A-ma-léc. Amalécites.
Dân tộc nầy là dòng dõi của Ê-sau (Sáng thế ký 36:16). Trong Sáng thế ký 14:7 nói "miền dân A-ma-léc" chắc có ý nói về miền mà về sau dân A-ma-léc sẽ trú ngụ. Họ là một giống người du mục (Các Quan Xét 6:5), thường đi dạo ở phía Nam nước Do Thái, ở biên giới nước Ai-cập và ở những nơi vắng vẻ miền núi Si-na-i. Tên chung lưu truyền của các vua dân đó là A-ga. Khi người Y-sơ-ra-ên đến xứ Do Thái, giống người ấy đã ở đó trước rồi (Dân số ký 13:29). Dân Y-sơ-ra-ên và người A-ma-léc lần đầu tiên gặp nhau ở giải núi Si-na-i. Vì đường từ xứ Ai-cập lên xứ Ca-na-an phải qua Rê-phi-đim, dân Y-sơ-ra-ên bị người A-ma-léc không kính sợ Chúa (Phục truyền luật lệ ký 25:17) ngăn trở chận đánh, nên ở đó hai bên thường đánh nhau (Xuất Ê-díp-tô ký 17:8-16). Về sau, trong mấy trăm năm người A-ma-léc hoặc hằng chiến tranh với dân Y-sơ-ra-ên, hoặc tự đánh lẫn nhau, hoặc liên minh với dân tộc khác để đánh dân Y-sơ-ra-ên (Các Quan Xét 3:13; 7:12; I Sa-mu-ên 15). Dân A-ma-léc ngăn cản dân Y-sơ-ra-ên uống nước mà Chúa ban cho để sống ở Rê-phi-đim, nơi vắng vẻ, ấy là tội rất lớn trước mặt Chúa, vậy phải phạt rất nặng (I Sử ký 16:22; Thi Thiên 105:15; Ma-thi-ơ 18:6; I Cô-rinh-tô 8:12; 10:32). Nên ta thấy 400 năm sau Chúa phán bảo Sau-lơ, vua Y-sơ-ra-ên, phải diệt hết dân đó với mọi vật thuộc về nó nữa. Như thế, Chúa thử Sau-lơ có vâng lời không (I Sa-mu-ên 14:48). Chúa cấm lấy gì thuộc về họ thì tỏ ra cho dân Y-sơ-ra-ên biết mình chỉ là người Chúa dùng để phạt dân đó. Nhưng Sau-lơ không vâng lời Chúa, song để đẹp lòng dân, ông lấy vật thuộc về dân đó dâng của lễ để làm cớ chữa mình trước mặt Chúa, và bắt vua A-ga làm phu tù, rồi sau mới giết chết. Vì đó vua bị phạt, cuối cùng mất hết và phải tự tử. Về sau thế nào sử ký Hê-bơ-rơ không thấy nói đến dân A-ma-léc nữa.