Ở VỚI ĐỨC CHÚA
TRỜI MÃI MÃI
Kinh
Thánh:
Khải-huyền đoạn 21 và 22
Câu
gốc:
“Và chúng sẽ không cần đến ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trời; Vì Chúa là Đức
Chúa Trời sẽ soi sáng cho và chúng sẽ trị vì đời đời” (Khải-huyền
22:5)
Mục
đích:
“Cho chúng ta thấy rằng Đức Chúa Trời đang sửa soạn một chỗ cho con cái Ngài
sống đời đời với Ngài. Chúng ta có thể vào chỗ đó nếu chúng ta tin nhận Chúa
Jêsus Christ làm Cứu Chúa của mình.
Kinh
Thánh đọc hằng ngày
Chúa Nhật:
|
TRỜI MỚI VÀ ĐẤT MỚI
|
(Khải-huyền 21:1-8)
|
Thứ Hai:
|
GIÊ-RU-SA-LEM MỚI
|
(Khải-huyền 21:9-27)
|
Thứ Ba:
|
ĐỊA ĐÀNG MỚI
|
(Khải-huyền 22:1-17)
|
Thứ Tư:
|
MỘT CHỖ ĐÃ ĐƯỢC SẮM SẴN
|
(Giăng 14:1-11)
|
Thứ Năm:
|
THẾ GIAN BỊ LỬA HỦY DIỆT
|
(Ê-sai 51:6, Mi-chê 1:4; IIPhi-e-rơ
3:4-15)
|
Thứ Sáu:
|
TRỜI MỚI VÀ ĐẤT MỚI
|
(Ê-sai 65:17-25)
|
Thứ Bảy:
|
NGÔI ĐỜI ĐỜI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
|
(Khải-huyền
22:11)
|
Nhờ
Kinh Thánh như một viễn vọng kính, chúng ta vượt qua giới hạn của thời gian để
nhìn vào cõi đời đời. Chúng ta hãy đọc kỹ các phần: KINH THÁNH ĐỌC HẰNG NGÀY và
cầu nguyện để thấy rõ tương lai của chúng ta.
Chúa
cho chúng ta biết là các công trình của loài người là chỉ để dành cho lửa
(Giê-rê-mi 51:58; Ha-ba-cúc 2:13). Trời đất sẽ qua đi (Ma-thi-ơ 24:35;
Khải-huyền 21:1). Trời đất sẽ bị lửa hủy diệt (IIPhi-e-rơ 3:7,10,12). Đang khi
đó, Chúa sẵm sẵn một nơi để chúng ta ở đời đời với Ngài (Gi 14:1-3). Đó là thiên
đàng.
I.
THIÊN ĐÀNG LÀ MỘT THÀNH PHỐ KỲ DIỆU
Tại
trần gian, không hề có một thành phố nào như thành phố nầy (Hãy hát những bài
hát về THIÊN ĐÀNG trong Thánh Ca từ số 338-346 và 425).
1.
Không còn đau khổ mà chỉ có vui mừng (Khải-huyền 21:4). Nước mắt đã ráo. Chết
chóc không còn, tang chế buồn thảm đã qua rồi. Tại đó ai nấy vui mừng bằng một
sự vui mừng thánh khiết, trường cửu mà không xen lẫn một nỗi đau thương nào.
Lòng vui mà cảnh cũng vui.
2.
Đầy vinh quang thiên thượng (Khải-huyền 21:10-21). Tường thì bằng bích ngọc,
thành bằng vàng ròng như pha lê trong suốt, nền bằng đủ mọi thứ ngọc, mười hai
cửa bằng mười hai ngọc châu, đường đi cũng bằng vàng ròng trong suốt như pha lê.
Chắc còn nhiều điều kỳ diệu khác mà tiếng của loài người không có để mô
tả.
Chẳng
ai có thể xây một thành phố như vậy. Vì thế, dầu giàu có, Áp-ra-ham đã suốt đời
sống trong trại. Nếu có ai hỏi tại sao, ông đáp: “Tôi chờ đợi một thành có nền
vững chắc mà Đức Chúa Trời đã xây cất và sáng lập” (Hê-bơ-rơ 11:10). Cũng
như Áp-ra-ham, các thánh đồ đã thiết tha
mong mỏi một quê hương tốt hơn, là quê hương trên trời (Hê-bơ-rơ
11:6).
3.
Không còn ban đêm (Khải-huyền 21:23-25; 22:4, 5). Tại trần gian này chúng ta cần
có ban đêm để ngủ nghỉ, song cũng cần có ánh sáng mặt trời, mặt trăng mới sống
được. Nhưng vì có ban đêm nên cửa phải đóng, tủ phải khóa mà vẫn còn lo
sợ.
Trên
thiên đàng không cần đèn, cũng không cần mặt trời, mặt trăng, vì vinh quang của
Đức Chúa Trời lòa hơn mặt trời. Ban đêm không còn; không còn có một bóng tối nào
tại đó. Cũng không có ai mệt mỏi mà cần phải ngủ nghỉ. Cửa không bao giờ đóng mà
chẳng có chút lo sợ.
4.
Không còn tội lỗi (Khải-huyền 21:27). Không còn có một tội nhân nào được vào
thiên đàng nên không có một bóng dáng tội lỗi nào ở đó. Bây giờ, chúng ta cần
phải có tấm lòng mới, song sống trong trời đất cũ, có cuộc sống thánh khiết song
ở giữa tội lỗi bao trùm. Chừng đó, chúng ta không cần những tấm lòng mới, mà
cũng có thân thể mới, sống trong trời đất mới, có cuộc sống thánh khiết và sống
trong cảnh thánh khiết.
5.
Ai nấy được hầu việc Đức Chúa Trời (Khải-huyền 22:3): Không phải trên thiên đàng
chúng ta không cần làm chi hết mà thành người ở dưng. Người có giá trị, có hạnh
phúc là người làm việc. Trước khi phạm tội, A-đam được “Giê-hô-va Đức Chúa Trời
đem người vào cảnh vườn Ê-đen để trồng và giữ vườn” (Sáng-thế Ký 2:15). Trên
thiên đàng cũng vậy, chúng ta vẫn tiếp tục tôn thờ, phục vụ Chúa. Nhưng phục vụ
mà vẫn yên nghỉ, phục vụ mà không hề mệt mỏi, không hề băn khoăn, phục vụ một
cách vui vẻ, thỏa mãn, tức là “sẽ trị vì đời đời” (Khải-huyền 22:5). Khi các đầy
tớ đã trung tín về các ta lâng chủ giao, thì chủ đáp: “…ta sẽ lập ngươi coi sóc
nhiều; hãy đến, hưởng sự vui mừng của chúa ngươi” (Ma-thi-ơ 25:21-23). Khi các
đầy tớ đã trung tín về nén bạc mà vua giao cho, thì vua đáp: “… Ngươi sẽ được
cai trị mười thành… Ngươi được cai trị năm thành” (Lu-ca
19:17-19).
Chính
vì đó mà Đa-ni-ên đã nói: “Nhưng các thánh của Đấng rất cao sẽ nhận lấy nước và
được nước làm của mình đời đời, cho đến vô cùng” (Đa-ni-ên 7:18). Phao-lô cũng
nêu lên ý ấy: “Lại nêáu chúng ta chịu nổi thử thách ấy, thì sẽ cùng Ngài đồng
trị” (IITi-mô-thê 2:12).
Được
sống mãi mãi trong một thành phố như vậy, thật không có gì hạnh phúc bằng. Chúa
sẽ lo liệu cho chúng ta vượt quá xa mọi điều chúng ta ao ước, Chúa biết tất cả
các nhu cầu của chúng ta hơn chúng ta biết, Ngài sẽ cung ứng mọi nhu cầu
đó.
II.
ĐIỀU KIỆN VÀO THIÊN ĐÀNG
Khi
một người từ nước này sang nước kia phải có những điều kiện, lắm khi phiền phức,
phương chi từ đất lên trời, từ trần gian lên thiên đàng. Vậy ai được vào? Muốn
vào phải có điều kiện nào?
1.
Những kẻ không được vào (Khải-huyền 21:8, 27; 22:15): Đó là những kẻ hèn nhát,
chẳng tin, gớm ghiếc, giết người, gian dâm, phù phép, thờ hình tượng, nói dối, ô
uế. Những kẻ nầy không có phần gì trong thiên đàng, không có chỗ nào dành cho họ
trên đó. Song chỗ của họ là hồ lửa đời đời.
Lại
những loài chó, kẻ thuật sĩ, kẻ tà dâm, giết người, kẻ thờ hình tượng và ưa nói
dối, làm dối, đều ở ngoài hết thảy. Có người đã phạm tôi mà không chịu ăn năn,
lại dám liều lĩnh mà nói rằng: “Miễn là tôi được vào thiên đàng, làm con chó tại
đó cũng được”. Câu Kinh Thánh trên đây cho biết, không có con chó nào được vào
thiên đàng. Ai nói vậy, hãy thức tỉnh và ăn năn kịp thời, đừng liều lĩnh nữa mà
phải hối tiếc đời đời.
2.
Những kẻ được vào (Khải-huyền 21:27b, 22:14): “Nhưng chỉ có những kẻ được biên
tên vào sách sự sống của Chiên Con”. Đó là những kẻ đã được sanh bởi Đức Chúa
Trời tại Siôn và đã được Ngài biên vào sổ của Ngài (Thi 87:6). Chỉ có con cái
mới được kế tự cha và hưởng cơ nghiệp của cha (Rô-ma 8:17; Ga-la-ti
4:7)
Làm
sao để được vào thiên đàng? “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài (Jêsus) thì Ngài ban cho
quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài, là
kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người. Nhưng sanh
bởi Đức Chúa Trời vậy”. “… Hết thảy của Cha là của con” (Giăng 1:12, 13; Lu-ca
15:31).
Khi
nữ hoàng nước Sê-ba nghe thiên hạ nói về sự khôn ngoan, giàu có và quyền thể của
vua Sa-lô-môn, thì bà không tin, cho rằng người ta đồn đại quá sự thật, chứ làm
gì có. Song khi người ta đã nói rất nhiều thì bà bắt đầu quan tâm, nên đã đích
thân đến Giê-ru-sa-lem để nghe, để thấy sự thật. Sau khi đã tiếp xúc với
Sa-lô-môn, quan sát mọi sự, bà nói: “Điều tôi nghe nói trong xứ tôi về lời nói
và sự khôn ngoan của vua thì thật lắm. Song trước khi tôi đi đến đây và chưa
thấy tận mắt những điều nầy thì tôi chẳng tin, và kìa, người ta chẳng nói đến
được phân nửa! Sự khôn ngoan và oai nghi của vua trổi hơn tiếng đồn mà tôi đã
nghe” (ICác Vua 10:6-7).
Sa-lô-môn
chỉ là một ông vua ở đời nầy mà đã làm ngạc nhiên một nữ vương lân cận, phương
chi là Đức Chúa Trời, Vua của các vua, thì làm cho chúng ta ngạc nhiên dường
nào, khi chúng ta vào bệ kiến Ngài tại thiên đàng!
Trước
viễn cảnh kỳ diệu của thiên đàng, Phao-lô nói: “Tôi tưởng rằng những sự đau đớn
bây giờ chẳng đáng so sánh với sự hầu đến, là sự sẽ được bày ra trong chúng ta…
Vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta sanh cho chúng ta sự vinh hiển cao trọng,
đời đời, vô lượng, vô biên” (Rô-ma 8:18; IICô-rinh-tô
4:17).
CÂU
HỎI
1.
Quả
đất hay là thế gian này rồi sẽ ra sao?
2.
Nơi
mà Chúa sắm sẵn cho chúng ta là gì?
3.
Thiên
đàng khác hơn thế gian thế nào?
4.
Thiên
thành làm bằng những gì?
5.
Áp-ra-ham
và các thánh đồ đã mong ước gì?
6.
Trên
thiên đàng còn việc gì cho chúng ta làm?
7.
Ai
được vào thiên đàng?
8.
Ai
không được vào thiên đàng?
9.
Muốn
vào thiên đàng phải làm sao?
10.
Chúng
ta sẽ có thái độ nào khi vào thiên đàng?
11.
Phao-lô
khích lệ chúng ta thể nào khi hướng lòng về thiên đàng?