Tánh chất căn bản của công việc Ðấng Christ
Nền tảng của địa vị loài người trước mặt Ðấng Tạo Hóa
Theo ý kiến nhiều người, thì thơ Rô-ma là sách quan trọng hơn hết trong Kinh Thánh sau 4 sách Tin Lành, vì nó là bài Phao-lô giải thích đầy đủ về cách ông hiểu biết tánh chất của Tin Lành, và vì Phao-lô được Ðức Chúa Trời lựa chọn đứng đầu những nhà giải thích Tin Lành. Ông Coleridge gọi thơ Rô-ma là "Tác phẩm sâu nhiệm hơn hết từng có xưa nay."
Khó hiểu. Chúng ta thường nghĩ rằng thơ Rô-ma khó hiểu. Có hai lý do khiến ta nghĩ như vậy. Một là bút pháp của Phao-lô. Ông có thói quen bắt đầu một câu, rồi đi ra ngoài đề, ra ngoài đề mãi, đền nỗi trong một vài trường hợp, các câu văn không thay đổi ý tưởng vừa mới bày tỏ, mà lại thay đổi một ý tưởng bày tỏ ở trước xa, làm cho ta khó tìm thấy mạch lạc. Còn lý do khác là thơ Rô-ma giải luận một vấn đề mà đối với chúng ta thì không thành vấn đề chi hết, nhưng đương thời ấy thì là một vấn đề linh động, nóng hổi: Ấy là người dân ngoại có thể trở thành tín đồ Ðấng Christ mà không cần trở lại đạo Do-thái chăng? Chúng ta thường nghĩ rằng đạo Ðấng Christ là một đạo của dân ngoại, vì rất ít người Do-thái tin theo Ngài. Nhưng lúc đầu đạo Ðấng Christ là đạo của người Do-thái, và một số thủ lãnh Do-thái có thế lực đã quyết định phải cứ giữ nguyên như vậy.
Bối cảnh của thơ Rô-ma là người Do-thái thường tin rằng luật pháp của Môi-se có tánh cách chung kết để bày tỏ ý chỉ Ðức Chúa Trời và bổn phận loài người; bối cảnh ấy lại cũng là người Do-thái nhấn mạnh rằng người dân ngoại muốn trở nên tín đồ Ðấng Christ, thì phải chịu phép cắt bì và vâng giữ luật pháp Môi-se. Vậy, vấn đề nầy vấn vương tâm trí mọi người. Phép cắt bì là một nghi lễ trong thân thể, được coi như lễ đầu tiên để nhập quốc tịch Do-thái.
Phao-lô nhấn mạnh đặc biệt rằng sự xưng loài người là công bình trước mặt Ðức Chúa Trời không căn cứ trên luật pháp Môi-se, nhưng trên lòng thương xót của Ðấng Christ. Ðây không phải là một vấn đề luật pháp chi hết, vì loài người, nhơn cớ bổn tánh tội lỗi của mình, không thể nào sống đúng theo luật pháp Ðức Chúa Trời -- vả, luật pháp là cách Ðức Chúa Trời bày tỏ sự thánh khiết của Ngài. Nhưng đây hoàn toàn là vì Ðấng Christ tha thứ tội lỗi người ta nhơn cớ lòng nhơn ái của Ngài. Trong lời phân tích trên kia, địa vị loài người ở trước mặt Ðức Chúa Trời chẳng tùy thuộc việc họ đã làm hoặc có thể làm cho mình, song tùy thuộc việc Ðấng Christ đã làm cho họ. Vậy nên Ðấng Christ có quyền được mọi người phục tùng, trung thành sùng kính một cách tuyệt đối và hết lòng.
Niên hiệu và cơ hội của thơ tín nầy. Mùa đông năm 57-58 S.C.. Phao-lô đang ở thành Cô-rinh-tô, lúc chấm dứt hành trình truyền giáo thứ ba và gần đi Giê-ru-sa-lem, đem theo số tiền lớn quyên giúp các thánh đồ nghèo. Một bà tên là Phê-bê, ở Xen-cơ-rê, là một vùng ngoại châu thành Cô-rinh-tô, đáp tàu đi La-mã (16:1-2). Phao-lô bèn nhơn cơ hội đó mà nhờ bà đem thơ nầy. Khắp đế quốc La-mã không có bưu chánh, trừ ra cho công vụ. Theo như ta được biết, thì mãi sau đây mới có bưu chánh. Thời ấy, những thơ riêng phải do bạn hữu hoặc hành khách bất thần đem đi. Tít đem thơ II Cô-rinh-tô. Ti-chi-cơ đem thơ Ê-phê-sô và thơ Cô-lô-se. Ô-nê-sim đem thơ Phi-lê-môn.
Mục đích của thơ nầy. Ðể tỏ cho anh em ở La-mã biết rằng ông đang đi đường. Lại nữa, Phao-lô viết thơ nầy trước khi Ðức Chúa Trời bảo ông rằng Ngài sẽ gặp ông tại La-mã (Công vụ các sứ đồ 23:11), và ông chưa cảm biết chắc chắc rằng mình sẽ còn sống mà đi khỏi Giê-ru-sa-lem (15:31). Trong trường hợp nầy, dường như thuận hiệp cho ông, là Sứ đồ của dân ngoại, để lại tại thủ đô của thế giới dân ngoại một tác phẩm giải thích cách ông hiểu biết tánh chất của công việc Ðấng Christ.
Hội Thánh tại La-mã. Phao-lô chưa hề tới đó. Ba năm sau khi viết thơ tín nầy, ông mới tới đó. Có lẽ nguyên điểm của chi hội nầy gồm những người La-mã đã ở thành Giê-ru-sa-lem trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Công vụ các sứ đồ 2:10). Trong khoảng 28 năm kế tiếp, nhiều tín đồ Ðấng Christ ở những miền khác nhau thuộc Ðông phương, vì lý do nầy hoặc lý do khác, đã di cư tới kinh thành La-mã; một số tín đồ ở đó đã do Phao-lô dắt đưa tin Chúa và là bạn thiết của ông (xem đoạn 16). Phi-e-rơ chưa có ở đó. Ông chỉ tới đó sau Phao-lô. Nếu ông có ở đó khi Phao-lô viết thơ nầy, thì Phao-lô không nhắc đến tên ông trong lời chào thăm, há chẳng kỳ lạ lắm sao? Việc Phi-e-rơ sáng lập Hội thánh tại La-mã và làm giám mục ở đó 25 năm, chỉ là truyện hoang đường, do người ta bịa đặt để binh vực những quyền lợi riêng.
Ðoạn 1, 2 -- Cả Thế Giới Cần Ðến Tin-Lành
Cả loài người mắc tội (1:1-32). Câu văn thứ nhứt rất dài (câu 1-7), tóm tắt cuộc đời của Phao-lô: Ðức Chúa Jêsus được các tiên tri dự ngôn, đã sống lại từ trong kẻ chết, và sai Phao-lô đi rao truyền Danh Ngài cho muôn dân. Rồi Phao-lô tỏ ý mong ước đến La-mã từ lâu (câu 9-15). Ông bị ngăn trở, chưa đến đó được, vì còn phải rao truyền Tin Lành ở những khu vực khác chưa được nghe (15:20). Ông không hổ thẹn về Tin Lành (câu 16-17), ngay cả ở La-mã, là cái vực sâu xấu xa, hư hoại nhưng "mạ vàng" và kiêu hãnh. Sự bại hoại kinh khủng của loài người, mô tả ở câu 18-32, đã xuống tới cực độ tại kinh thành La-mã. Ðặc biệt là sự buông theo nhục dục (câu 26-27).
Gồm cả người Do-thái (2:1-29). Bức tranh khủng khiếp của Phao-lô mô tả địa vị tội lỗi của loài người gồm cả người Do-thái, mặc dầu họ là dân của Ðức Chúa Trời, vì họ phạm hầu hết mọi tội lỗi thông thường của loài người. "Ai" (câu 1) gồm hết thảy chúng ta. Không phải là mỗi người làm mọi việc ghi chép ở 1:29-31. Ðó là bức tranh mô tả toàn thể loài người. Nhưng mỗi người chúng ta có phạm một vài điều ghi chép ở đó. "Xét đoán những việc kín nhiệm của loài người" (câu 16). Ngày đó, Ngài sẽ xét xử bổn tánh kín giấu trong lòng, chớ không xét xử theo chủng tộc.
* * *
Thơ Rô-ma 2
Ðoạn 3 -- ÐẤNG CHRIST Là Vãn Hồi Tế Chuộc Tội Loài Người
Tại sao có người Do-thái? (câu 1:20). Nếu về tình trạng tội lỗi, họ chung một địa vị với mọi dân tộc khác trước mặt Ðức Chúa Trời, thì tại sao lại cần phải có dân tộc Do-thái? Ðáp rằng: Ðể họ nhận lãnh các sấm ngữ của Ðức Chúa Trời và mở đường cho Ðấng Christ ngự đến.
Dưới quyền của Ðức Chúa Trời, dân tộc Do-thái đã được thành lập để phụng sự một mục đích đặc biệt, là thực hiện kế hoạch từ lâu đời của Ðức Chúa Trời khiến cho loài người được cứu chuộc. Nhưng đó chẳng có nghĩa là trước mắt Ðức Chúa Trời, họ có tâm chất tốt lành hơn các dân tộc khác. Một trong những mục đích của luật pháp là khiến người ta hiểu rằng họ là tội nhân (câu 20), cần một Cứu Chúa.
Ðấng Christ là Vãn hồi tế (câu 21-31). Trong bổn tánh đời đời của các sự vật, vì tội lỗi là tội lỗi, phải là phải và Ðức Chúa Trời là công bình, nên không thể có sự thương xót ở ngoài sự công bình. Tội lỗi phải bị hình phạt. Trong Thân vị Ðấng Christ, Ðức Chúa Trời đã mang lấy sự hình phạt tội lỗi loài người. Vậy nên Ngài có thể tha thứ tội lỗi loài người, và kể những ai cảm kích tiếp nhận Tế lễ của Cứu Chúa là có chính sự công bình của Cứu Chúa: Sự công bình của Cứu Chúa được kể là của họ.
Ðoạn 4 -- Trường Hợp Của Áp-ra-ham
Trường hợp nầy được nêu lên vì những kẻ đề xướng dân ngoại phải vâng giữ luật pháp đã dựa sự đòi hỏi làm phép cắt bì trên lời hứa ban cho Áp-ra-ham, tức là cho dòng dõi ông; vậy, nếu ai không phải dòng dõi của Áp-ra-ham do sanh đẻ, thì phải nhờ phép cắt bì mà trở nên dòng dõi của ông. Phao-lô giải thích rằng lời hứa được ban cho vì cớ đức tin của Áp-ra-ham, khi ông chưa chịu phép cắt bì, và kẻ kế tự ông chính là người có đức tin giống như vậy, chớ không phải những kẻ chịu phép cắt bì. Ðiểm vĩ đại trong đời sống của Áp-ra-ham là đức tin của ông, chớ không phải phép cắt bì mà ông đã chịu.
Ðoạn 5 -- Ðấng Christ Và A-đam
Phao-lô dựa vào sự duy nhất của loài người trong A-đam mà minh luận rằng sự chết của Ðấng Christ có hiệu lực đền bồi tội lỗi loài người.
Người phản đối thường nói rằng: "Một người chịu chết vì nhiều người thể nào được?" Một người có thể chết thế một người khác, -- như vậy còn có phần công bình. Nhưng một Người chết để phu phỉ án phạt đáng phải giáng trên muôn triệu người, thì thậm vô lý!
Phao-lô đáp rằng người ta không đáng trách vì là tội nhân. Họ đã sanh ra như vậy, và không liên quan gì với sự sanh ra họ. Họ cũng không được hỏi ý kiến xem mình có muốn ra đời chăng? Họ chỉ thức dậy và thấy mình ở trong một thân thể với một bổn tánh tội lỗi. Nhưng Phao-lô nói rằng người sáng lập nhân loại, là A-đam, không được sanh ra cách đó. Khởi đầu ông chẳng có một bổn tánh tội lỗi đâu.
Khi giải thích giáo lý Ðấng Christ đền chuộc tội lỗi, Phao-lô không để Ngài đối chiếu với mỗi cá nhân chúng ta, song để Ngài đối chiếu với tổ tông loài người. A-đam là tổ tông thiên nhiên của loài người. Còn Ðấng Christ là Tổ tông thiêng liêng. Việc tổ tông nầy làm, thì Tổ tông kia phá đi. Tội lỗi của một người gây cho cả loài người bị hư mất. Vậy, sự chết của một Người đủ khiến cho mọi người thoát khỏi tình trạng hư mất.
Ðoạn 6 -- Vậy, Cái Gì Là Cớ Tích Cho Ta Sống Thiện Hảo?
Nều Ðấng Christ tha thứ tội lỗi chúng ta và ta chẳng còn ở dưới luật pháp nữa, thì tại sao ta chẳng cứ ở trong tội lỗi? Cứ phạm tội đi, thì Ðấng Christ sẽ cứ tha thứ.
Phao-lô đáp rằng không thể tưởng tượng một điều như vậy. Ðấng Christ đã chịu chết để cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Sự tha thứ của Ngài cốt để khiến chúng ta gớm ghét tội lỗi mình.
Chúng ta không thể vừa làm tôi tớ tội lỗi, vừa làm tôi tớ Ðấng Christ. Phải chọn bên nầy hoặc bên kia. Không thể nào vừa sống trong tội lỗi, vừa đẹp lòng Ðấng Christ.
Ấy chẳng có nghĩa là chúng ta có thể toàn thắng hết thảy tội lỗi của mình, và có thể không cần đến sự thương xót của Ngài nữa. Song thật có nghĩa rằng có hai cách sống khác hẳn nhau: Cách sống theo Ðấng Christ và cách sống theo tội lỗi. Trong lòng, chúng ta thuộc về bên nầy hoặc bên kia, chớ không thể thuộc về cả hai bên.
Ðấng Christ là hiện thân trọn vẹn của luật pháp Ðức Chúa Trời, làm nảy trong ta cái cớ tích và cung cấp cho ta cái quyền năng để cứ chiến đấu cho tới khi chính mình đạt tới bậc thánh khiết trọn vẹn, -- bởi ân điển Ngài, đến cuối cùng, bậc thánh khiết nầy sẽ là của chúng ta.
Ðoạn 7 -- Tại Sao Có Luật Pháp?
Nếu chúng ta không ở dưới luật pháp nữa, thì ban bố luật pháp làm chi? Luật pháp không được ban bố như một kế hoạch cứu rỗi, nhưng như một biện pháp trù bị để dạy cho loài người thấy mình cần có một Cứu Chúa, để khiến ta biết phân biệt điều phải và điều quấy. Khi nào ta nhận biết mình hoàn toàn yếu đuối, thì mới mong ước có một Cứu Chúa.
Cuộc giao tranh giữa bổn tánh xác thịt và bổn tánh thiêng liêng (câu 14-25). Chúng ta tự hỏi đây có phải bức tranh mô tả chính cuộc giao chiến trong lòng của Phao-lô chăng? Ở I Cô-rinh-tô 4:4, ông nói rằng: "Tôi chẳng thấy mình có điều gì đáng tội." Nhưng chắc ông phải cảm thấy trong bổn tánh mình có những sức thúc đẩy mạnh mẽ mà mình phải giao tranh ác liệt không ngừng. Bằng không, ông chẳng bao giờ có thể viết mấy lời nầy. Ông tri ân Ðấng Christ, khôn nói nên lời, vì Ngài đã giải cứu ông khỏi cái yếu tố mà ông cảm biết mình không có quyền lực chống lại đó. Sự tri ân nầy khiến ta nhớ lại một nỗi vui mừng vô biên của Luther khi ông thình lình nhận biết rằng Ðấng Christ có thể làm cho ông cái điều mà ông đã luống công chiến đấu để tự làm lấy. Ðây là tỉ dụ về quyền lực của luật pháp trên một linh hồn sốt sắng nhưng thất vọng vì không thể sống đúng theo luật pháp, và về sự cứu trợ tìm được trong Ðấng Christ.
* * *
Thơ Rô-ma 3
Ðoạn 8 -- Luật Pháp Của Thánh Linh
Ðây là một trong những đoạn Kinh Thánh được quí mến hơn hết
Thánh Linh ngự trong tín đồ (câu 1-11). Trong Ðấng Christ, chúng ta chẳng những được tha thứ tội lỗi, song còn được truyền cho một sự sống mới. Ðó là sự tái sanh. Sứ sống thiên nhiên của chúng ta dường như được dầm thấm Thánh Linh của Ðức Chúa Trời, và một thần linh măng sữa, một bổn tánh Ðức Chúa Trời được sanh ra hơi giống như cách sự sống thân thể ta, tức là bổn tánh A-đam của ta, đã do cha mẹ ta sanh ra. Sự sống thiên nhiên của ta do A-đam mà có. Còn bổn tánh mới của Ðức Chúa Trời do Ðấng Christ mà có. Ðó là một sự thực ở bên trong chúng ta. Có lẽ chúng ta không cảm biết và không nhận thấy nó. Nhưng nó có đó. Chúng ta tiếp nhận nó như một vấn đề đức tin. Vượt quá phạm vi hiểu biết của chúng ta, bên trong ta có sự sống Ðức Chúa Trời, có đứa con của Thánh Linh Ðức Chúa Trời, được Ngài chăm nom từ ái. Ngài làm việc lặng lẽ, không hề mỏi mệt, không hề đuối sức, để chiếm quyền kiểm soát toàn thân ta và biến đổi ta ra giống như hình ảnh của Ðức Chúa Trời. Ðó là sự sống sẽ nảy nở thành sự vinh hiển bất diệt trong ngày Phục sanh.
Phận sự chúng ta đối với Thánh Linh (câu 12-17). Bước đi theo Thánh Linh nghĩa là đang khi ta hoàn toàn và tuyệt đối nhờ cậy Ðấng Christ để được cứu rỗi, thì ta còn chiến đấu tới cực điểm để sống đúng theo luật pháp của Ngài. Phao-lô nói rất minh bạch rằng ân điển của Ðấng Christ chẳng miễn cho ta khỏi phải hết sức cố gắng sống thiện hảo. Bước đi theo xác thịt có nghĩa là buông mình để làm thỏa mãn các sự tham muốn của xác thịt. Thân thể chúng ta là xác thịt. Ta phải sống trong xác thịt. Một số tham muốn của xác thịt là trái lẽ; một số lại hoàn toàn tự nhiên và cần thiết. Chúng ta phải hoàn toàn từ bỏ những tham muốn trái lẽ. Còn những tham muốn khác thì ta được phép chiều theo, song phải cẩn thận giữ lòng ham mến những cái cao cả, siêu phàm.
Muôn vật thọ tạo đang đau đớn (câu 18-25)
Muôn vật thiên nhiên, kể cả chúng ta, đang rên siết mong chờ một cảnh sanh hoạt tốt đẹp hơn sẽ được bày tỏ trong ngày hoàn tất ơn cứu chuộc của Ðức Chúa Trời, khi ấy, "thân thể hay chết nầy" (7:24) sẽ nhận được sự tự do, vinh hiển của Thiên đàng. Ðó là một quan niệm vĩ đại về công việc của Ðấng Christ.
Thánh Linh cầu thay (câu 26-30). Thánh Linh ngự trong ta chẳng những là của cầm về sự sống lại và vinh hiển tương lai của ta, nhưng nhờ Ngài cầu nguyện cho, ta còn biết chắc rằng Ðức Chúa Trời sẽ khiến mọi việc xảy ra làm ích cho mình. Chúng ta có thể quên cầu nguyện. Nhưng Thánh Linh chẳng hề quên. Ngài sẽ đưa chúng ta đến nơi đến chốn.
Lòng yêu thương bất khả xâm phạm của Ðấng Christ (câu 31-39). Ngài đã chịu chết vì chúng ta, tha thứ ta và ban chính mình Ngài cho ta trong Thân Vị của Thánh Linh Ngài. Nếu chúng ta thuộc về Ngài, thì không quyền lực nào ở dưới đất, hoặc trên trời, hoặc trong địa ngục, có thể ngăn trở Ngài đưa ta về ở với Ngài trong lòng đời đời của Ðức Chúa Trời.
Ðoạn 9, 10, 11 -- Vấn Ðề Không Tin Của Dân Do Thái
Yếu tố lớn lao nhứt ngăn trở toàn thể loài người tiếp nhận Tin Lành của Ðấng Christ chính là sự không tin của dân Do-thái. Dầu có rất nhiều người Do-thái, nhứt là ở xứ Giu-đê, đã trở thành tín đồ Ðấng Christ, nhưng toàn thể dân Do-thái chẳng những không tin, mà còn chống đối kịch liệt. Các nhà cầm quyền Do-thái đã đóng đinh Ðấng Christ vào Thập tự giá. Mỗi khi có cơ hội, họ đều bắt bớ Hội Thánh. Chính những người Do-thái không tin Chúa đã gây rắc rối cho Phao-lô ở hầu hết mọi nơi ông đi. Nếu Ðấng Christ thật là Ðấng Mê-si đã dự ngôn trong Kinh Thánh của họ, thì tại sao chính dân Ðức Chúa Trời lại chối bỏ Ngài như vậy? Phao-lô đáp lại câu hỏi ấy trong ba đoạn nầy.
Sự buồn rầu của Phao-lô vì cớ người Y-sơ-ra-ên (9:1-5). Ðây là một cách tỏ lòng buồn rầu rất linh động: Ông hầu như sẵn sàng hiến chính linh hồn mình vì cớ họ.
Quyền Chủ tể của Ðức Chúa Trời (9:6-24). Trong khúc sách nầy, Phao-lô không thảo luận sự tiền định các cá nhân cho được cứu rỗi hoặc bị hư mất, nhưng ông minh xác quyền Chủ tể tuyệt đối của Ðức Chúa Trời trong sự lựa chọn và quản trị các dân để họ thi hành nhiệm vụ trên thế giới, ngõ hầu đến cuối cùng sẽ đem hết thảy đến đầu phục Ngài. Lời tuyên bố mạnh mẽ ở câu 16 có lẽ gồm cả những cá nhân. Những khúc sách giống như vậy chắc gồm ý ấy: Công vụ các sứ đồ 2:23; 4:28; 13:48; Rô-ma 8:28-30. Chúng ta không biết làm cách nào để dung hòa quyền chủ tể của Ðức Chúa Trời và sự tự do của ý chí loài người. Cả hai giáo lý nầy được dạy rõ trong Kinh Thánh. Chúng tôi tin cả hai giáo lý ấy. Nhưng phải xin nhường người khác giải thích thể nào cả hai giáo lý ấy đều đúng.
Dự ngôn trong Kinh Thánh (9:25-33). Kinh Thánh đã dự ngôn rằng dân Y-sơ-ra-ên bị loại bỏ và các dân ngoại được tiếp nhận. Vậy, chúng ta đáng phải mong chờ tình trạng ấy, chớ chẳng nên vì đó mà vấp phạm.
Chính người Do-thái đáng trách (10:1-21). Ðức Chúa Trời chẳng làm cho người Do- thái chối bỏ Ðấng Christ. Họ đã tự ý làm như vậy. Ðó chỉ là một vấn đề nghe. Họ nghe, nhưng cố ý không vâng lời (câu 18-21). Chúng ta không biết làm thể nào để dung hòa điểm nầy với đoạn 9:16. Trên đời có một vài điều vượt quá phạm vi hiểu biết hữu hạn của chúng ta. Và đây là một điều.
Sự cứu rỗi tương lai của dân Y-sơ-ra-ên (11:1-36). Họ bị loại bỏ tạm thời, và do đó các dân ngoại được cứu rỗi. Nhưng một ngày kia, toàn dân Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu rỗi (câu 26). Ðây không tỏ ra sự trạng ấy sẽ xảy đến khi nào hoặc cách nào. Cũng không tỏ ra sự trạng ấy sẽ liên quan với việc họ trở về xứ Pa-lét-tin thể nào, nhưng chỉ quả quyết rằng sẽ thật có như vậy. Một điểm đen kịt trên khung cảnh lịch sử loài người chính là sự đau đớn của dân tộc khổ não và không vâng lời đó. Nhưng một ngày kia, tình trạng nầy sẽ chấm dứt. Dân Y-sơ-ra-ên sẽ ăn năn, quay về với Chúa mà họ đã đóng đinh vào Thập tự giá. Sẽ có sự tha thứ và vui mừng. Rồi muôn vật sẽ chúc tạ Ðức Chúa Trời vì sự khôn khoan không dò được của hóa cơ Ngài.
* * *
Thơ Rô-ma 4
Ðoạn 12, 13, 14 - Cuộc Ðời Ðược Biến Cải
Bao giờ cũng vậy, Phao-lô chấm dứt bài giảng luận thần học bằng những lời nhiệt thành khuyên bảo hãy sống cách nào cho xứng hợp với Ðấng Christ. Trong những đoạn trước, ông đã nhấn mạnh rằng địa vị chúng ta trước mặt Ðức Chúa Trời hoàn toàn tùy thuộc sự thương xót của Ðấng Christ, chớ không tùy thuộc việc lành riêng của mình. Nhưng sự thương xót đã tha thứ rộng rãi biết bao đó cũng là chính yếu tố kích thích ta làm lành một cách mạnh mẽ, không sao cưỡng lại được, và thay đổi cả nhỡn tuyến của ta đối với cuộc đời.
Tinh thần khiêm cung (câu 3-8). Những lời nầy đặc biệt dành cho các vị thủ lãnh Hội Thánh. Bao phen địa vị thủ lãnh đáng làm cho ta khiêm nhường, lại khiến ta kiêu hãnh! Bao phen người có một tài năng nào lại có ý làm giảm giá trị tài năng của kẻ khác! Phao-lô giải luận điều nầy tường tận hơn ở I Cô-rinh-tô, đoạn 12 đến 14.
Các đức tánh thiên thượng (câu 9-21). Lòng yêu thương anh em. Ghét điều ác, nhứt là điều ác ỏ trong chúng ta. Siêng năng, vui vẻ, kiên nhẫn. Hay cầu nguyện, tiếp khách và có thiện cảm. Ðể ý đến những điều chi đáng tôn quí. Ham chuộng hòa bình, không căm giận.
Vâng phục luật pháp nhà nước (13:1-7). Các chánh quyền do Ðức Chúa Trời thiết lập (câu 1), mặc dầu thường khi lại do người tội ác đảm nhiệm; ấy để ngăn cản các phần tử phạm pháp trong xã hội loài người. Tín đồ Ðấng Christ phải là những công dân tuân giữ luật pháp của chánh phủ đang cai trị họ.
Mọi sự được gồm tóm trong tình yêu thương (câu 8-10). Yếu tố ngăn cản tội ác chính là tôn trọng đúng mức các quyền lợi của kẻ đồng loại, dường như là của chính mình vậy. Ấy là sự thực hành Luật Vàng.
Hừng đông gần lộ ra (câu 11-14). Lời nầy liên quan tới những cá nhân đã tin theo Ðấng Christ được ít lâu, hoặc tới kỷ nguyên Cơ-đốc-giáo gần kết liễu. Phao-lô vui sướng vì nghĩ rằng gần đến ngày Chúa hiện ra. Xem ở thơ I và II Tê-sa-lô-ni-ca.
Ðoán xét lẫn nhau (14:1-23). Cả đoạn nầy luận về vấn đề tín đồ lên án lẫn nhau trong những việc như ăn thịt và giữ ngày. Dầu không nói rõ, song thịt luận ở đây chắc là thịt đã dâng cúng thần tượng. Xem ở I Cô-rinh-tô, đoạn 8. Hoặc có lẽ là thịt thú vật mà ta ăn, trái lại với sự kiêng cữ chỉ ăn rau. Mỗi trường hợp là tùy theo lương tâm của cá nhân. Còn về sự giữ ngày, thì không nói đến ngày Sa-bát, nhưng chắc là nói đến việc người Do-thái nhấn mạnh rằng dân ngoại phải giữ ngày Sa-bát và những ngày lễ khác của người Do-thái. Chúa nhật, ngày thứ nhứt trong tuần lễ, là ngày của tín đồ Ðấng Christ. Nếu thêm vào đó, họ muốn giữ ngày Sa-bát hoặc những ngày lễ khác của người Do-thái, thì túy ý, song không nên bắt buộc kẻ khác cũng phải giữ.
Ðoạn 15 -- Phao-lô Toan Ðịnh Ðến La-mã
Anh em hiệp một (câu 1:14). Tiếp tục những lời khuyên bảo trong đoạn trước. Do đoạn 16:17 cùng bài giải luận về ngày và thịt ở đoạn 14, chúng tôi hơi ngờ Phao-lô đã nhờ cách nào đó mà hay tin rằng một vài thủ lãnh Do-thái ở La-mã quyết định bắt các tín đồ dân ngoại phải theo tập tục Do-thái.
Ông toan định đến La-mã (câu 15-33). Nếu Phao-lô giống như một số người khác, thì ngay khi được Ðấng Christ phong làm Sứ đồ đặc biệt của các dân ngoại, ông đã lập tức đi tới La-mã, thủ đô của thế giới dân ngoại, lấy đó làm trụ sở, và lo rao giảng Tin Lành khắp đế quốc La-mã. Một lý do ông không làm như vậy có lẽ là vì kể từ ngày Lễ Ngũ Tuần (Công vụ các sứ đồ 2:10), một Hội Thánh lớn đã thành lập tại La-mã. Vả, sứ mạng của ông là rao truyền Ðấng Christ ở những miền người ta chưa được biết Ngài (câu 20). Chương trình của ông là cứ đi từng khu vực một, và lần lần tiến về phía Tây. Bây giờ, sau 20 hoặc 30 năm, tức là sau khi trồng vững Tin Lành ở Tiểu-Á-tế-á và Hi-lạp, ông sẵn sàng tiến tới Y-pha-nho và dọc đường dừng lại tại La-mã (câu 24). Ông có ý tới Y-pha-nho hay không, xin xem Công vụ các sứ đồ, đoạn 28.
Ðoạn 16 -- Những Việc Riêng
Ðây là đoạn chào thăm từng người. Có ghi tên 26 thủ lãnh Hội Thánh, là thiết hữu của Phao-lô.
Phê-bê (câu 1-2), người đem thơ tín nầy; có lẽ bà đi La-mã để buôn bán. Xen-cơ-rê là hải cảng phía Ðông của thành Cô-rinh-tô.
Bê-rít-sin và A-qui-la (câu 3-5) trước kia ở La-mã (Công vụ các sứ đồ 18:2). Ông bà ở với Phao-lô tại Cô-rinh-tô và Ê-phê-sô, và lúc nầy đã trở về La-mã. Có một Hội Thánh nhóm tại nhà họ.
Ê-bai-nết (câu 5) là người tin Chúa đầu tiên "trong xứ A-si," hiện đang ở La-mã.
Ma-ri (câu 6). Hãy chú ý, nhiều thủ lãnh thuộc phái phụ nữ.
An-trô-ni-cơ và Giu-ni-a (câu 7), là bà con của Phao-lô, lúc nầy đã cao tuổi, vì đã tin Chúa trước Phao-lô và cùng ở tù với ông.
Am-li-a, U-rơ-banh, Ếch-ta-chy, A-be-lơ (câu 8-10), là bạn hữu của Phao-lô.
"Các người ở nhà A-rít-tô-bu" (câu 10) và "các người ở nhà Nạt-xít" (câu 11), có lẽ là những chi hội ở trong nhà họ.
Hê-rô-đi-ôn cũng là một người bà con của Phao-lô.
Try-phe-nơ, Try-phô-sơ và Bẹt-si-đơ (câu 12) là tên phụ nữ.
Ru-phu (câu 13), có lẽ là con trai của Si-môn, người đã vác Thập tự giá của Ðức Chúa Jêsus (Mác 15:21). Mẹ của Ru-phu đã chăm lo cho Phao-lô như cho con trai mình vậy.
A-sin-cơ-rích, Phơ-lê-gôn, Hẹt-me, v.v... (câu 14) và các anh em ở với họ, tức là chi hội của họ.
Phi-lô-lô-gơ, Giu-li, v.v.. (câu 15) và các thánh đồ ở với họ, tức là chi hội của họ.
Tẹt-tiu (câu 22) chép những lời Phao-lô đọc, tức là thơ ký của ông.
Gai-út (câu 23), nhà ông nầy là nơi Phao-lô đang trú ngụ và là nơi nhóm họp chung cho các tín đồ Cô-rinh-tô.
Ê-rát (câu 23) chắc là một người có thế lực lớn, vì làm quan kho bạc thành Cô-rinh-tô.