sa-tan sắp bị lật đổ. Nhưng hãy chú ý rằng, Chúa cảnh cáo họ chớ quá vui mừng vì đã làm những việc tốt lành; lý do thật làm cho ta hớn hở chính là Thiên đàng (câu 20).
Ðoạn 10:25-37 -- Người Sa-ma-ri nhơn lành
Ðây là một áng cổ văn giản dị và đẹp đẽ hơn hết về vấn đề nhân ái của loài người trong cả văn chương. Lu-ca vừa mới kể rằng Ðức Chúa Jêsus bị người Sa-ma-ri chối bỏ (9:52). Và đây là phản ứng của Ngài, tức là tôn một người Sa-ma-ri lên cho mọi đời tương lai quí mến.
Sự nhân ái
Chính Ðức Chúa Jêsus là Người nhân ái hơn hết từng sống ở đời. Có lời chép về Ngài, chớ không chép về một người nào khác trong lịch sử, rằng: Nếu mọi việc nhân ái Ngài làm trong 3 năm ngắn ngủi được viết ra, thì thế gian không chứa hết sách vở ấy (Giăng 21:25).
Ðức Chúa Jêsus đã phán rất nhiều về sự nhân ái, -- đây là sự nhân ái thông thường, tỏ tường, theo lề lối cũ,và thực hiện hằng ngày.
Cứ xét theo lời Ngài phán, thì Ngài muốn thấy kẻ theo Ngài có sự nhân ái hơn là bất cứ đặc điểm nào khác của tâm tánh. Ấy không phải sự nhân ái của chúng ta sẽ cứu mình được. Nếu chúng ta được cứu, ấy là Ngài cứu ta. Ta không bao giờ nên quên điều đó. Nhưng trong ta có những điều đẹp lòng Ngài, hoặc không đẹp lòng Ngài.
Ðức Chúa Jêsus nhấn rất mạnh vào vấn đề nhân ái nầy, đến nỗi Ngài tự liên hiệp với những người cần sự nhân ái. Quả thật, Ngài bảo chúng ta rằng ta không thể làm bạn hữu của Ngài mà đồng thời lại lãnh đạm với những kẻ bị chà đạp hoặc đau khổ (Ma-thi-ơ 25:40, 45).
Ngài ngụ ý dạy rằng Thiên đàng là nơi ở dành riêng cho những người đã học biết cư xử nhân ái, -- nhân ái mà thôi và nhân ái luôn luôn. Ðức Chúa Jêsus ngự đến để kiến tạo một thế giới gồm những người giống như Ngài, và khi thế giới ấy đã hoàn thành, thì không ai được vào đó nữa (Ma-thi-ơ 25:34, 41).
Ngài lại ngụ ý nữa rằng trong ngày Phán xét sẽ có một vài sự bất ngờ. Một số người thường nghĩ rằng mình đạo đức lắm sẽ nhận thấy, nhưng trễ quá, rằng mình đã hoàn toàn lãng quên các điều mà thiên sứ vẫn ghi chép (Ma-thi-ơ 25:44).
Ðức Chúa Jêsus lại tuyên bố kỳ diệu rằng trong chánh sách của Ðức Chúa Trời cai trị vũ trụ, không một hành động từ ái nào, dầu nhỏ nhặt tới mấy, sẽ không được ban thưởng. Chính Ðức Chúa Trời sẽ báo trả cho chúng ta mỗi một hành động từ ái, không sót chi hết (Ma-thi-ơ 10:42).
Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ Ðức Chúa Jêsus không có ý phán rằng ta nên khuyến khích những kẻ mạnh khỏe mà lười biếng toan bắt xã hội phải gánh vác họ, và đi bước đường đời, nhưng chẳng làm phận sự của mình. Lười biếng là một trong những tội lớn nhứt. Không có chỗ nào trong Kinh Thánh dung thứ nó. "Nếu ai không khứng làm việc, thì cũng không nên ăn nữa" (II Tê-sa-lô-ni-ca 3:10).
Ðoạn 10:38-42 -- Ma-ri và Ma-thê
Người ta cho rằng việc nầy xảy ra lúc chấm dứt chiến dịch bố đạo rộng lớn xuôi theo thung lũng sông Giô-đanh, có 70 môn đồ đi trước Chúa. Lúc nầy Chúa đi gần tới thành Giê-ru-sa-lem để dự lễ Khánh thành Ðền thờ (?) (Giăng 10:22). Ma-ri và Ma-thê ngụ tại Bê-tha-ni, trên sườn phía Tây của núi Ô-li-ve, cách Giê-ru-sa-lem chừng 2 dặm. Truyện nầy chép để tỏ ra Ðức Chúa Jêsus cho rằng nghe Lời Chúa là rất hệ trọng, đáng để thì giờ vào đó, mặc dầu vì thế mà phải xao lãng một vài phận sự hằng ngày.
Ðoạn 11:1 -- Ðức Chúa Jêsus cầu nguyện
Dầu Ðức Chúa Jêsus là Con Ðức Chúa Trời và tự nhận là bình đẳng với Ðức Chúa Trời về một vài phương diện đang khi ở trong xác thịt, nhưng đang khi ở trong xác thịt, Ngài dường như cũng cảm thấy mình hoàn toàn tùy thuộc một Quyền phép cao hơn chính mình; vậy nên Ngài đã cầu nguyện nhiều lắm.
Dưới đây là một vài trường hợp Ngài cầu nguyện, có chép trong Kinh Thánh:
Những lời cầu nguyện của Ðức Chúa Jêsus
Lúc Ngài chịu lễ báp-têm (Lu-ca 3:21).
Ở một nơi vắng vẻ (Mác 1:35).
Trong đồng vắng (Lu-ca 5:16).
Suốt đêm, trước khi lựa chọn 12 Sứ đồ (Lu-ca 6:12).
Trước khi khuyên mời: "Hãy đến cùng Ta" (Ma-thi-ơ 11:25-27).
Lúc cho 5000 người ăn no nê (Giăng 6:11).
Khi Ngài truyền dạy "Lời Cầu nguyện của Chúa" (Lu-ca 11:1-4).
Tại thành Sê-sa-rê Phi-líp (Lu-ca 9:18).
Trước khi Ngài hóa hình (Lu-ca 9:28, 29).
Cho con trẻ (Ma-thi-ơ 19:13).
Trước khi kêu La-xa-rơ sống lại (Giăng 11:41-42).
Trong Ðền thờ (Giăng 12:27, 28).
Lúc ăn bữa tối cuối cùng (Ma-thi-ơ 26:26, 27).
Cho Phi-e-rơ (Lu-ca 22:32).
Cho các môn đồ (Giăng 17).
Trong vườn Ghết-sê-ma-nê (Ma-thi-ơ 26:36, 39, 42, 44).
Trên Thập tự giá (Lu-ca 23:34).
Tại Em-ma-út (Lu-ca 24:30).
Trong mỗi lời cầu nguyện của Ðức Chúa Jêsus mà Kinh Thánh có chép, Ngài đều gọi Ðức Chúa Trời bằng "Cha" (Ma-thi-ơ 6:9; 11:25; 26:39, 42; Lu-ca 11:2; 23:34; Giăng 11:41; 12:27, 28; 17:1, 5, 11, 21, 24, 25). Thật khác hẳn nhiều bài cầu nguyện của các Mục sư mở đầu bằng những lời trịnh trọng, nhấn mạnh, gắng vó, cao siêu và nặng trịch.
Ðoạn 11:2-4 -- "Lời Cầu nguyện của Chúa."
Ðược chép dài hơn ở Ma-thi-ơ 6:9-13. Chúng tôi ngờ rằng Ðức Chúa Jêsus không có ý dùng lời cầu nguyện nầy làm một bài kinh cho hội chúng cùng lặp lại khi thờ phượng Chúa. Sự lặp lại như vậy có thể có một giá trị nào; nhưng chắc nó có vẻ làm giảm giá trị của lời cầu nguyện nầy, đổi nó thành một tục lệ vô nghĩa. Trái lại, chúng tôi nghĩ rằng lời cầu nguyện nầy cốt dùng làm mẫu mực để hướng dẫn ta đến gần Ðức Chúa Trời và biết các vấn đề cầu nguyện.
Sự cầu nguyện ở nơi kín nhiệm
Ðức Chúa Jêsus nhấn mạnh rất nhiều vào sự cầu nguyện ở nơi kín nhiệm (Ma-thi-ơ 6:6). Tuy nhiên, sự cầu nguyện nầy không loại bỏ buổi cầu nguyện chung mà ta phải tới nhóm và dự phần. Chúng ta chẳng bao giờ nên xấu hổ đến nỗi không cầu nguyện, hoặc không làm chứng về đức tin của mình nơi sự cầu nguyện, tùy theo cơ hội đòi hỏi. Nhưng ta phải coi chừng, kẻo lại nghĩ mình sẽ khiến người khác có cảm tưởng thể nào. Cầu nguyện là ta tỏ mình với Ðức Chúa Trời. Ấy là một vấn đề giữa chúng ta và Ðức Chúa Trời, chớ không phải một vấn đề đem ra giải luận. Phần lớn đời cầu nguyện của chúng ta phải tuyệt đối Kín Nhiệm, ngõ hầu ta không có cơ hội tự dối mình về cớ tích cầu nguyện.
Nếu trước hoặc sau mỗi một hành động hoặc quyết định quan trọng, chúng ta hướng lòng lên Ðức Chúa Trời để xin Ngài dắt dẫn, bổ sức, hoặc để cảm tạ Ngài, nếu ta không hề nói chi hết về hành động hoặc quyết định ấy với bất cứ ai, dầu là bạn hữu thân thiết hơn hết, dầu là vợ hoặc chồng cũng vậy, nhưng tuyệt đối coi nó là một vấn đề riêng giữa ta và Ðức Chúa Trời. Nếu ta thường làm như thế và tích cực giữ kín nó, chỉ một mình ta biết, -- thì sẽ không có một thói quen nào khác truyền cho ta nhiều sự vui vẻ ở đời và nhiều sức mạnh trong lúc khẩn trương cho bằng đi đường đời như vậy, tay nắm tay Bạn hữu Toàn năng mà ta đã ngỏ tâm sự với và cầu vấn trong mọi điều liên quan đến mình, dầu cho chi tiết nhỏ nhặt hơn hết cũng vậy.
Ðoạn 11:5-13. Bền đỗ cầu nguyện.-- Xem Lu-ca 18:1-8.
Ðoạn 11:14-26. Trừ quỉ.-- Xem ở Ma-thi-ơ 12:24-37.
Ðoạn 11:27-28 -- Lời Ðức Chúa Trời
Một bà nói với Ðức Chúa Jêsus rằng: "Phước cho dạ đã mang Ngài!" Ngài bèn đáp: "Những kẻ nghe và giữ Lời Ðức Chúa Trời còn có phước hơn."
Ðương thời Ðức Chúa Jêsus, trong nền văn chương của dân tộc Ngài có một bộ sách mà ngày nay chúng ta gọi là Cựu Ước. Khi ấy, toàn thể dân chúng kể bộ sách đó là phát xuất từ Ðức Chúa Trời một cách đặc biệt, không có sách nào khác phát xuất từ Ðức Chúa Trời như vậy. Ðức Chúa Jêsus đồng quan niệm ấy với dân chúng. Ðối với Ngài, bộ sách đó không phải chỉ là "Tư tưởng của người Hê-bơ-rơ," mà là Lời thật của Ðức Chúa Trời. Bộ sách ấy là môn chánh yếu trong nền giáo dục Ngài (xem ở Lu-ca 2:40).
Tại làng Bê-tha-ni, Ma-ri ngồi nơi chơn Chúa để nghe Lời Ngài phán. Ðức Chúa Jêsus cho đó là "một việc cần mà thôi" (Lu-ca 10:42).
Trong một cơ hội khác, Ðức Chúa Jêsus đang dạy dỗ đoàn dân đông, thì có một người đến nói rằng: "Mẹ và anh em Thầy ở ngoài, muốn thấy Thầy." Ngài bèn đáp: "Mẹ Ta và anh em Ta là kẻ nghe đạo (1) Ðức Chúa Trời và làm theo đạo (1) ấy" (Lu-ca 8:19-21).
Ðức Chúa Jêsus lại phán rằng: "HộT GIỐNG là đạo (1) Ðức Chúa Trời" (Lu-ca 8:11), nghĩa là cái yếu tố bởi đó và từ đó Nước Ðức Chúa Trời lớn lên. Linh hồn người ta chỉ có thể sanh trong Nước Ðức Chúa Trời nhờ hột giống của Nước ấy, tức là Lời Ðức Chúa Trời (I Phi-e-rơ 1:23).
"Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Ðức Chúa Trời" (Ma-thi-ơ 4:4).
"Nếu không nghe Môi-se và các Ðấng tiên tri (tức là Kinh Thánh), thì dầu có ai từ kẻ chết sống lại, chúng nó cũng chẳng tin vậy" (Lu-ca 16:31). "Trời đất sẽ qua, nhưng Lời Ta nói chẳng bao giờ qua đi" (Ma-thi-ơ 24:35).
Ðoạn 11:29-32. Các dấu lạ.-- Xem ở Ma-thi-ơ 12:39-42.
Ðoạn 11:33-36. Ðèn thắp sáng.-- Xem ở Ma-thi-ơ 5:13-16.
Ðoạn 11:37-54. Người Pha-ri-si bị tố cáo.-- Xem ở Ma-thi-ơ, đoạn 23.
Ðoạn 12:1-12 -- Những cớ tích kín nhiệm của đời sống
Ðức Chúa Jêsus giảng luận rất nhiều về cớ tích, nghĩa là cái yếu tố ở trong ta khiến ta làm việc nầy, việc kia, và hướng dẫn hành vi của ta. Trước mặt Ngài, thì cớ tích của ta là chính ta vậy. Cớ tích vĩ đại duy nhứt của chúng ta đáng phải có là mong ước được Ðức Chúa Trời ưng chịu và sợ không được Ngài ưng chịu. Các người đạo đức đương thời Ðức Chúa Jêsus đã hành đạo phần nhiều để được loài người khen ngợi (Ma-thi-ơ 6:1-18). Ðó còn là một phần bổn tánh của chúng ta mà ta phải giao chiến với luôn. Khi ở chung với những người không tin đạo, thì ta bị cám dỗ mà hổ thẹn về đạo của mình; nhưng khi ở chung với những người tin đạo, thì ta muốn được kể là đạo đức, và sự ước muốn đó thường khi thúc đẩy ta làm bộ đạo đức hơn thực trạng của mình mà thành ra giả hình. Sự mong được loài người ưng chịu trong giới hạn thích đáng, thì chánh đáng và nên khen ngợi. Nhưng thực sự vĩ đại duy nhứt của đời sống là ÐỨức Chúa Trời. Ðiều duy nhứt đáng kể, thật đáng kể, là mối liên quan của chúng ta với Ngài. Chúng ta hãy luôn luôn nhớ đến Ngài, và xét xem tư tưởng, cớ tích và công việc của mình chống chất lên trước mắt Ngài thể nào.
Nhiều điều trong đoạn nầy đã có trong Bài Giảng trên Núi (Ma-thi-ơ 5, 6, 7), và trong các huấn thị của Ðức Chúa Jêsus ban cho 12 Sứ đồ (Ma-thi-ơ 10). Có những lời mà Ðức Chúa Jêsus ưa phán đi phán lại nhiều lần, trong số ấy có lời phán rằng Ðức Chúa Trời săn sóc và dẫn dắt con cái Ngài, không hề sơ sót (câu 6-12).
Hãy đặc biệt chú ý lời Ðức Chúa Jêsus cảnh cáo về địa ngục. Ngài luôn luôn viện dẫn sự sợ địa ngục làm cớ tích của đời sống (xem ở Lu-ca 16:19-31).
Cũng hãy chú ý lời Ngài phán rằng một ngày kia, mọi điều kín nhiệm về bổn ngã giả hình của chúng ta sẽ bị lộ ra (câu 2-3). Các đĩa thâu thanh không hề lầm lẫn của Ðức Chúa Trời đang ghi mỗi tư tưởng kín giấu và hành động bí mật của chúng ta để một ngày kia, sẽ phát ra lớn tiếng trước bổn ngã sửng sốt của chúng ta và trước vũ trụ hội họp lại. Khi ấy, chân tướng của ta sẽ lộ ra, và ai cũng nhận thấy rõ. Về "tội lỗi không thể tha thứ" (câu 10), xin xem ở Ma-thi-ơ 12:24-37.
Ðoạn 12:13-21 -- Thí dụ về người giàu mà ngu dại
Hãy chú ý rằng Ðức Chúa Jêsus không chịu can thiệp vào cuộc tranh chấp trong gia đình người nầy. Ngài chẳng toan gánh vác công việc cho mọi kẻ khác.
Người giàu mà ngu dại nầy đã kiếm được tiền của một cách lương thiện, -- tức là do đất ruộng của hắn sản xuất. Tuy nhiên, trước mắt Ðức Chúa Trời, hắn là "kẻ dại" (câu 20), vì lòng hắn để vào đời nầy, chớ không để vào đời sau. Giàu trong đời nầy, nhưng nghèo trong đời sau. Ðời nầy chỉ còn ít lâu, song đời sau còn đến đời đời.
Ðoạn 12:22-34 -- Của báu ở trên trời
Ðây là một phần của Bài Giảng trên Núi (Ma-thi-ơ 6:19-34) mà Ðức Chúa Jêsus lặp lại. Ðức Chúa Jêsus phán về Thiên đàng, thì phải đúng lắm, vì đó là nơi ở của Ngài. Lời Ngài phán đây thật tuyệt diệu. Và ý kiến ở đây thuộc loại quan trọng hơn hết mà Ngài từng bày tỏ. Tín đồ Ðấng Christ là công dân của Thiên đàng, trọ trong thế gian nầy ít lâu, bị những nỗi lo lắng trần gian hằng ngày làm trở ngại, nhưng mắt họ luôn luôn nhắm vào Tổ quốc đời đời. Tại đó có một tòa nhà mà chúng ta xây cất đang khi ở đời nầy. Chỉ cái gì ta dâng cho Ðức Chúa Trời mới là của ta cho đến đời đời. Một người hỏi bạn về một ông họ quen biết, mới qua đời, rằng: "Ông ấy để lại bao nhiêu?" Ðáp: "Ông ấy để lại TẤT CẢ." Thật vậy, chẳng bao lâu, mỗi người chúng ta sẽ phải lìa nhà trại dưới đất và để cho kẻ khác mọi vật ta gọi là của mình. Nếu ta đã gởi trước một số dự trữ trong các cung điện đời đời của Ðức Chúa Trời, thì thật là may mắn cho mình!
Ðoạn 12:35-40 -- Sự tỉnh thức
Tư tưởng của Ðức Chúa Jêsus chuyển từ Thiên đàng qua ngày vinh hiển Ngài tái lâm, và Ngài cảnh cáo rằng biến cố ấy dường như xảy đến cho một thế giới đang ngủ say giữa đêm khuya (câu 38). Phước cho người trung tín sửa tim đèn và thắp sáng lên để tiếp đón Chúa trở về!
Ðoạn 12:41-48 -- Người quản gia trung tín
Thí dụ nầy phán cho hết thảy tín đồ. Nhưng mực độ của trách nhiệm tùy theo mực độ của tài năng và địa vị. Ðây là một lời cảnh cáo khủng khiếp cho các Mục sư, Truyền đạo không trung tín!
Ðoạn 12:49-53 -- Cuộc xung đột tương lai
Dầu Ðức Chúa Jêsus ngự đến để đem sự bình an, nhưng Ngài biết rằng mình sẽ là cớ gây nên xung đột. Ngài nhớ lại thế gian kình địch với mình, và Ngài mong ước tình trạng ấy chấm dứt.
Ðoạn 15:54-59 -- Thiếu lương tri
Họ thông thạo những điều không quan trọng bao nhiêu, nhưng lại có thái độ rất ngu dại đối với Ngài và đối với nhau.
Ðoạn 13:1-5 -- "Nếu các ngươi chẳng ăn năn."
Hai tai họa mới xảy đến làm cho toàn dân khủng khiếp, và ai nấy cho những kẻ mạng vong đó đã bị hình phạt vì cớ tội lỗi của mình. Nhưng hai tai họa ấy nhắc cho Ðức Chúa Jêsus nhớ dạy về Ngày Phán xét khủng khiếp.
Ðoạn 13:6-9 -- Cây vả đưng
Nó biểu minh sự kiên nhẫn của Ðức Chúa Trời đối với Giê-ru-sa-lem; ngày đoán phạt thành ấy sẽ xảy đến mau chóng, và nói chung, sẽ xảy đến cho các cá nhân.
Ðoạn 13:10-17 -- Người đờn bà còng lưng
Ðức Chúa Jêsus động lòng thương xót, chẳng đợi bà đó cầu xin. Hơn nữa, Ngài dùng cơ hội ấy để làm cho người Pha-ri-si phải hổ thẹn. Xem ở Mác 3:1-6. Cũng xem ở Giăng, đoạn 5, về những lần khác Chúa chữa bịnh trong ngày Sa-bát.
Ðoạn 13:18-21. Hột cải và men.-- Xem ở Ma-thi-ơ 13:31-33.
Ðoạn 13:22-30 -- "Chỉ ít kẻ được cứu chăng?"
Ðây, Ðức Chúa Jêsus chỉ trả lời rằng nhiều người mong tưởng mình được cứu rỗi sẽ bị thất vọng sầu thảm. Nhưng ở Ma-thi-ơ 7:14, Ngài giải đáp vấn đề nầy rõ ràng.
Ðoạn 13:31-35 -- "Vua Hê-rốt muốn giết Thầy."
Rõ ràng lắm, Ðức Chúa Jêsus ở xứ Pê-rê, là lãnh thổ của Hê-rốt, vì Ngài đang đi đường xuôi bờ phía Ðông sông Giô-đanh. Ngài ở đó còn an ninh hơn ở xứ Giu-đê. Ngài đáp: "Không phải Hê-rốt, nhưng chính là các ngươi giết Ta. Không phải xứ Pê-rê, nhưng thành Giê-ru-sa-lem mới là nơi các ngươi sẽ giết Ta."
Ðoạn 14:1-6 -- Chúa lại chữa bịnh trong ngày Sa-bát
Ngài vừa mới chữa lành một người đờn bà giữa nhà hội, trong ngày Sa-bát (13:10- 17). Còn phép lạ nầy xảy ra ở nhà một người Pha-ri-si, giữa bữa tiệc trong ngày Sa-bát. Người Pha-ri-si không hối hận gì về sự ăn tiệc trong ngày Sa-bát. Nhưng nếu chữa lành kẻ đau, thì họ không tha thứ được. Xem ở Mác 3:1-6.
Ðoạn 14:7-11 -- Lời khuyên khách dự tiệc
Ðức Chúa Jêsus nhấn mạnh rằng sự tự tôn, tự đại sẽ làm hỏng chính mục đích của nó. Con đường khiêm nhường tốt hơn, và giúp cho thăng tiến thật. Chính là "kẻ nhu mì" sẽ hưởng được đất (Ma-thi-ơ 5:5). Người thâu thuế khiêm cung đã đẹp lòng Ðức Chúa Trời, chớ không phải người Pha-ri-si kiêu ngạo (Lu-ca 18:9-14). Chính là người khiêm nhường đến cuối cùng sẽ được tôn lên (câu 11). Ðức Chúa Jêsus phán dạy điều đó nhiều lần (Lu-ca 18:14; Ma-thi-ơ 23:12).
Ðoạn 14:12-14 -- Lòng nhân ái đối với kẻ bạc phước
Nếu đãi đằng những kẻ mà ta mong sẽ đãi đằng ta lại, thì chẳng có giá trị chi cả. Thà rằng cố giúp những kẻ không thể đền trả ta chi hết, và nhìn chăm vào phần thưởng trên trời. Biết bao lần Ðức Chúa Jêsus khuyên bảo chúng ta để mắt vào Thiên đàng (xem ở Lu-ca 10:25-37).
Ðoạn 14:15-24 -- Các lời xin kiếu
Ðức Chúa Jêsus không có ý tưởng sai lầm về cuộc tiếp tân toàn thể của Nước Ngài. Ngài biết rằng nhiều người, từ đám thủ lãnh tôn giáo của chính Nước Ngài và đồng bào Ngài cho đến các dân ngoại ở xa xôi, sẽ chế nhạo Ngài cùng ơn cứu chuộc mà Ngài hiến cho họ; họ ngõ lời xin kiếu chẳng quan trọng chi cả, vì ưa thích "vỏ đậu" của thế gian hơn.
Ðoạn 14:25-35 -- Giá phải trả để làm môn đồ của Chúa
Ðây là những lời nghiêm khắc. Theo Ðức Chúa Jêsus là một việc trang nghiêm bội phần hơn các đoàn dân đông từng tưởng tượng. Ngài biết họ theo Ngài với một quan niệm phù phiếm về Nước Ngài. Vì cớ ấy, Ngài phán những lời mạnh mẽ dường nầy. Ðức Chúa Jêsus chẳng có ý dạy rằng chúng ta phải ghét cha mẹ hoặc con cái mình (câu 26). Kinh Thánh dạy quả quyết rằng chúng ta phải trung tín, tận tụy với những ai là chính thịt và huyết của mình. Nhưng đây Ðức Chúa Jêsus có ý dạy rằng nếu cần phải lựa chọn Ngài hay là họ, thì ta không được ngần ngại chút nào.
Sự nghiêm khắc của Ðức Chúa Jêsus
Ðức Chúa Jêsus phán nhiều điều nghe rất khó và không sao làm được, đến nỗi nếu không có những lời khác (xem đoạn luận về sự hiền từ của Ngài ở trang sau), thì các điều nầy sẽ làm ngã lòng bất cứ ai, khiến họ chẳng dám thử theo Ngài nữa. Ngài đến để hiến cho ta Sự Sống Ðời Ðời vô giá. Nhưng Ngài chẳng bắt buộc ta nhận lấy. Ðiều kiện tối trọng để được sự sống đời đời là chúng ta phải muốn được nó hơn bất cứ cái gì khác, và phải Yêu Mến Ngài hơn bất cứ cái gì khác. Ðức Chúa Jêsus đòi hỏi và phải có địa vị Thứ Nhứt trong lòng chúng ta. Nếu Ngài có địa vị ấy, thì sự thương xót của Ngài sẽ là vô lượng vô biên. Nhưng nếu chúng ta đặt Ngài ở hàng nhì sau mọi ham thích thất thường của mình, và đối xử với Ngài theo cấp bậc ấy, thì Ngài sẽ nhả ta ra khỏi miệng Ngài
Ðoạn 15 -- Con chiên lạc, đồng bạc mất, con trai phóng đãng
Ðoạn nầy tiếp theo những lời đòi hỏi ở đoạn 14, thì giống như cảnh trời yên tịnh sau cơn bão tố. Thật khác hẳn đến nỗi ta hầu như không cho là do cùng một Ðấng phán ra. Tuy nhiên, hai đoạn chẳng mâu thuẫn đâu, mà chỉ bổ túc lẫn nhau thôi. Khởi điểm là chúng ta dâng mình cho Ðức Chúa Jêsus, chẳng giữ lại chút chi. Không thể có sự trung thành chia xẻ làm hai. Một khi chúng ta tôn Ngài làm Chúa rất yêu dấu của đời mình, thì lòng thương xót của Ngài sẽ vô lượng vô biên. Có lẽ chúng ta vấp ngã, và vấp ngã nhiều lần. Nhưng đang khi ta hướng mặt về phía Ngài, thì Ngài sẽ tha thứ, và tha thứ mãi, cho đến rốt lại, bởi ân điển và quyền phép của Ngài, mọi điều chẳng đẹp lòng Ngài sẽ bị trừ bỏ khỏi đời sống chúng ta.
Thực sự trên đây được chứng minh bằng ba thí dụ của đoạn sách kỳ diệu nầy: Có sự vui mừng vì tìm thấy con chiên lạc, kiếm lại được đồng bạc mất, và con trai phóng đãng trở về. Ðây là một đoạn tương đồng với truyện tích người đờn bà tội lỗi ở Lu-ca 7:36-50 và người đờn bà tà dâm ở Giăng 8:1-11.
Ðây là bức tranh vinh hiển mô tả Cha Thiên thượng và các thiên sứ của Ngài tiếp đón những linh hồn hối cải. Khi nào ta ngã lòng vì cớ địa vị tội lỗi của mình, thì nên đọc đoạn sách nầy.
Sự hiền từ của Ðức Chúa Jêsus
Ðức Chúa Jêsus chẳng những là Người nhân ái hơn hết từng sống ở đời (xem ở dưới Lu-ca 10:25-37), song Ngài cũng là Người hiền từ hơn hết. Ngài ưa tha thứ. Chính Ngài chẳng có tội lỗi chi cả. Nhưng lòng Ngài đau đớn biết bao vì thương xót và cảm thương những ai đang phải vật lộn nhọc nhằn với tội lỗi của họ.
Một trong những bức tranh đẹp đẽ hơn hết của cả Kinh Thánh là lúc Ðức Chúa Jêsus tỏ lòng hiền từ với người đờn bà tội lỗi khóc lóc dưới chơn Ngài (Lu-ca 7:36-50).
Sự hiền từ và tha thứ của Ngài đối với người đờn bà bị xã hội duồng bỏ và tính tình hay dời đổi đó đảm bảo rằng Ngài sẽ có sự hiền từ và tha thứ đối với Hội Thánh.
Dầu chúng ta không phạm tội y như người đờn bà kia, nhưng ta cũng đã phạm tội. Và đối với Ðức Chúa Trời, tội lỗi là tội lỗi.
Ðức Chúa Trời tha thứ các tội lỗi khả kính, tinh tế, lịch sự, vị kỷ và cao sang của chúng ta, thì chắc cũng khó khăn như và có lẽ còn khó khăn hơn là tha thứ các tội lỗi thô lỗ hơn của những linh hồn khốn nạn đã bị thua trong cuộc tranh đấu ở đời.
Ta được yên ủi nhiều lắm vì biết rằng Ðấng mà một ngày kia, chúng ta sẽ phải đứng trước mặt Ngài để chịu phán xét, lại là một Người như vậy. Ngài tỏ lòng thương xót với người đờn bà đang đau khổ chính lúc bà cần sự thương xót của Ngài.
Sự hiền từ của Ðức Chúa Jêsus đối với kẻ yếu đuối và tánh tình hay dời đổi như vậy có khuyến khích chúng ta cứ phạm tội chăng? Không. Ðó chính là yếu tố khiến ta gớm ghét tội lỗi của mình và quyết định thắng nó.
Ðó cũng là sự yên ủi cho các thánh đồ biết bao! Vì chúng ta càng đi gần Chúa, thì -- mặc dầu dường như mâu thuẫn, -- càng nhận biết địa vị tội lỗi của mình và càng gần sự thương xót của Ngài. Ðó là thật sự trạng đã xảy ra cho các bậc thánh hơn hết.
Ðoạn 16:1-13 -- Người quản gia bất trung
Ðức Chúa Jêsus khen ngợi tánh lo xa của hắn, chớ không phải tánh bất lương của hắn; khen ngợi việc hắn dự bị cho tương lai, chớ không phải cách dự bị gian trá của hắn.
Một "thùng" dầu ước chừng 40 lít. Một "hộc" lúa mì chừng 400 lít.
Người quản gia nầy đã dùng tài vật của chủ mà kết bạn thể nào, thì cũng một thể ấy, Ðức Chúa Jêsus phán rằng chúng ta phải dùng chính của cải mình mà kết bạn. Ðây là một bức tranh tuyệt diệu (câu 9): Những kẻ mà chúng ta đã kết bạn với sẽ đứng ở cửa Thiên đàng mà đón chúng ta vào.
Ðức Chúa Jêsus đã phán mấy lời nặng nề về tiền bạc, hoặc về sự ham mến tiền bạc thì đúng hơn. Ðây Ngài gọi nó là "ma-môn bất nghĩa" (câu 11 -- theo bản tiếng Anh). Sự tham tiền là nguyên nhân của hầu hết trọng tội và của nhiều cuộc chiến tranh tàn khốc. Tham lam là một trong những tội quỉ quyệt và tàn hại hơn hết.
Chúng ta phải có tiền để tự cung cấp những nhu cầu hằng ngày. Song sự tranh đấu ở trong lòng chúng ta, ấy là ta thật hầu việc và nương cậy ai, -- tiền bạc hay là Ðấng ban tiền bạc?
Ðoạn 16:14-18 -- Người Pha-ri-si chế giễu
Họ chế giễu lời dạy của Ðức Chúa Jêsus về tiền bạc, vì họ ham thích tiền bạc, và là bọn đạo đức nhà nghề có tâm trí ham chuộng thế gian.
Ta khó tìm thấy mạch lạc trong những câu luận về Luật pháp và sự ly dị. Có lẽ Ðức Chúa Jêsus định ý phán rằng vì cớ Tin Lành có ảnh hưởng rất sâu xa đến quần chúng, nên bây giờ người Pha-ri-si càng khó binh vực các sự dạy dỗ giả hình của mình. Dầu tự nhận là kẻ bảo tồn Luật pháp, nhưng họ lại không đếm xỉa tới lời Luật pháp dạy về sự ly dị, cứ căn cứ vào một lý do không quan trọng mà cho phép ly dị.
Ðoạn 16:19-31 -- Người giàu có và La-xa-rơ
"Lòng Áp-ra-ham" (câu 22) là một tên của Ba-ra-đi, là tình trạng trung gian trong đó linh hồn người công bình chờ đợi sự sống lại của thân thể. Còn "địa ngục" là tình trạng trung gian của người hư mất chờ đợi sự đoán phạt.
Ðây, Ðức Chúa Jêsus thuật lại cuộc đàm thoại giữa Áp-ra-ham và La-xa-rơ sau khi qua đời. Chúng ta không biết cuộc đàm thoại nầy có tánh cách tưởng tượng tới mức nào. Nhưng ta suy luận, thì thấy Ðức Chúa Jêsus định ý dạy dỗ khá rõ ràng những điểm dưới đây:
Một đằng, lúc thánh đồ qua đời, thì các thiên sứ chực sẵn để rước họ vào nơi vinh hiển.
Ðằng khác, những người hư mất bị đau đớn (câu 23).
Có một vực sâu không vượt qua được ở giữa Ba-ra-đi và địa ngục, ngụ ý rằng khi chết rồi, người ta không còn cơ hội được cứu nữa.
Kinh Thánh hoàn toàn đủ khiến người ta ăn năn (câu 31).
Các mực thước của thế gian nầy sẽ không tồn tại trong cõi thiên thượng. Nhiều người ở đây là đầu, nhưng ở đó sẽ là cuối. Những kẻ cai trị trong đời nầy có thể là đầy tớ trong đời sau. Những người chiếm địa vị cao quí hơn hết trong đời nầy, ngay cả trong Hội Thánh nữa, có thể ở địa vị thấp thỏi nhứt trong đời sau. Lắm người mà các bậc thủ lãnh Hội Thánh đời nay không đếm xỉa tới lại có thể làm chủ của các bậc thủ lãnh ấy trong đời sau (Ma-thi-ơ 19:30; 20:1-16; Mác 10:31).
Thiên đàng và địa ngục
Truyện tích người giàu có và La-xa-rơ là một trong những tia sáng chiếu vào đời sau mà ta thấy được trong sự dạy dỗ của Ðức Chúa Jêsus. Ngài phán rất nhiều về đời sau. Ngài viện dẫn hy vọng đến thiên đàng và mối sợ sa xuống địa ngục. Ngài thường phán về số phận đau khổ của người bị hư mất cũng như địa vị hạnh phước của người được cứu chuộc, và đặt họ đối chiếu nhau (Ma-thi-ơ 5:12, 22, 29, 30; 6:20; 7:21-27; 10:28; 13:39-43, 49-50; 18:8-9; 22:13; 23:33; 25:23, 30, 34, 41, 46; Mác 9:43-48; Lu-ca 12:4-5; 16:22-28; Giăng 3:15-16, 36; 5:24, 28, 29, 39; 6:27, 39-40, 44, 47, 49, 50, 51, 54; 17:2). Hãy chú ý những chữ "Thiên đàng" "địa ngục" và "sự sống đời đời" thường được nhắc đến luôn.
Thật đáng thương hại, vì giới Truyền đạo thời nay chống lại các cớ tích mà Ðức Chúa Jêsus viện dẫn. Có lẽ đó là một trong những lý do gây cho giới Truyền đạo mất nhiều quyền phép quá. Một trong những vị thuốc mạnh nhứt để khuyến khích làm lành và ngăn làm ác trong đời nầy chính là sự tin quyết sâu xa rằng thật có đời sau, và tình trạng của ta trong đời sau tùy theo hành vi của ta trong đời nầy. Một tấm lòng vững vàng chăm chú vào Thiên đàng chắc sẽ khiến ta đi đường nầy cẩn thận hơn. Ðời nầy có lúc chung cuộc. Ðời sau còn đến vô cùng.
Ðoạn 17:1-10 -- Sự tha thứ
Ðây, Ðức Chúa Jêsus ngụ ý rằng sự không chịu tha thứ của chúng ta là nguyên nhân gây cho nhiều người mất linh hồn.
"Kẻ nhỏ" (câu 2) là một danh từ thân ái để gọi các môn đồ, vì họ ở quá xa địa vị Ðức Chúa Jêsus muốn họ ở, nên Ngài coi họ như con đỏ vậy.
Ở Ma-thi-ơ 18:21-35, Phi-e-rơ hỏi Ðức Chúa Jêsus rằng chúng ta phải tha thứ bao nhiêu lần, thì Ngài đáp là "bảy mươi lần bảy." Rồi Ngài chứng minh bằng thí dụ về đầy tớ không thương xót, được tha nợ 10 triệu Mỹ kim, nhưng không chịu tha nợ 17 Mỹ kim cho một người khác.
Bấy giờ các môn đồ kêu lên: "Xin thêm đức tin cho chúng tôi!" (câu 5). Nếu chúng ta phải sẵn lòng tha thứ dường ấy, thì cần có nhiều đức tin để làm được như vậy, -- đức tin nơi Ðức Chúa Trời và nơi sự đắc thắng chung kết của đạo Ðức Chúa Jêsus.
Rồi để giúp đỡ đức tin của họ, Ðức Chúa Jêsus phán về quyền lực vô biên của đức tin (xem ở Lu-ca 18:1-8); và bởi thí dụ về đầy tớ hay vâng lời, Ngài tỏ ra rằng sự khiêm nhường là nền tảng của đức tin.
Ðoạn 17:11-19 -- Mười người phung
Truyện nầy dường như thuật lại chẳng những để ghi một phép lạ của Ðức Chúa Jêsus, song cũng để tỏ ra rằng Ngài vui lòng dùng quyền phép chữa bịnh cho những kẻ thậm chí chẳng cảm ơn Ngài. Như vậy, chứng minh cho tấm lòng nhân ái, không thù giận mà Ngài mới phán dạy đó. Nó cũng giới thiệu phương diện tốt lành của người Sa-ma-ri so sánh với những người cùng chủng tộc với Ðức Chúa Jêsus. Chín người Do-thái phung kia chắc có tâm tình cứng cỏi đến nỗi cũng không cảm tạ Ðức Chúa Jêsus.
Ðoạn 17:20-37 -- Nước hầu đến
Ðức Chúa Jêsus phán cùng người Pha-ri-si rằng: "Nước Ðức Chúa Trời ở trong các ngươi." Ðó là vấn đề tấm lòng. Ðoạn, ý tưởng của Ngài chuyển qua tương lai, và Ngài giải luận cho các môn đồ về ngày vinh hiển Ngài sẽ lấy quyền năng mà ngự đến với những người được cứu chuộc của mọi thời đại (xem ở Ma-thi-ơ, đoạn 24).
Ðoạn 18:1-8 -- Người đờn bà góa khuấy rối
Cũng như truyện tích "Người bạn lúc nửa đêm" ở Lu-ca 11:5-13, truyện tích nầy kể lại vì mục đích đặc biệt, là dạy rằng Ðức Chúa Trời sẽ tôn kính sự cầu nguyện kiên nhẫn, cố quyết, bền đỗ. Ở Ma-thi-ơ 6:7, Ðức Chúa Jêsus cảnh cáo các người "dùng những lời lặp vô ích" và "nói nhiều lời" trong khi cầu nguyện; đó là thói tục của người ngoại đạo "để cho thiên hạ đều thấy" (Ma-thi-ơ 6:5). Rồi Ngài thêm rằng: "Cha các ngươi biết các ngươi cần sự gì trước khi chưa xin Ngài." Ngài như có ý phán dạy rằng: "Chớ hăng hái cứ xin cùng một điều mãi mãi." Làm thế nào để dung hòa điểm ấy với sự bền bỉ của bà góa nầy và sự khuấy rối của "người bạn lúc nửa đêm" (Lu-ca 11:8) mà Ðức Chúa Jêsus đã khen ngợi? Chà, không phải bao giờ cũng dễ dung hòa hai phương diện của bất cứ chân lý nào. Sự ước muốn của chúng ta phải được tiết chế bởi bình tĩnh đầu phục ý chỉ Ðức Chúa Trời. Tuy nhiên, Ðức Chúa Trời thật muốn chúng ta trình bày các sự ước muốn của mình với Ngài, mà không được ngã lòng nếu Ngài chậm đáp lại. Học biết cầu nguyện cho có hiệu quả, đó là một vấn đề đòi sự học hỏi suốt đời và sự khắc kỷ nghiêm nhặt. Có một điều chắc chắn, là chúng ta phải học biết tha thứ thể nào (Mác 11:25). Vả, ở Ma-thi-ơ 7:12, sự cầu nguyện trực tiếp liên quan đến sự thi hành "Luật Vàng." Tuy nhiên, điều kiện trọng yếu duy nhứt là Ðức Tin. nếu giả định rằng chúng ta làm được mọi sự mình có thể làm để đáp lại lời cầu nguyện của mình, thì sẽ thấy các lời hứa của Ðức Chúa Trời cho kẻ nào có ÐỨC TIN thật là kỳ diệu.
Quyền phép của đức tin
Ðức Chúa Jêsus đã cầu nguyện nhiều lắm (xem ở Lu-ca 11:1). Ngài cũng đã phán dạy nhiều lắm về sự cầu nguyện. Dưới đây là một vài lời Ngài đã phán về đức tin như là một phần của hành động cầu nguyện: --
Tại Na-xa-rét, "Ngài không làm nhiều phép lạ, vì chúng không có lòng tin (Ma-thi-ơ 13:58).
Với các môn đồ, giữa cơn bão tố: "Sao các ngươi sợ? chưa có đức tin sao?" (Mác 4:40; Lu-ca 8:25).
Với Giai-ru: "Ðừng sợ, hãy tin mà thôi, thì con ngươi sẽ được cứu" (Lu-ca 8:50).
Với người đờn bà mất huyết: "Ðức tin con đã cứu con" (Mác 5:34).
Viên bách nhân đội trưởng thưa với Ðức Chúa Jêsus: "Xin Chúa chỉ phán một lời, thì đầy tớ tôi sẽ được lành," Ðức Chúa Jêsus phán: "Ta chưa hề thấy ai trong dân Y-sơ-ra-ên có đức tin lớn dường ấy." Và đầy tớ đã được chữa lành (Ma-thi-ơ 8:8, 10, 13).
Với hai người mù: "Hai ngươi tin Ta làm được điều hai ngươi ước ao sao?"... Theo như đức tin các ngươi, phải được thành vậy" (Ma-thi-ơ 9:28, 29).
Với các môn đồ: "Nếu các ngươi có đức tin, và không nghi ngờ chi hết, thì... các ngươi làm được điều đã làm cho cây vả" (Ma-thi-ơ 21:21).
Với người đờn bà Sy-rô-phê-ni-xi: "Hỡi đờn bà kia, ngươi có đức tin lớn, việc phải xảy ra theo ý ngươi muốn" (Ma-thi-ơ 15:28).
Với Phi-e-rơ đang chìm xuống nước: "Hỡi người ít đức tin, sao ngươi hồ nghi làm vậy?" (Ma-thi-ơ 14:31).
Với các môn đồ: "Hỡi dòng dõi chẳng tin kia,... Ta sẽ chịu các ngươi cho đến khi nào?" (Mác 9:19).
Các môn đồ hỏi Ðức Chúa Jêsus: "Vì cớ gì chúng tôi không đuổi quỉ ấy được?" Ðức Chúa Jêsus đáp: "Ấy là tại các ngươi ít đức tin" (Ma-thi-ơ 17:19, 20).
Với các môn đồ: "Nếu các ngươi có đức tin bằng một hột cải, sẽ khiến núi nầy rằng: Hãy dời đây qua đó, thì nó liền dời qua, và không có sự gì mà các ngươi chẳng làm được" (Ma-thi-ơ 17:20); "Trong khi cầu nguyện, các ngươi lấy đức tin xin việc gì bất kỳ, thảy đều được cả" (Ma-thi-ơ 21:22). "Kẻ nào tin, thì mọi việc đều được cả" (Mác 9:23).Xem thêm Mác 11:22-25.
Với Ma-thê, trước mộ phần của La-xa-rơ: "Nếu ngươi tin, thì sẽ thấy sự vinh hiển của Ðức Chúa Trời" (Giăng 11:40).
Với đoàn dân đông ở thành Ca-bê-na-um: "Các ngươi Tin Ðấng mà Ðức Chúa Trời đã sai đến, ấy đó là công việc Ngài" (Giăng 6:29).
Một vài lời phán trên đây giống như cách nói khoa trương (hyperbole) của Ðông phương. Tuy nhiên, cách Ðức Chúa Jêsus nhấn mạnh vào Ðức Tin thật là lạ lùng. Chúng tôi không chắc rằng có thể giải thích xong xuôi những lời phán ấy bằng cách cho đó là "nói khoa trương." Cũng không thể cho rằng những lời lạ lùng, mạnh mẽ nầy chỉ có nghĩa là Ðức Chúa Jêsus ban cho các Sứ đồ những quyền năng lạ lùng đặc biệt như một ấn thiên thượng chứng thực sứ mạng thành lập Hội Thánh của họ. Chúng ta biết Ðức Chúa Jêsus thật đã ban cho các Sứ đồ quyền năng để làm phép lạ, và nếu ta cũng đòi cho được quyền năng ấy, thì thật là dại dột. Chúng ta cũng biết các Sứ đồ không thể tùy ý sử dụng những quyền năng ấy. Có khi họ làm phép lạ được, có khi lại không. Tại Ê-phê-sô, có rất đông người được chữa lành bởi những khăn và áo đã mặc hoặc quấn vào thân thể Phao-lô (Công vụ các sứ đồ 19:12). Nhưng một lần khác, Phao-lô không thể chữa lành ngay cả người cộng sự rất yêu dấu của mình, và ông viết rằng: "Còn Trô-phim đang đau ốm, ta để ở lại tại thành Mi-lê (II Ti-mô-thê 4:20). Vậy, dường như Ðức Chúa Trời dùng trí phán đoán của Ngài để nhứt định khi nào có thể cho các Sứ đồ làm phép lạ.
Khi Ðức Chúa Jêsus phán về Cầu nguyện và Ðức tin, thì Chúa biết Ngài đang giảng luận điều chi, mặc dầu đối với chúng ta, một vài lời của Ngài dường như kỳ lạ. Ngài từ cõi vô hình xuất hiện, và Ngài hoàn toàn quen thuộc các lực lượng và quyền năng hành động phía sau bức màn mà chúng ta chẳng biết chi hết. Chúng ta chẳng nên quá cố quyết giải thích mọi lời Ðức Chúa Jêsus phán về sự cầu nguyện và ráng làm cho mọi lời ấy hợp với trình độ hiểu biết hữu hạn của ta. Nếu chúng ta tự hiến mình để thực hành sự cầu nguyện một cách kiên nhẫn, bền bĩ và chuyên cần đầy đủ, thì ta có cơ được những kết quả mà mình thường chẳng mơ tưởng là có thể được .
Khi Ðức Chúa Jêsus phán những lời đó, chắc Ngài muốn bày tỏ một điều gì. Ngài phán không phải chỉ để một mình Ngài nghe. Chúng tôi nghĩ rằng Ngài nhắm mục đích dạy cả loài người thuộc mọi thế hệ một vài bài học cốt yếu về đời người. Một trong những bài học đó là: Một số phước lành quí nhứt của đời sống có thể thực hiện cho chúng ta miễn là trước hết ta Quyết Tin rằng nó có thể thực hiện; theo một phương diện, Ðức Tin có quyền sáng tạo; trong cõi vô hình có những quyền năng dành sẵn cho chúng ta sử dụng ở thế gian nầy qua môi giới của Ðức Tin nơi Ðức Chúa Trời, là Ðấng cầm trong tay Ngài những công tác và liên công tác của các lực lượng vũ trụ, cũng là Ðấng có thể vận hành những quyền năng mà ta không biết để bổ túc và giúp phần kiểm soát những quyền năng mà ta biết. Ðức Chúa Jêsus phán rằng Ðức Tin của chúng ta có thể khiến Ðức Chúa Trời làm như vậy.
Ðoạn 18:9-14 -- Người Pha-ri-si và người thâu thuế
Người Pha-ri-si tự mãn, còn người thâu thuế ăn năn. Người Pha-ri-si thường cậy sự công bình riêng, giả hình và có thái độ kiêu căng đối với kẻ đồng loại, nên chữ "Pha-ri-si" dường như đồng nghĩa với chữ "giả bộ." Trong thái độ đối với Ðức Chúa Trời, họ cũng có sự tự phụ như vậy, dường như họ tưởng Ngài phải lấy làm vinh hạnh vì được những người trang nhã như vậy thờ kính. Trong tâm hồn Ngài, Ðức Chúa Jêsus ghê tởm sự giả đạo đức. Những lời cay đắng hơn hết mà Ngài từng thốt ra chính là để nghịch cùng sự giả hình của người Pha-ri-si (Ma-thi-ơ 23). Ngài không dung thứ tội lỗi của kẻ thâu thuế và phường điếm đĩ. Ngài đã ngự đến để cứu vớt họ. Họ đã bị nhìn nhận là tội nhân, nên đi bước thứ nhứt và xưng tội lỗi dễ dàng hơn. Thí dụ nầy cốt để tỏ ra rằng căn bản chánh yếu để đến gần Ðức Chúa Trời chính là nhìn nhận mình có tội lỗi và cần được Ngài thương xót.
Ðoạn 18:15-17 -- Con trẻ
Việc nầy cũng chép ở Ma-thi-ơ 19:13-15 và Mác 10:13-16. Ðức Chúa Jêsus vừa mới phán rằng người thâu thuế đi đường cứu rỗi vì đã nhơn tội lỗi mình mà buồn rầu, đau đớn. Ðây, Ngài tỏ ra rằng chỉ những người giống như con trẻ mới được ở Thiên đàng. Trên Thiên đàng sẽ chẳng có những người thích hoa lệ, đi vênh vang dường như họ là chủ của vũ trụ. Hạng người nầy rất đông ở trong Hội Thánh ngày nay. Song trên Thiên đàng không phải như vậy. Ðức Chúa Jêsus phán dạy phân minh rằng: "Nếu các ngươi không đổi lại và nên như đứa trẻ, thì chẳng được vào Nước Thiên đàng đâu" (Ma-thi-ơ 18:3). Con trẻ dễ dạy, hay tin cậy, không kiêu căng, không xảo trá, và hay thương mến. Các môn đồ tưởng con tẻ không quan trọng bao nhiêu, không cần phải để ý tới. Tư tưởng đó làm cho Ðức Chúa Jêsus "giận" (Mác 10:13-14 -- nên dịch là "bất bình").
Ðoạn 18:18-30 -- Ông quan trẻ tuổi và giàu có
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ 19:16-30 và Mác 10:17-31.
"Quan" đây (câu 18) nghĩa là chàng có chơn trong tòa Công luận, hoặc cai quản một nhà hội. Chàng là một thanh niên gương mẫu. Nhưng Ðức Chúa Jêsus biết rõ tấm lòng chàng, và trả lời chàng tùy theo sự biết rõ đó. Ngài bảo chàng hãy bố thí hết gia sản, vì biết chàng chẳng chịu làm môn đồ Ngài nếu phải trả một giá nào.
Chàng quá ham mến tiền của, nên không có ích lợi gì cho Nước Ðấng Christ. Ðức Chúa Jêsus không có ý phán rằng ai cũng phải bỏ hết tiền của, thì mới theo Ngài được. Xa-chê bằng lòng dâng nửa gia sản, và Ðức Chúa Jêsus đã ban ơn cứu rỗi cho ông (Lu-ca 19:9).
Một số người cho rằng "lỗ kim" (câu 25) là cái cổng nhỏ dành cho khách bộ hành, ở trong hoặc ở bên cạnh cổng chánh của thành, một con lạc đà có thể chui qua nếu quì xuống và chịu khó nhọc lắm. Nhưng có số đông hơn nhiều cho rằng thật là một cái kim khâu. Dầu sao Ðức Chúa Jêsus cũng có ý phán tỏ một điều "người ta không làm được" (câu 27). Ðoạn, Ngài đổi ngược lại mà phán rằng: "Sự chi người ta không làm được, thì Ðức Chúa Trời làm được." Nghĩa là Ðức Chúa Trời có thể cứu cả người giàu nữa.
Hãy chú ý lời hứa lạ lùng ban cho những người bỏ hết mọi sự để theo Ðức Chúa Jêsus (câu 28-30). Lời hứa nầy được mở rộng thêm ở Mác 10:28-31 -- "Trong đời nầy, trăm lần hơn... với sự bắt bớ, và sự sống đời đời trong đời sau."
Ðịa vị xã hội của các môn đồ
Phần nhiều môn đồ xuất thân từ các giai cấp thấp thỏi. Nhưng một vài người cũng giàu và có thế lực. Phi-e-rơ, Gia-cơ, Giăng và Anh rê là những tay kinh doanh khá giả. Ma-thi-ơ làm chức thâu thuế, chắc phần tài chánh khả quan. Trong số các bà theo hầu Ðức Chúa Jêsus, có Gian-nơ, vợ quan nội vụ của Hê-rốt, là một mạng phụ trong triều. Ma-thê, Ma-ri và La-xa-rơ ở trong số các gia đình giàu có quanh vùng Giê-ru-sa-lem (xem ở Giăng 12:1-8). Giô-sép ở A-ri-ma-thê và Ni-cô-đem là nhân viên tòa Công luận. Quan thị vệ ở thành Ca-bê-na-um (Giăng 4:46) có lẽ là một sĩ quan trong triều đình Hê-rốt. Viên bách nhân đội trưởng ở thành Ca-bê-na-um, người đã xây nhà hội tại đó (Lu-ca 7:1-10), chắc là một sĩ quan của quân đội La-mã. Xa-chê làm nghề thâu thuế và rất giàu có (Lu-ca 19:2).
Ðoạn 18:31-34 -- Chúa lại dự ngôn về sự thương khó của Ngài
Ðây là lần thứ năm (xem ở Mác 9:30-32). Ngài phán bảo họ bằng lời lẽ hết sức rõ ràng. Song họ vẫn chưa hiểu (câu 34), vì thật là khác hẳn ý niệm của họ về Nước của Ðấng Mê-si.
Ðoạn 18:35-43 -- Người mù ở thành Giê-ri-cô
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ 20:29-34 và Mác 10:46-52. Ma-thi-ơ chép rằng có hai người mù. Mác và Lu-ca chỉ chép có một. Lu-ca chép rằng Ðức Chúa Jêsus đang vào thành Giê-ri-cô. Ma-thi-ơ và Mác chép chép rằng Ngài đang ra khỏi thành đó. Có lẽ một người được chữa lành lúc Ðức Chúa Jêsus vào thành, còn một người được chữa lành lúc Ngài ra khỏi thành. Cũng có thể là hai việc khác hẳn nhau. Có lẽ hơn nữa là cả hai người hoặc một người bị hấp dẫn bởi tiếng ồn ào của dân chúng khi Ðức Chúa Jêsus vào thành, bèn đi theo; đến khi Ðức Chúa Jêsus từ nhà Xa-chê ra đi, thì họ ngồi bên đường, tại nơi họ biết Ngài sẽ đi qua để ra khỏi thành.
Ðoạn 19:1-10 -- Xa-chê
Xa-chê làm đầu những người thâu thuế; ông cai quản một phòng thâu thuế có nhiều nhân viên. Người thâu thuế bị đặt chung hàng với phường điếm đĩ (câu 7; Ma-thi-ơ 21:31-32). Họ thường bị thù ghét vì thâu thuế cho một cường quốc ngoại lai. Giê-ri-cô là một thành của các thầy tế lễ. Ðức Chúa Jêsus chọn nhà người thâu thuế để trọ, chớ không chọn nhà thầy tế lễ. Xa-chê lập tức hối cải, và tỏ ra bằng cớ xác thực rằng mình hối cải. Ðức Chúa Jêsus đã bảo ông quan trẻ tuổi và giàu có kia bố thí "hết" (Lu-ca 18:22). Còn Xa-chê "cho nửa gia tài" (câu 8), thì Ðức Chúa Jêsus tuyên bố ông được hưởng ơn cứu rỗi.
Ðoạn 19:11-28 -- Thí dụ về những nén bạc
Thí dụ nầy có một vài điểm khác thí dụ về các ta lâng (Ma-thi-ơ 25:14-30), nhưng cả hai chứng minh những chân lý đại cương giống nhau: Ấy là chúng ta phải chịu trách nhiệm đối với Chúa về cách sử dụng tài sản và thì giờ của mình; là khi Ðức Chúa Jêsus ngự đến, sẽ có thưởng, phạt; là trong đời nầy, chúng ta đang được huấn luyện cho đời sau. Ðây là một thí dụ về tái lâm của Chúa. "Phương xa" (câu 12) ở thí dụ nầy và "cách lâu ngày" trong thí dụ về các ta lâng (Ma-thi-ơ 25:19) ám chỉ một thời gian lâu dài giữa sự ngự đến lần thứ nhứt và sự tái lâm của Ngài. Các nữ đồng trinh "khôn" đã dự bị cho ngày Chúa tái lâm. Xem thêm ở dưới II Tê-sa-lô-ni-ca 2 và II Phi-e-rơ 3.
Tuần Lễ Sau Chót Của Ðức Chúa Jêsus
(đoạn 19:29 đến đoạn 24)
Ðoạn 19:29-44. Chúa ngự vào thành Giê-ru-sa-lem cách khải hoàn.-- Xem ở Ma-thi- ơ 21:1-11.
Ðoạn 19:45-48. Ðền thờ được dẹp sạch.-- Xem ở Ma-thi-ơ 21:12-17.
Ðoạn 20:1-8. "Bởi quyền phép nào?".-- Xem ở Ma-thi-ơ 21:23-27.
Ðoạn 20:9-20. Thí dụ về vườn nho.-- Xem ở Ma-thi-ơ 21:33-46.
Ðoạn 20:21-26. Nộp thuế cho Sê-sa.-- Xem ở Mác 12:13-17.
Ðoạn 20:27-40. "Sự sống lại."-- Xem ở Mác 12:18-27.
Ðoạn 20:41-44. "Con vua Ða-vít."-- Xem ở Mác 12:35-37.
Ðoạn 20:45-47. Các thầy thông giáo bị tố cáo.-- Xem ở Ma-thi-ơ 23.
Ðoạn 21:1-4. Những đồng tiền của bà góa.-- Xem ở Mác 12:41-44.
Ðoạn 21:5-36. Bài giảng về kỳ sau rốt.-- Xem ở Ma-thi-ơ 24.
Ðoạn 21:37 đến 22:2. Mưu giết Ðức Chúa Jêsus.-- Xem ở Mác 14:1-2.
Ðoạn 22:3-6. Giu-đa đòi giá.-- Xem ở Mác 14:10-11.
Ðoạn 22:7-38. Bữa tối cuối cùng.-- Xem ở Ma-thi-ơ 26:17-29.
Bố Cuộc Thời Gian Tuần Lễ Sau Chót Của ÐỨC CHÚA JÊSUS
Ngày thứ bảy:
|
Tới làng Bê-tha-ni (Giăng 12:1).
Buổi tối: Bữa tối.
|
Chúa nhật:
|
Chúa ngự vào thành Giê-ru-sa-lem cách khải hoàn.
Chúa khóc thành ấy.
|
Ngày thứ hai:
|
Chúa làm cho cây vả khô héo.
Chúa dẹp sạch Ðền thờ.
|
Ngày thứ ba:
|
Ngày cuối cùng của Chúa trong Ðền thờ.
Tòa công luận chất vấn "quyền phép" của Chúa.
Thí dụ về hai con trai.
Thí dụ về vườn nho.
Thí dụ về tiệc cưới.
Câu hỏi về sự nộp thuế cho Sê-sa.
Câu hỏi về sự sống lại.
Ðiều răn nào lớn hơn hết?
Con vua Ða-vít sao lại làm Chúa của vua ấy được?
Một số người Hi-lạp muốn ra mắt Ðức Chúa Jêsus (hoặc ngày thứ hai?)
Tố cáo các thầy thông giáo và người Pha-ri-si một cách khủng khiếp.
Ðức Chúa Jêsus xem bà góa dâng mất đồng tiền.
Dời khỏi Ðền thờ lần chót.
Trên núi Ô-li-ve: Bài giảng quan trọng của Chúa.
Sự hủy phá thành Giê-ru-sa-lem và sự tái lâm của Chúa.
Thí dụ về 10 nữ đồng trinh và về các ta lâng.
Cảnh tượng cuộc phán xét sau cùng.
Giu-đa định giá với các thầy tế lễ (hoặc ngày hôm sau?).
|
Ngày thứ tư:
|
Ngày yên tĩnh tại Bê-tha-ni.
|
Ngày thứ năm:
|
Buổi tối: Bữa ăn tối cuối cùng. Xem lời chú giải ở dưới Ma-thi-ơ 26.
Ban đêm: Sự hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-nê. Xem ở dưới đây.
|
Ngày thứ sáu:
|
Cuộc xét xử và đóng đinh Chúa vào Thập tự giá. Xem ở dưới Mác 15 và Lu-ca 23.
|
Chúa nhật:
|
Ðức Chúa Jêsus từ kẻ chết sống lại. Xem ở dưới Giăng 20 và 21.
|
Ðoạn 22:39-46 -- Sự hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-nê.
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ 26:36-46, Mác 14:32-42 và Giăng 18:1. Ghết-sê-ma-nê là một vườn ở gần chơn phía Tây của núi Ô-li-ve. Vị trí theo truyền thoại ở ngay trước Cổng Vàng (xem bản đồ số 52 ở dưới Giăng 14), cũng không xa vị trí đích thực bao nhiêu.
Loài người bắt đầu ở một cái vườn. Ðức Chúa Jêsus chịu đau đớn hấp hối trong một cái vườn. Ngài bị đóng đinh vào Thập tự giá trong một khu giống như cái vườn và được an táng trong một cái vườn (Giăng 19:41). Thiên đàng cũng sẽ là một cái vườn.
Biến cố đáng thương hơn hết trong cả truyện tích đau đớn của Ðức Chúa Jêsus chính là đêm ở vườn Ghết-sê-ma-nê đó.
Chúng ta tự hỏi sao Ngài sợ chết? Chúng ta đọc truyện nhiều thánh tử đạo bị đốt trên giàn hỏa, nhưng miệng vẫn vui vẻ hát thánh ca. Còn Ðức Chúa Jêsus mà chúng ta kể là mạnh hơn người thường, thì khi đối mặt với sự chết, Ngài lại hành động dường như không thể chịu chết và đã kêu la khổ não để khỏi phải chết nếu có thể được.
Chúng ta tự hỏi tại sao? Chắc Ðức Chúa Jêsus biết Ngài sắp phải chịu một cái gì mà người ta thường không phải chịu khi chết, hoặc ít ra là họ không biết trước mình sẽ phải chịu.
Ðức Chúa Jêsus chịu chết vì tội lỗi loài người. Bất cứ chúng ta nhận lý thuyết nào về sự chuộc tội, Ðức Chúa Jêsus cũng (theo một phương diện nầy hoặc một phương diện khác) đã chết để cứu ta khỏi bị hư mất. Vậy, Ngài phải chịu một cái gì mà ta sẽ phải chịu nếu bị hư mất. Bằng không, thì làm thế nào sự chết của Ngài cứu ta khỏi bị hư mất được?
Bất cứ "cái gì" đó là chi, Ðức Chúa Jêsus cũng sợ nó. Linh hồn Ngài lùi lại vì khiếp sợ nó.
Ðức Chúa Jêsus từ cõi đời đời xuất hiện, và biết Thập tự giá ở cuối đường, vì Ngài biết mình ngự đến với tư cách Chiên Con của Ðức Chúa Trời để cất tội lỗi thế gian đi. Với tư cách một Người, Ngài dời khỏi xứ Ga-li-lê và nhìn thẳng vào thành Giê-ru-sa-lem mà đi tới, chơn bước vững vàng, không hề lưỡng lự, ngần ngại và biết rằng Thập tự giá ở cuối đường.
Nhưng bây giờ Ngài đã tới cuối đường, và cái yếu tố khủng khiếp hiện ra đó. Nó khiến cho Ðức Chúa Jêsus, Con Ðức Chúa Trời cũng có ý muốn quay lại trong giây lát. Lời Ngài dùng trong ba lần cầu nguyện tỏ ra trí óc Ngài nghĩ đến sự "có thể" không đi lên Thập tự giá.
Rồi khi 2, hoặc 3, hoặc 4 giờ lưỡng lự đã qua, và Ngài đã loại ra khỏi trí óc hết các ý tưởng lánh thoát mà cương quyết nhìn thẳng vào Thập tự giá, thì Ngài đổ mồ hôi như giọt huyết và yếu mỏn quá đến nỗi Ðức Chúa Trời phải sai thiên sứ đến bổ sức cho Ngài.
Trong thế gian nầy, chúng ta không bao giờ có thể hiểu biết lẽ mầu nhiệm khủng khiếp của sự chuộc tội, tức là tại sao phải có sự chuộc tội? Nhưng chỉ có sự chuộc tội mới cứu chúng ta được. Truyện tích đơn sơ về sự thương khó của Ðức Chúa Jêsus dầu có bất cứ ý nghĩa nào khác nữa, cũng là ảnh hưởng hạnh phước hơn hết từng có trong thế gian nầy.
Ðoạn 22:47-53. Ðức Chúa Jêsus bị bắt.-- Xem ở Giăng 18:1-12.
Ðoạn 22:54-62. Phi-e-rơ chối Chúa.-- Xem ở Giăng 18:15-18.
Ðoạn 22:54 đến 23:25. Ðức Chúa Jêsus bị xét xử.-- Xem ở Mác 14:53.
Ðoạn 23:26. Si-môn, người xứ Sy-ren.-- Xem ở Ma-thi-ơ 27:32.
Ðoạn 23:27-31 -- Ðoàn dân than khóc
Trên đường đi lên núi Gô-gô-tha. "Ðừng khóc về Ta, song khóc về chính mình các ngươi và về con cái các ngươi" (câu 28). Lời Chúa phán đây dường như là hồi thanh của những tiếng kêu sát nhân mà họ vừa mới nghe: "Xin Huyết Người lại đổ trên chúng tôi và con cái chúng tôi!" (Ma-thi-ơ 27:25). "Cây xanh,... cây khô" (câu 31). Nếu họ đối đãi Ta cách nầy, thì sẽ có gì xảy ra trong cơn đoán phạt sắp giáng trên thành gian ác nầy?
Ðoạn 23:32-49 -- Chúa chịu đóng đinh vào Thập tự giá
Cũng xem ở Ma-thi-ơ 27:26-56; Mác 15:21-41; và Giăng 19:17-37.
Ðoạn 23:32-43 -- Người trộm cướp ăn năn
Thoạt tiên cả hai tên trộm cướp cùng nhạo báng Chúa (Ma-thi-ơ 27:44). Nhưng một người đã thay đổi ý kiến. Khi mọi sự yên tĩnh, hắn đổi ra suy nghĩ cẩn trọng hơn. Và theo một phương diện, hắn đã làm cho các môn đồ phải hổ thẹn. Trong 2 năm hoặc hơn nữa. Ðức Chúa Jêsus đã hết sức cố gắng dạy họ rằng Nước Ngài không phải một nước ở trần gian nầy. Bây giờ Ngài gần chết. Ðối với họ, thế là Nước Ngài không còn nữa. Họ không hề nghĩ rằng Ngài sẽ sống lại để trị vì vinh hiển (xem lời chú giải về "sự chậm hiểu của các môn đồ, v.v..." ở dưới Giăng, đoạn 20). Nhưng đối với người trộm cướp nầy, thì không như vậy. Có lẽ hắn đã gặp Ðức Chúa Jêsus từ trước, và từ ngoài bìa đám đông, hắn đã nghe Ngài giảng về Nước Ngài. Và dầu lúc nầy Ðức Chúa Jêsus đang hấp hối, người trộm cướp cũng còn tin rằng Ngài có một Nước ở bên kia phần mộ (câu 42). Thật là kỳ lạ! Một người trộm cướp hiểu biết Ðức Chúa Jêsus hơn chính các bạn hữu thân thiết của Ngài! Ðáng ngợi khen Ðức Chúa Jêsus thay! Chắc Ngài yêu thương tội nhân. Khi trở về cùng Ðức Chúa Trời, Ngài bồng trong tay linh hồn một người trộm cướp, là trái đầu mùa do sứ mạng cứu chuộc thế gian của Ngài.
Chúa chịu đóng đinh vào Thập tự giá
Sự đóng đinh vào thập tự giá là hình phạt của đế quốc La-mã dành cho tôi mọi, người ngoại quốc và những phạm nhân xấu xa hơn hết không có quốc tịch La-mã. Ðó là tử hình đau đớn, nhục nhã hơn hết mà một thời đại tàn ác có thể nghĩ ra. Ðinh đóng vào bàn tay, bàn chơn, rồi nạn nhân bị treo lên, mặc cho hấp hối, đói, khát, không sao chịu nổi và đau đớn co quắp dữ dội. Thường thì từ 4 đến 6 ngày sau mới chết. Trong trường hợp của Ðức Chúa Jêsus, Ngài đã chết sau 6 giờ (xem ở dưới Giăng 19:33-34).
"Thập tự giá của Chúa."
Theo một truyền thoại, thì năm 325 S.C., người ta đã tìm thấy chính Thập tự giá mà Ðức Chúa Jêsus bị đóng đinh vào đó ở dưới vị trí hiện nay xây Nhà thờ Mộ Thánh lên trên. Thập tự giá của Chúa được nhận ra bởi phép lạ chữa bịnh cho một người đụng tới nó. Người ta đem bán những mảnh nhỏ. Khách mua đông quá đến nỗi họ bịa đặt phép lạ "Thập tự giá tự hóa ra nhiều," ngõ hầu có thể gỡ lấy nhiều mảnh, mà Thập tự giá vẫn còn nguyên. Kết quả là trong các nhà thờ kia ở khắp thế giới có đủ mảnh "Thập tự giá của Chúa" để làm ra cả ngàn Thập tự giá. Ðó là sự giả mạo để rút tiền của những kẻ dễ tin.
Ðoạn 23:50-56. Sự an táng Chúa.-- Xem ở Giăng 19:38-42.
Bố Cuộc Truyện Tích ÐỨức Chúa Jêsus
Bị Ðóng Ðinh Vào Thập Tự Giá
Căn cứ vào bốn bản tường thuật mà sắp theo thứ tự
Lúc 9 giờ sáng, họ tới núi Gô-gô-tha. Lúc gần đóng đinh vào bàn tay và bàn chơn của Chúa, thì chúng cho Ngài uống rượu trộn với mật đắng để làm cho Ngài tê mê và bớt thấy đau đớn. Nhưng Ngài chẳng chịu uống. Chúa yêu quí đã chịu sự đau đớn đầy trọn vì cớ chúng ta; và vì cớ đó, chúng ta kính mến Ngài.
Ðang khi chúng đóng đinh Ngài vào thập tự giá, thì Ngài cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì" (Lu-ca 23:34). Ngay khi đọc truyện nầy, chúng ta cũng khó cầm giữ được lòng giận. Ngài lại càng khó cầm giữ được lòng giận bội phần hơn. Nhưng Ngài tuyệt đối không thù giận. Thật là sự tự chủ lạ thường!
Quân lính chia nhau áo xống Ngài. Tấm bảng: "Vua dân Giu-đa" được đặt trên đầu Ngài, viết bằng ba thứ tiếng: Hê-bơ-rơ, La-tinh và Hi-lạp, ngõ hầu mọi người có thể đọc và hiểu Ngài đã bị cáo trọng tội nào.
Ngài bị nhạo báng, chế giễu, chê cười bởi các thầy tế lễ cả, trưởng lão, thầy thông giáo và quân lính. Thật là một đoàn người cứng lòng, vô nhân đạo, tàn ác, đáng khinh dể biết bao!
Chúa phán lời nầy với người trộm cướp ăn năn rằng: "Hôm nay, ngươi sẽ được ở với Ta trong nơi Ba-ra-đi." Có lẽ Ngài phán lời nầy một hoặc hai giờ sau (xem ở Lu-ca 23:32-43).
"Hỡi đờn bà kia, đó là con của ngươi!" Rồi Ngài phán với Giăng: "Ðó là mẹ ngươi!" (Giăng 19:26, 27). Có lẽ Ngài phán những lời nầy lúc trời gần về trưa, sau khi đám dân nhạo báng đã bỏ đi. Sự chết vinh hiển thay! Ngài cầu nguyện cho kẻ giết mình, hứa cho người trộm cướp được vào Thiên đàng, và tìm nơi ở cho mẹ Ngài (đây là hành động sau chót của Ngài trên mặt đất).
Trời tối tăm từ trưa đến 3 giờ chiều. Ba giờ đầu của Ngài trên Thập tự giá được đánh dấu bằng những lời thương xót và nhơn ái. Bây giờ Ngài bước vào giai đoạn cuối cùng của sự chuộc tội loài người. Có lẽ màn tối tăm tượng trưng cho sự rút lui của Ðức Chúa Trời, ngõ hầu có một hành động chuộc tội hoàn toàn. Trong thế gian nầy, chúng ta không bao giờ có thể biết Ðức Chúa Jêsus đã chịu đau đớn chừng nào trong 3 giờ khủng khiếp sau chót đó (xem ở Giăng 19:33-34).
Ðây, bốn lời cuối cùng Ngài đã thốt ra ngay trước khi trút linh hồn:
"Ðức Chúa Trời tôi ôi! Ðức Chúa Trời tôi ôi! Sao Ngài lìa bỏ tôi? (Ma-thi-ơ 27:46). Một mình Ngài chịu sự đau đớn của địa ngục để giữ cho chúng ta khỏi sa vào dó.
"Ta khát" (Giăng 19:28). Cơn sốt bừng bừng của cơn khát không chịu nổi vẫn cập theo sự đóng đinh vào Thập tự giá. Lời Chúa phán đây có lẽ còn có ý nghĩa hơn nữa (xem Lu-ca 16:24). Họ đưa giấm cho Ngài. Ngài chịu lấy giấm vì mọi sự thương khó đã qua hết.
"Mọi việc đã được trọn" (Giăng 19:30). Tiếng kêu khải hoàn, nguôi nhẹ và vui mừng! Ðời trị vì lâu dài của tội lỗi loài người và của sự chết đã bị phá tan.
"Hỡi Cha, tôi giao linh hồn lại trong tay Cha" (Lu-ca 23:46). Ngài vào Ba-ra-đi.
Có cơn động đất, bức màn xé làm hai, và nhiều mồ mả mở ra. Ðó là Ðức Chúa Trời đón chào Ngài.
Viên bách nhân đội trưởng đã tin. Còn dân chúng thì sầu thảm.
"Máu và nước" từ ngang sườn Ngài chảy ra. Xem ở Giăng 19:34.
Giô-sép và Ni-cô-đem xin xác Ngài để an táng.
Ðêm tối bao trùm tội ác đen tối và ghê gớm hơn hết trong lịch sử.
Ðoạn 24:1-10. Các bà tại phần mộ Chúa.-- Xem ở Ma-thi-ơ 28:1-8.
Ðoạn 24:11-12. Phi-e-rơ chạy đến phần mộ Chúa.-- Xem ở Giăng 20:3-10.
Ðoạn 24:13-32 -- Ðức Chúa Jêsus hiện ra với hai môn đồ
Việc nầy cũng được chép ở Mác 16:12-13, và đã xảy ra trên đường đi Em-ma-út. Người ta cho rằng Em-ma-út ở trên đường đi Giốp-bê, và cách thành Giê-ru-sa-lem chừng 7 dặm (60 ếch-ta-đơ -- câu 13) về phía Tây bắc, đi bộ hết 2 hoặc 3 giờ. Có lẽ Em-ma-út là quê hương của hai môn đồ nầy; một người tên là Cô-lê-ô-ba, còn một người thì không chép tên; ta không biết chi hết về hai người nầy.
Lúc đó đã xế chiều. Hồi sáng sớm, Ðức Chúa Jêsus đã hiện ra với Ma-ri Ma-đơ-len (Mác 16:9-11; Giăng 20:11-18) và với mấy bà khác (Ma-thi-ơ 28:9-10). Nhưng hai môn đồ nầy chỉ nghe thuật lại rằng mộ phần trống rỗng và thiên sứ báo tin Ðức Chúa Jêsus đã sống lại (câu 22-24).
"Hỡi những kẻ dại dột" (câu 25). Ðây, Chúa trách nhẹ nhàng trách họ có tâm trí thiêng liêng ngây thơ.
Ðoạn 24:33-35 -- Ðức Chúa Jêsus hiện ra với Phi-e-rơ
Không nói rõ thì giờ. Có lẽ là ngay trước khi hoặc ngay sau khi Ngài hiện ra với hai môn đồ kia, vào buổi chiều. Lúc sáng sớm, Ngài đã cậy thiên sứ và mấy bà nhắn tin đặc biệt cho Phi-e-rơ (Mác 16:7). Xem lời chú giải ở đó.
Ðoạn 24:36-43 -- Ðức Chúa Jêsus hiện ra với 11 Sứ đồ
Cũng xem ở Mác 16:14-18 và Giăng 20:19-23. "Mười một Sứ đồ" (câu 33) là danh từ chỉ về một nhóm người. Trong trường hợp nầy, chỉ có 10 Sứ đồ thôi, vì Thô-ma vắng mặt (Giăng 20:24). Hãy chú ý lòng tin hớn hở của hai môn đồ (câu 34); tuy nhiên, các Sứ đồ vẫn "chưa tin chắc" (câu 41), cả sau khi Chúa đã giơ bàn tay và bàn chơn cho họ xem. Tin và nghi thay phiên nhau. Dường như kỳ diệu quá đến nỗi không thể tin là thật. Họ không thể tin con mắt mình đã thấy đúng. Xem thêm lời chú giải ở dưới Giăng, đoạn 20.
Một tuần lễ sau, Ngài hiện ra với 11 Sứ đồ, tại Giê-ru-sa-lem (Giăng 20:26-29).
Sau đó, với 7 Sứ đồ, trên bờ biển Ga-li-lê (Giăng, đoạn 21).
Lại hiện ra với 11 Sứ đồ trên một ngọn núi thuộc xứ Ga-li-lê (Ma-thi-ơ 28:16-20).
Và với Gia-cơ, không biết lúc nào và tại đâu (I Cô-rinh-tô 15:7).
Ðoạn 24:44-53 -- Chúa hiện ra lần cuối cùng và ngự lên trời
Việc nầy cũng có chép ở Mác 16:19 và Công vụ các sứ đồ 1:3-12. Câu 44-49 dường như thuộc về sự hiện ra cuối cùng của Chúa, chớ không thuộc về sự hiện ra vừa mới chép ở câu 36-43. Ấy vì rõ ràng lắm, sự hiện ra ở câu 36-43 nhằm buổi tối Chúa nhật thứ nhứt, còn ở đây thì Chúa bảo họ "hãy đợi trong thành Giê-ru-sa-lem" (câu 49); dĩ nhiên họ "đợi" sau khi đã đi tới xứ Ga-li-lê và trở về Giê-ru-sa-lem rồi. Ðoạn, Ngài dẫn họ ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem, tới làng Bê-tha-ni yêu dấu. 40 ngày thi hành chức vụ sau khi sống lại đã chấm dứt, sứ mạng trên mặt đất đã xong, các thiên sứ chầu chực bèn họp thành xe rước Cứu Chúa toàn thắng.
So Sánh 4 Bản Tường Thuật Sự Sống Lại Của Ðức Chúa Jêsus
Ma-thi-ơ:
|
Các bà đi thăm phần mộ.
|
Ðức Chúa Jêsus hiện ra với các bà.
| |
Bọn lính gác nhận hối lộ.
| |
Ðức Chúa Jêsus hiện ra với 11 Sứ đồ tại xứ Ga-li-lê.
| |
Mác:
|
Các bà đi thăm phần mộ.
|
Ðức Chúa Jêsus hiện ra với Ma-ri Ma-đơ-len.
| |
Với hai môn đồ, trên đường về Em-ma-út.
| |
Với 11 Sứ đồ, tại Giê-ru-sa-lem, buổi tối thứ nhứt (sau khi sống lại).
| |
Chúa ngự lên trời.
| |
Lu-ca:
|
Các bà đi thăm phần mộ.
|
Phi-e-rơ chạy tới phần mộ.
| |
Ðức Chúa Jêsus hiện ra với hai môn đồ và với Phi-e-rơ.
| |
Với 11 Sứ đồ, tại Giê-ru-sa-lem, buổi tối thứ nhứt (sau khi sống lại).
| |
Sự hiện ra cuối cùng, 40 ngày sau.
| |
Chúa ngự lên trời.
| |
Giăng:
|
Ma-ri Ma-đơ-len đi thăm phần mộ.
|
Phi-e-rơ và Giăng chạy tới phần mộ.
| |
Ðức Chúa Jêsus hiện ra với Ma-ri Ma-đơ-len.
| |
Với 11 Sứ đồ, buổI tối thứ nhứt (sau khi sống lại), không có mặt Thô-ma.
| |
Với 11 Sứ đồ, một tuần lễ sau, có mặt Thô-ma.
| |
Với 7 Sứ đồ; trên bờ biển Ga-li-lê.
|
Những Sự Hiện Ra Của Ðức Chúa Jêsus Sau Khi Ngài Sống Lại
1. Với Ma-ri Ma-đơ-len (Mác 16:9-10), lúc sáng sớm.
2. Với các bà khác (Ma-thi-ơ 28:9-10), lúc sáng sớm.
3. Với hai môn đồ, trên đường về Em-ma-út (Mác 16:12-13; Lu-ca 21:13-32).
4. Với Phi-e-rơ (Lu-ca 24:34), một lúc nào trong ngày đó.
5. Với 11 Sứ đồ (Mác 16:14; Lu-ca 24:26; Giăng 20:19), chính buổi tối đó.
6. Với 11 Sứ đồ (Giăng 20:16-31), một tuần lễ sau, có mặt Thô-ma.
7. Với 7 Sứ đồ, trên bờ biển Ga-li-lê (Giăng 21).
8. Với 11 Sứ đồ (và 500 anh em?), trên một ngọn núi xứ Ga-li-lê (Ma-thi-ơ 28:16-29).
9. Với Gia-cơ (I Cô-rinh-tô 15:7), không biết lúc nào và tại đâu.
10. Sự hiện ra cuối cùng và ngự lên trời (Mác 16:19; Lu-ca 24:44; Công vụ các sứ đồ 1:3-11).
Về sau, Ðức Chúa Jêsus đi một chuyến đặc biệt từ Thiên đàng xuống, hiện ra với Phao-lô.
Tại I Cô-rinh-tô 15:5-8, tức là 27 năm sau khi Chúa sống lại, Phao-lô liệt kê những sự hiện ra của Chúa như vầy: "Ngài đã hiện ra cho Sê-pha, sau lại hiện ra cho 12 Sứ đồ. Rồi đó, cùng trong một lần, Ngài hiện ra cho hơn 500 anh em xem thấy... Ðoạn, Ngài hiện ra cho Gia-cơ, rồi cho các Sứ đồ. Rốt lại, sau những người ấy, Ngài cũng hiện ra cho tôi xem."
Sách Công vụ các sứ đồ 1:2 chép rằng: "Ngài lấy nhiều chứng cớ tỏ ra mình là sống, và hiện đến với các Sứ đồ trong 40 ngày, phán bảo những sự về Nước Ðức Chúa Trời." Lời chép đó cùng với các lời chép tương tự ở Công vụ các sứ đồ 10:41 và 13:31, ngụ ý rằng có lẽ Ngài còn hiện ra nhiều lần khác ngoài những lần chép trong Kinh Thánh, và có lẽ chức vụ của Ngài sau khi sống lại còn trọng đại hơn là chúng ta được biết.