I/. TÁC GIẢ:
1. Tên:
Tên Giô-na có nghĩa là “Chim Bồ Câu”
2. Con người của Giô-na:
1. Tên:
Tên Giô-na có nghĩa là “Chim Bồ Câu”
2. Con người của Giô-na:
- Giô-na là con của A-mi-tai (II Vua 14:25)
Dù Kinh Thánh không nói gì về A-mi-tai, nhưng mỗi lần nói đến Giô-na là Kinh Thánh nhắc đến A-mi-tai [giống như trường hợp của Phierơ, Chúa Jêsus Christ thường gọi tên Phierơ là: “Si-môn, con Giô-na” – Mathiơ 16:17; Giăng 21:15-17]. Cách gọi như thế có thể hiểu nhiều cách:
- Hoặc là để phân biệt với một Giô-na nào khác đồng thời.
- Hoặc để nhắc đến một đặc điểm nào đó của A-mi-tai (người cha) như: danh tiếng, hay địa vị cao quý …
- Quê hương:
Quê hương của Giô-na là Gát Hê-phe, một thành thuộc chi phái Sa-bu-lôn (Giô-suê 19:13), cách Na-xa-rét về phía Đông Bắc độ 5 Km.
- Thời kỳ:
- II Vua 14:25, có lẽ Giô-na sống đồng thời với vua Giê-rê-bô-am II, một thời kỳ thịnh vượng của nước Y-sơ-ra-ên phía Bắc (783-743 TC.)
- Có lẽ chức vụ của Giô-na đã đóng góp vào nền hòa bình thịnh vượng của đời Giê-rô-bô-am II, vì A-si-ri đã ăn năn bởi sứ điệp của Giô-na, nên đã không đánh phá nước Y-sơ-ra-ên trong thời đó.
- Chức vụ:
- Qua sách Giô-na, chúng ta thấy tánh tình của ông thuộc loại ngang bướng (1:) nhất định không vâng lời dù phải chết.
- Giô-na cũng rất yêu nước IIVua 14:23 và Giô-na 3:, ông chỉ muốn kẻ thù của nước Y-sơ-ra-ên của ông là A-si-ri (thủ đô là Ni-ni-ve) bị hủy diệt.
- Dường như Giô-na rất thích thi ca nên dễ cảm động (2:, là bài thi ca ghép nối các Thi thiên). Chúng ta so sánh giữa Giô-na đoạn 2 với các Thi thiên như sau:
2:3 = Thi. 120:1; 130:1; Cathương 3:55
2:4 = Thi. 42:7
2:5 = Thi. 5:7
2:6 = Thi. 69:2
2:7 = Thi. 40:2
2:4 = Thi. 42:7
2:5 = Thi. 5:7
2:6 = Thi. 69:2
2:7 = Thi. 40:2
- Giô-na là người có tánh tình thẳng thắn, rất thành thật (4:, những lời của ông trả lời với Chúa là thật từ lòng của ông)
II/. TÍNH CHẤT XÁC THỰC CỦA SÁCH GIÔ-NA:
- Thành Ni-ni-ve ăn năn:
- Thành Ni-ni-ve là thủ đô của đế quốc A-si-ri, một đế quốc hùng mạnh vào những năm 900-612 TC.
- Lịch sử đế quốc A-si-ri không có ghi thành Ni-ni-ve ăn năn trong các bi văn, lý do vì các vua A-si-ri chỉ ghi những chiến công, không ghi sự hổ nhục của họ.
- Tuy nhiên, có những chứng tích sau đây ám chỉ có thời kỳ Ni-ni-ve thay đổi chánh sách từ hiếu chiến, hung ác, sang hiếu hòa
- 803-783 TC., với những triều đại Adad, Niari và 3 vua kế tiếp đã thực hiện những cải cách giống như Amenoplas IV ở Ai Cập, nhất là giảm bớt các cuộc xua quân chinh phục.
- Thời điểm cải cách nầy trùng hợp với thời kỳ Giô-na sống và thời kỳ hòa bình đời vua Giê-rô-bô-am II của Y-sơ-ra-ên.
- Đặc biệt là tại Ni-ni-ve có một gò nỗng tên YUNAS, theo thổ ngữ đó là tên của Giô-na, rộng độ 16 hecta, cao độ 33m.Dân địa phương cho rằng đây là phần mộ của Giô-na.
- Con cá nuốt Giô-na:
Trước đây câu chuyện con cá nuốt Giô-na bị công kích nhiều hơn hết, vì những người công kích cho rằng không có con cá nào đủ lớn để nuốt một người và không tin một người vào bụng cá mà còn sống.
Nhưng các sự kiện sau đây là bằng cớ chứng minh tính chất chính xác của câu chuyện:
a/. Năm 1851, một thủy thủ săn cá voi tên German Melvill đã viết một sách nói về câu chuyện săn cá voi (dịch sang tiếng Việt sách mang tựa đề “Cá VoiTrắng”) và nhà nghiên cứu Lev. Skriagin chứng minh câu chuyện cá voi đánh đắm tàu, ăn thịt người không phải là chuyện bịa đặt, kể cả chuyện người sống đã sống một ngày trong bụng cá.
Truyện kể một tàu săn cá voi tên Pekod tử chiến với một con cá voi trắng tên Mobi Dik đã từng ăn mất một chân của thuyền trưởng tàu Pekod. Cuối cùng tàu gặp nó gần xích đạo.
Trận chiến kéo dài 3 ngày đêm và kết thúc với sự thảm bại của tàu Pekod. Tàu bị chìm cùng thủy thủ đoàn, chỉ còn một người sống sót được một tàu săn cá voi khác cứu.
Ai kể chuyện nầy cho Melvill?
Những người viết lịch sử săn cá voi đều công nhận đầu thế kỷ 19, những tay săn cá voi người Scandinavi, người Canada, người Mỹ, săn cá voi trên Thái Bình Dương, đã loan truyền về một con cá voi trắng (cá nhà táng bạch tạng) khổng lồ, không những tấn công xuồng săn mà còn đánh chìm cả tàu mẹ.
Vào thập kỷ 80, trong hai bán cầu có hàng trăm người sẵn sàng đặt tay lên Kinh Thánh thề rằng họ đã trông thấy Cá Voi Trắng. Họ cũng biết cả tên của nó là Mobi Dik (Người ta đặt tên nó như vậy vì lần đầu tiên gặp nó tại đảo Mobi, gần bờ biển Chilê). Qua những câu chuyện ấy, người ta có thể tưởng tượng một phần:Con cá dài độ 25m, nặng không dưới 70 tấn … Mobi đã hoành hành trong 39 năm, đánh chìm 3 tàu săn, 2 tàu hàng, 3 xa-lan, 4 thuyền bầu (Skhun), 18 thuyền săn và 117 mạng người.
Họ cho biết năm 1859, các tay lao Thụy Điển đã giết được Mobi Dik tại Nam Thái Bình Dương, lúc đó nó đã quá già, mang những vết thương trước đây (đếm được 19 mũi lao), và đã mù một mắt. Có lẽ Melvill đã lấy tài liệu nầy và có thể nhiều tài liệu khác.
b/. Năm 1891, tàu săn cá voi của Anh quốc mang tên Ngôi sao Phương Đông săn cá voi ở quần đảo Falkland.
Từ tổ quạ ở cột buồm vang lên tiếng kêu của thủy thủ quan sát: “Vòi nước!” Lập tức 2 thuyền săn được hạ thủy tiến về hướng đó. Ngọn lao đầu tiên của một thuyền viên đã cắm vào, nhưng cá chỉ mới bị thương. Nó cố lặn xuống kéo theo hàng chục mét dây lao. Mấy phút sau nó nổi lên và bằng sức mạnh điên cuồng trước khi chết, bằng một cú lao làm chiếc thuyền bắn lên trời. Cá quật điên cuồng, ngậm trong cái miệng đang sùi bọt hồng, những mảnh vụn của con thuyền. Chiếc thuyền thứ hai tới giúp sức đã kéo được con cá về tàu. Nhưng 2 người trong chiếc thuyền thứ nhất không về nữa, họ đã chết đuối.
Phần còn lại của ngày và đêm, người ta lo xẻ thịt con cá.Đến sáng, bao tử cá được kéo bằng tời lên boong tàu. Nó rung rinh nhịp nhàng, điều đó không đáng ngạc nhiên. Vì họ đã nhiều lần lôi từ bao tử cá voi những con cá biển và có khi cả một con cá mập dài 3 mét. Người ta chém vài nhát dao, và bao tử cá mở toác, trong đó, anh chàng thủy thủ James Bartley được ghi là chết đuối, đang nằm bị phủ đầy rong biển, người giật như bị kinh phong, còn sống nhưng như đang ngủ say.
Bác sĩ trên tàu ra lệnh đặt Bartley lên boong và dội nước biển cho anh ta. Vài phút sau, anh mở mắt và nói những từ rời rạc. Đến tuần lễ thứ ba, trí não mới trở lại bình thường. Anh trở lại làm việc, không hề sứt mẻ thân thể ngoại trừ cái màu nhợt nhạt không tự nhiên trên mặt, cổ, bàn tay, giống như bị thiếu máu và da ở đó nhăn nheo. Cuối cùng, anh kể lại và thuyền trưởng cùng hoa tiêu I đã ghi:
… Anh nhớ rất rõ là đã bị văng ra khỏi thuyền như thế nào. Trước đó, anh còn nghe tiếng đuôi cá đập nước. Anh không nhìn thấy cái miệng cá đóng lại, chỉ thấy đột ngột tối sầm và như trượt đi trên một ống nhầy, chân đi trước. Thành ống hạ thấp, cảm giác đó kéo dài không lâu, anh cảm thấy tự do hơn, không còn bị thắt lại bởi các ống nữa.Anh thử tìm cách ra khỏi cái bao sống nầy. Thở được, nhưng không khí như nóng nực vây quanh anh.Anh đã ở trong bụng cá 16 tiếng đồng hồ.
Chẳng ai biết gì về Bartley sau khi tàu cập bến. Người ta chỉ biết anh đi Luận-đôn chữa da nhưng các Bác sĩ đã không thể giúp gì cho anh. Sau đó anh biến mất. Có người cho rằng anh bị mù, làm người gác cổng ở quê hương Glaster và trên mộ của anh, người ta đặt tấm bia khắc dòng chữ: “James Bartley – Thánh Giô-na hiện đại”.[1]
Do đó, chúng ta có thể kết luận:
Nhưng các sự kiện sau đây là bằng cớ chứng minh tính chất chính xác của câu chuyện:
a/. Năm 1851, một thủy thủ săn cá voi tên German Melvill đã viết một sách nói về câu chuyện săn cá voi (dịch sang tiếng Việt sách mang tựa đề “Cá VoiTrắng”) và nhà nghiên cứu Lev. Skriagin chứng minh câu chuyện cá voi đánh đắm tàu, ăn thịt người không phải là chuyện bịa đặt, kể cả chuyện người sống đã sống một ngày trong bụng cá.
Truyện kể một tàu săn cá voi tên Pekod tử chiến với một con cá voi trắng tên Mobi Dik đã từng ăn mất một chân của thuyền trưởng tàu Pekod. Cuối cùng tàu gặp nó gần xích đạo.
Trận chiến kéo dài 3 ngày đêm và kết thúc với sự thảm bại của tàu Pekod. Tàu bị chìm cùng thủy thủ đoàn, chỉ còn một người sống sót được một tàu săn cá voi khác cứu.
Ai kể chuyện nầy cho Melvill?
Những người viết lịch sử săn cá voi đều công nhận đầu thế kỷ 19, những tay săn cá voi người Scandinavi, người Canada, người Mỹ, săn cá voi trên Thái Bình Dương, đã loan truyền về một con cá voi trắng (cá nhà táng bạch tạng) khổng lồ, không những tấn công xuồng săn mà còn đánh chìm cả tàu mẹ.
Vào thập kỷ 80, trong hai bán cầu có hàng trăm người sẵn sàng đặt tay lên Kinh Thánh thề rằng họ đã trông thấy Cá Voi Trắng. Họ cũng biết cả tên của nó là Mobi Dik (Người ta đặt tên nó như vậy vì lần đầu tiên gặp nó tại đảo Mobi, gần bờ biển Chilê). Qua những câu chuyện ấy, người ta có thể tưởng tượng một phần:Con cá dài độ 25m, nặng không dưới 70 tấn … Mobi đã hoành hành trong 39 năm, đánh chìm 3 tàu săn, 2 tàu hàng, 3 xa-lan, 4 thuyền bầu (Skhun), 18 thuyền săn và 117 mạng người.
Họ cho biết năm 1859, các tay lao Thụy Điển đã giết được Mobi Dik tại Nam Thái Bình Dương, lúc đó nó đã quá già, mang những vết thương trước đây (đếm được 19 mũi lao), và đã mù một mắt. Có lẽ Melvill đã lấy tài liệu nầy và có thể nhiều tài liệu khác.
b/. Năm 1891, tàu săn cá voi của Anh quốc mang tên Ngôi sao Phương Đông săn cá voi ở quần đảo Falkland.
Từ tổ quạ ở cột buồm vang lên tiếng kêu của thủy thủ quan sát: “Vòi nước!” Lập tức 2 thuyền săn được hạ thủy tiến về hướng đó. Ngọn lao đầu tiên của một thuyền viên đã cắm vào, nhưng cá chỉ mới bị thương. Nó cố lặn xuống kéo theo hàng chục mét dây lao. Mấy phút sau nó nổi lên và bằng sức mạnh điên cuồng trước khi chết, bằng một cú lao làm chiếc thuyền bắn lên trời. Cá quật điên cuồng, ngậm trong cái miệng đang sùi bọt hồng, những mảnh vụn của con thuyền. Chiếc thuyền thứ hai tới giúp sức đã kéo được con cá về tàu. Nhưng 2 người trong chiếc thuyền thứ nhất không về nữa, họ đã chết đuối.
Phần còn lại của ngày và đêm, người ta lo xẻ thịt con cá.Đến sáng, bao tử cá được kéo bằng tời lên boong tàu. Nó rung rinh nhịp nhàng, điều đó không đáng ngạc nhiên. Vì họ đã nhiều lần lôi từ bao tử cá voi những con cá biển và có khi cả một con cá mập dài 3 mét. Người ta chém vài nhát dao, và bao tử cá mở toác, trong đó, anh chàng thủy thủ James Bartley được ghi là chết đuối, đang nằm bị phủ đầy rong biển, người giật như bị kinh phong, còn sống nhưng như đang ngủ say.
Bác sĩ trên tàu ra lệnh đặt Bartley lên boong và dội nước biển cho anh ta. Vài phút sau, anh mở mắt và nói những từ rời rạc. Đến tuần lễ thứ ba, trí não mới trở lại bình thường. Anh trở lại làm việc, không hề sứt mẻ thân thể ngoại trừ cái màu nhợt nhạt không tự nhiên trên mặt, cổ, bàn tay, giống như bị thiếu máu và da ở đó nhăn nheo. Cuối cùng, anh kể lại và thuyền trưởng cùng hoa tiêu I đã ghi:
… Anh nhớ rất rõ là đã bị văng ra khỏi thuyền như thế nào. Trước đó, anh còn nghe tiếng đuôi cá đập nước. Anh không nhìn thấy cái miệng cá đóng lại, chỉ thấy đột ngột tối sầm và như trượt đi trên một ống nhầy, chân đi trước. Thành ống hạ thấp, cảm giác đó kéo dài không lâu, anh cảm thấy tự do hơn, không còn bị thắt lại bởi các ống nữa.Anh thử tìm cách ra khỏi cái bao sống nầy. Thở được, nhưng không khí như nóng nực vây quanh anh.Anh đã ở trong bụng cá 16 tiếng đồng hồ.
Chẳng ai biết gì về Bartley sau khi tàu cập bến. Người ta chỉ biết anh đi Luận-đôn chữa da nhưng các Bác sĩ đã không thể giúp gì cho anh. Sau đó anh biến mất. Có người cho rằng anh bị mù, làm người gác cổng ở quê hương Glaster và trên mộ của anh, người ta đặt tấm bia khắc dòng chữ: “James Bartley – Thánh Giô-na hiện đại”.[1]
Do đó, chúng ta có thể kết luận:
- Con cá nuốt được James Bartley ở thế kỷ 19, chỉ là con cá còn lại của giống cá khổng lồ nầy (như cá Mobi Dik)
- Con người còn tìm thấy những con cá như thế thì không có gì khó cho Đức Chúa Trời khi cần sắm sẵn một con cá để nuốt Giô-na. Ngài điều khiển con cá cho mục đích của Ngài.
c/. Điểm chứng minh xác thực cho câu chuyện của Giô-na trong bụng cá là chính Chúa Jêsus Christ đã nhắc lại câu chuyện nầy như một sự kiện hiển nhiên (Mathiơ 12:39-41).
III/. BỐ CỤC SÁCH GIÔ-NA:
Bốn đoạn sách Giô-na được phân chia rõ ràng, có thể chia bố cục nhiều cách:
CÁCH THỨ I:
Đề mục: GIÔ-NA
Câu gốc: 1:14b, “Hỡi Đức Giê-hô-va, vì chính Ngài là Đấng đã làm điều mình muốn”
1: - Giô-na với cơn bão
2: - Giô-na với con cá
3: - Giô-na với thành Ni-ni-ve
4: - Giô-na với Đức Chúa Trời.
Hoặc:
1: - Giô-na trốn khỏi Đức Chúa Trời
2: - Giô-na cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời.
3: - Giô-na giảng về Đức Chúa Trời.
4: - Giô-na học với Đức Chúa Trời.
CÁCH THỨ II:
Đề mục: GIÔ-NA ĐƯỢC KÊU GỌI
Câu gốc: 1:1-2
III/. BỐ CỤC SÁCH GIÔ-NA:
Bốn đoạn sách Giô-na được phân chia rõ ràng, có thể chia bố cục nhiều cách:
CÁCH THỨ I:
Đề mục: GIÔ-NA
Câu gốc: 1:14b, “Hỡi Đức Giê-hô-va, vì chính Ngài là Đấng đã làm điều mình muốn”
1: - Giô-na với cơn bão
2: - Giô-na với con cá
3: - Giô-na với thành Ni-ni-ve
4: - Giô-na với Đức Chúa Trời.
Hoặc:
1: - Giô-na trốn khỏi Đức Chúa Trời
2: - Giô-na cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời.
3: - Giô-na giảng về Đức Chúa Trời.
4: - Giô-na học với Đức Chúa Trời.
CÁCH THỨ II:
Đề mục: GIÔ-NA ĐƯỢC KÊU GỌI
Câu gốc: 1:1-2
- Giô-na được kêu gọi lần thứ I – 1: - 2:
- Mục đích Giô-na được kêu gọi – 1:1-2
- Phản ứng khi Giô-na được kêu gọi – 1:3
- Kết quả Giô-na được kêu gọi – 1:4 – 2:
- Giô-na được kêu gọi lần thứ II – 3: - 4:
- Mục đích Giô-na được kêu gọi – 3:1-2
- Phản ứng khi Giô-na được kêu gọi – 3:3-10
- Giô-na được kêu gọi lần thứ II – 3: - 4:
- Phản ứng của Giô-na – 3:3-4
- Phản ứng của Ni-ni-ve – 3:5-9
- Phản ứng của Đức Chúa Trời – 3:10
- Kết quả Giô-na được kêu gọi – 4:
- Kết quả cho Ni-ni-ve – 4:1-3
- Kết quả cho Giô-na – 4:4-11
IV/. ĐẶC ĐIỂM CỦA SÁCH GIÔ-NA:
- Đặc điểm về Sự Kiện:
BẮT ĐẦU | KẾT THÚC |
Với cơn bão – 1:4 | Với mặt trời và gió cháy – 4:8 |
Với một con cá to – 3:1 | Với con sâu nhỏ – 4:7 |
Với Giô-na ngủ dưới tàu – 1:5b | Với Giô-na ngồi dưới chòi – 4:5 |
Đối thoại giữa người với người – 1:6 | Đối thoại người với Chúa – 4:10-11 |
Một tiên tri không vâng lời Chúa – 1:3 | Một thành tội ác vâng lời Chúa chịu ăn năn – 1:3; 3:5) |
- Đặc điểm về mặt thuộc linh:
- Giô-na làm hình bóng về dân Y-sơ-ra-ên của ông:
- Giô-na không vâng lời Chúa, dù Chúa đã cảnh cáo, nhưng họ không hề ăn năn.
1:4, Chúa khiến gặp bão.
1:6, Chúa mượn lời người chủ tàu kêu gọi ăn năn
Dân Y-sơ-ra-ên được Kinh Thánh gọi là dân cứng cổ (Hêb. 3:7-8; Mathiơ 23:37)
1:6, Chúa mượn lời người chủ tàu kêu gọi ăn năn
Dân Y-sơ-ra-ên được Kinh Thánh gọi là dân cứng cổ (Hêb. 3:7-8; Mathiơ 23:37)
- Giô-na bị quăng vào biển, bị cá nuốt, sự khốn khổ chưa từng có cho một người nào (1:15; 2:1).
Dân Y-sơ-ra-ên bị quăng vào giữa thế gian 3 lần:
400 năm nô lệ tại Ai Cập – Xuất. 12:40
70 năm lưu đày tại Ba-by-lôn – Đa-ni-ên 9:2
Từ năm 70 SC. Dân Y-sơ-ra-ên bị Lamã đế quốc tàn sát, tan lạc khắp thế giới, bị hà hiếp.
Trong thế chiến thứ II, hơn 6 triệu người Y-sơ-ra-ên đã bị giết.
Thật, chưa từng có một dân tộc nào như vậy.
400 năm nô lệ tại Ai Cập – Xuất. 12:40
70 năm lưu đày tại Ba-by-lôn – Đa-ni-ên 9:2
Từ năm 70 SC. Dân Y-sơ-ra-ên bị Lamã đế quốc tàn sát, tan lạc khắp thế giới, bị hà hiếp.
Trong thế chiến thứ II, hơn 6 triệu người Y-sơ-ra-ên đã bị giết.
Thật, chưa từng có một dân tộc nào như vậy.
- Giô-na ăn năn và được tha thứ.
Dân Y-sơ-ra-ên đã từng ăn năn và cũng được tha thứ:
Xuất. 2:23-24
II Sử 36:22-23
Năm 1948, dân Y-sơ-ra-ên lập quốc
Xuất. 2:23-24
II Sử 36:22-23
Năm 1948, dân Y-sơ-ra-ên lập quốc
- Giô-na làm hình bóng về Chúa Jêsus chịu chết – chôn – sống lại.
- Trong Giô-na 2:1 so với Mathiơ 12:40
Chính Chúa Jêsus Christ đã xác nhận Giô-na bị cá nuốt làm hình bóng về sự chết, chôn, sống lại của Ngài
- Trong Kinh Thánh có 3 tiên tri làm hình bóng về Chúa Jêsus rõ ràng:
*Ê-li-sê chết và chôn.
Nhưng sự chết của Ê-li-sê đã đem lại sự sống cho một người. Chúa Jêsus đã chết và đem lại sự sống cho những người tin Ngài (IIVua 13:20-21; Math. 27:51-53)
*Giô-na không phải chết nhưng đã đi vào cõi chết ba ngày ba đêm (2:3). Chúa Jêsus cũng đã chết và sau ba ngày đã sống lại (ICôrintô 15:3-4)
*Ê-li thăng thiên về trời và quăng lại chiếc áo quyền năng bội phần cho môn đồ của ông là Ê-li-sê (IIVua 2:9-14). Chúa Jêsus thăng thiên và đổ Đức Thánh Linh xuống đầy dẫy cho môn đồ của Ngài (Công vụ 2:4, 33)
Nhưng sự chết của Ê-li-sê đã đem lại sự sống cho một người. Chúa Jêsus đã chết và đem lại sự sống cho những người tin Ngài (IIVua 13:20-21; Math. 27:51-53)
*Giô-na không phải chết nhưng đã đi vào cõi chết ba ngày ba đêm (2:3). Chúa Jêsus cũng đã chết và sau ba ngày đã sống lại (ICôrintô 15:3-4)
*Ê-li thăng thiên về trời và quăng lại chiếc áo quyền năng bội phần cho môn đồ của ông là Ê-li-sê (IIVua 2:9-14). Chúa Jêsus thăng thiên và đổ Đức Thánh Linh xuống đầy dẫy cho môn đồ của Ngài (Công vụ 2:4, 33)
- Một cái nhìn mới cho dân ngoại:
- Chúng ta so sánh sách Giô-na với sách Ru-tơ và Công vụ 7: và 10:, thì hành động của Giô-na là giảng Tin Lành cho Ni-ni-ve là một cái nhìn quá mới đối với quan niệm độc đoán của dân Y-sơ-ra-ên.
- Dân Y-sơ-ra-ên cho rằng Đức Chúa Trời là của riêng họ, vì vậy một hành động đem danh Chúa (Đức Giê-hô-va) công bố cho dân ngoại là phạm tội. Ê-tiên đã bị ném đá chết vì công bố rằng Tin Lành cũng giảng cho Dân Ngoại.
Cho nên sự xuất hiện của sách Giô-na là lời cảnh cáo như trong Rôma 10:21; 11:11-32.
Đề mục: TIÊN TRI GIÔ-NA (1)
Kinh Thánh: Sách Tiên tri Giô-na 1:
Câu gốc: 1:2
Mục đích: Tỉnh thức người nghe: một sự khước từ giảng Tin lành là một điều không may mắn.
I/. SỨ MẠNG CỦA TIÊN TRI GIÔ NA:
Đề mục: TIÊN TRI GIÔ-NA (1)
Kinh Thánh: Sách Tiên tri Giô-na 1:
Câu gốc: 1:2
Mục đích: Tỉnh thức người nghe: một sự khước từ giảng Tin lành là một điều không may mắn.
I/. SỨ MẠNG CỦA TIÊN TRI GIÔ NA:
- 1:1-2
- Chúng ta không biết Giô-na được Đức Chúa Trời kêu gọi từ lúc nào, nhưng ngay khi bắt đầu câu 1, Lời Chúa đã ghi: Có lời của Đức Giê-hô-va phán cho Giô-na… Nhóm từ nầy thường được dùng cho các Tiên tri, những người được Đức Chúa Trời biệt riêng phục vụ Chúa.
- Thí dụ một trong những người có liên hệ nhóm từ nầy nhiều là “Tiên tri Ê-li”. Trong sách I Vua đoạn 17 đến đoạn 19, chúng ta thấy nhóm từ nầy xuất hiện rất quen thuộc đối với Tiên tri Ê-li:
- 17:2, 8
- 18:1
- 19:9
Rõ ràng mỗi một bước đi của Ê-li đều có lời Chúa dẫn dắt
- Theo định nghĩa Từ ngữ Tiên tri trong Kinh Thánh dùng, không chỉ có nghĩa là một dạng như Thầy bói, nhưng Tiên tri là người phát ngôn của Đức Chúa Trời, nghĩa là người nói lại ý chỉ của Đức Chúa Trời đối với một đối tượng: một người, một xứ… Trong ý chỉ của Đức Chúa Trời có những khi liên quan đến tội lỗi trong quá khứ của đối tượng, có khi liên quan đến những việc hiện tại, hoặc liên quan đến việc tương lai.
- Giô-na cũng sống có Lời Đức Chúa Trời dẫn dắt, vì ông cũng là một Tiên tri. Và Lời Chúa truyền cho Giô-na trong câu 1 nầy có mấy điểm chúng ta cần lưu ý:
- Chúa xác định Sứ mạng của Chúa truyền cho Giô-na, con trai A-mi-tai. Chúng ta không biết Chúa phán với Giô-na bằng phương cách nào, nhưng chắc chắn Giô-na biết rõ, vì Chúa gọi cả tên cha của ông nữa. Có lẽ thời đó có nhiều người tên Giô-na cho nên Chúa xác định là Giô-na con trai của A-mi-tai; cũng có thể A-mi-tai là người có nhiều tiếng tăm về đạo đức, nên được nhiều người biết đến
Giống như trường hợp của Chúa Jêsus gọi Phi-e-rơ, là Si-môn, con trai Giô-na (Giăng 21:15-17)
Đây là bài học mà Cơ-Đốc nhân phải biết rõ, khi Chúa kêu gọi một người nào làm một việc gì, thì Chúa luôn nói rõ, hay nói ngược lại, một người phục vụ Chúa là người biết rõ Chúa kêu gọi chính mình, không hề có nghi ngờ, mơ hồ nào cả.
Đây cũng là lý do nhiều người mất phước khi họ đang làm công việc Chúa:
Đây là bài học mà Cơ-Đốc nhân phải biết rõ, khi Chúa kêu gọi một người nào làm một việc gì, thì Chúa luôn nói rõ, hay nói ngược lại, một người phục vụ Chúa là người biết rõ Chúa kêu gọi chính mình, không hề có nghi ngờ, mơ hồ nào cả.
Đây cũng là lý do nhiều người mất phước khi họ đang làm công việc Chúa:
- Họ không chịu nhận chính mình được kêu gọi, họ nghĩ là Chúa kêu gọi ai đó trừ ra chính mình – Thí dụ: trong công tác làm chứng về Chúa, rõ ràng Chúa giao phó sứ mạng nầy cho CÁC MÔN ĐỒ, ai biết mình là môn đồ của Chúa thì phải thi hành, nhưng họ cho rằng lời kêu gọi đó là dành cho các Mục sư, Chấp sự, hay Trưởng ban Truyền giảng. Kết quả là họ không hề làm chứng về Chúa cho bất cứ ai. Họ sống cuộc đời của loại nhánh nho không kết quả Giăng 15:1, loại cây vả dưng không trái (Mathiơ 21:18-19)
- Có những người được Chúa kêu gọi rõ ràng, chính họ cũng biết rõ, nhưng họ từ chối, không chịu hạ mình nhận lời kêu gọi của Chúa, họ muốn cuộc đời của họ là của họ. Kết quả là họ đi vào hư mất (Mathiơ 7:21-23), vì Chúa cũng từ chối họ.
- Điểm thứ hai trong câu 1 nầy là Sứ mạng Chúa giao thác cho Giô-na. Một lần nữa chúng ta lại thấy Sứ Mạng Chúa giao cho Giô-na cũng rất rõ ràng, giống như khi Chúa kêu gọi chính tên ông.
- Mục tiêu Giô-na phải đến là giảng Tin lành cho thành Ni-ni-ve – Chúa nói rõ là thành Ni-ni-ve. Đối với chúng ta ngày nay, thành Ni-ni-ve không có gì đáng quan tâm, nhưng đối với Giô-na thì thành Ni-ni-ve là thành phố không thể dung thứ được, đừng nói là yêu thương để giảng Tin lành.
Tại sao?
Vì Ni-ni-ve là thủ đô của Đế quốc A-si-ri, một Đế quốc đã tàn hại quê hương xứ sở của Giô-na nhiều lần, là kẻ thù của dân tộc ông và kẻ thù của ông. Làm sao mà ông có thể giảng Tin lành cho họ được. Vậy mà Chúa lại sai Giô-na đến giảng Tin lành cho Ni-ni-ve.
Vì Ni-ni-ve là thủ đô của Đế quốc A-si-ri, một Đế quốc đã tàn hại quê hương xứ sở của Giô-na nhiều lần, là kẻ thù của dân tộc ông và kẻ thù của ông. Làm sao mà ông có thể giảng Tin lành cho họ được. Vậy mà Chúa lại sai Giô-na đến giảng Tin lành cho Ni-ni-ve.
- Kêu la nghịch cùng nó; Vì tội ác chúng nó đã lên thấu trước mặt ta.
Chẳng những giảng Tin Lành cho Ni-ni-ve, mà còn công kích tội lỗi của họ, cáo trách tội ác đó, dĩ nhiên mục đích của Chúa bao giờ cũng là để họ ăn năn tội lỗi của họ.
Có người chỉ trích rằng trong Hội Thánh của Chúa Jêsus Christ thường hay nói về Tội Lỗi, và rất tiếc là họ đã ngừng ở đó. Đáng lẽ họ phải nói thêm: Hội Thánh của Chúa Jêsus Christ hay nói đến tội lỗi VÀ BAO GIỜ CŨNG GIỚI THIỆU PHƯƠNG CÁCH ĐỂ GIẢI QUYẾT TỘI LỖI là tội nhân phải ăn năn tin nhận Chúa Jêsus Christ làm Cứu Chúa của họ.
Họ muốn Hội Thánh chỉ nói những điều tốt của loài người, trong khi Kinh Thánh phán: “Mọi người đều đã phạm tội”. Nếu Hội Thánh không nhờ ơn Chúa chỉ cho người nghe biết họ là tội nhân, mà chỉ khen, tâng bốc họ, thì khác nào thấy mặt người bị dơ mà mình cứ khen đẹp. Họ không biết câu Danh ngôn người đời nói: Người khen ta mà khen không đúng là KẺ THÙ CỦA TA, người chê ta mà chê đúng là Thầy của ta.
Giống như truyện Cổ tích: CHIẾC ÁO THỦY TÀNG HÌNH, ông vua bị người thợ may gạt cho mặc một cái áo tàng hình, thực chất chỉ là chiếc áo tưởng tưởng dựa vào lòng ham muốn tàng hình của vua. Các vị quan vì muốn làm vua vui lòng nên cứ khen vua mặc áo và đã tàng hình, trong khi dân chúng cười nhạo vì thật ra vua không mặc quần áo gì cả.
TIn lành của Chúa Jêsus Christ cũng không giống các Tôn giáo là chỉ cho người ta biết tội. Các Tôn giáo chỉ có mục đích thuyết phục con người biết mình là tội nhân để khiến họ sợ tội mà tu sửa. Còn Chúa Jêsus Christ thì muốn người ta biết tội và nhận lấy giải pháp để được tha tội của Ngài, ấy là ăn năn tội và tin nhận Chúa Jêsus Christ làm Cứu Chúa của họ.
Có người chỉ trích rằng trong Hội Thánh của Chúa Jêsus Christ thường hay nói về Tội Lỗi, và rất tiếc là họ đã ngừng ở đó. Đáng lẽ họ phải nói thêm: Hội Thánh của Chúa Jêsus Christ hay nói đến tội lỗi VÀ BAO GIỜ CŨNG GIỚI THIỆU PHƯƠNG CÁCH ĐỂ GIẢI QUYẾT TỘI LỖI là tội nhân phải ăn năn tin nhận Chúa Jêsus Christ làm Cứu Chúa của họ.
Họ muốn Hội Thánh chỉ nói những điều tốt của loài người, trong khi Kinh Thánh phán: “Mọi người đều đã phạm tội”. Nếu Hội Thánh không nhờ ơn Chúa chỉ cho người nghe biết họ là tội nhân, mà chỉ khen, tâng bốc họ, thì khác nào thấy mặt người bị dơ mà mình cứ khen đẹp. Họ không biết câu Danh ngôn người đời nói: Người khen ta mà khen không đúng là KẺ THÙ CỦA TA, người chê ta mà chê đúng là Thầy của ta.
Giống như truyện Cổ tích: CHIẾC ÁO THỦY TÀNG HÌNH, ông vua bị người thợ may gạt cho mặc một cái áo tàng hình, thực chất chỉ là chiếc áo tưởng tưởng dựa vào lòng ham muốn tàng hình của vua. Các vị quan vì muốn làm vua vui lòng nên cứ khen vua mặc áo và đã tàng hình, trong khi dân chúng cười nhạo vì thật ra vua không mặc quần áo gì cả.
TIn lành của Chúa Jêsus Christ cũng không giống các Tôn giáo là chỉ cho người ta biết tội. Các Tôn giáo chỉ có mục đích thuyết phục con người biết mình là tội nhân để khiến họ sợ tội mà tu sửa. Còn Chúa Jêsus Christ thì muốn người ta biết tội và nhận lấy giải pháp để được tha tội của Ngài, ấy là ăn năn tội và tin nhận Chúa Jêsus Christ làm Cứu Chúa của họ.
- Đó cũng là Sứ mạng Chúa kêu gọi Giô na và giao thác cho ông. Đó cũng là Sứ mạng Chúa kêu gọi các Thánh đồ trải qua các thời đại, cho đến ngày nay: HÃY ĐI KHẮP THẾ GIAN – một thế gian thù nghịch với Chúa, đầy dẫy tội ác, cứng lòng – GIẢNG TIN LÀNH cho họ. Sứ Mạng nầy còn cao trọng hơn Sứ mạng của Chúa giao cho Giô-na.
II/. THÁI ĐỘ CỦA TIÊN TRI GIÔ-NA:
- 1:3
- Chữ NHƯNG ở đầu câu báo hiệu một điều trái ngược với những lời ở trên, chữ NHƯNG nầy đã báo trước thái độ của Giô-na đối với Sứ mạng mà Chúa giao cho ông: Giô-na chổi dậy đặng – thay vì vâng lời Chúa đi Ni-ni-ve giảng Tin lành – thì Giô na chổi dậy ĐẶNG TRỐN QUA TA-RÊ-SI.
- Thành Ni-ni-ve thì ở phía Đông, tức là nước Iraq ngày nay, còn Ta-rê-si thì ở phía Tây, tức là nước Tây Ban-Nha ngày nay, Giô-na đi ngược lại con đường mà Chúa muốn ông đi.
- Mục đích Giô-na đi Ta-rê-si là gì? Kinh Thánh nói rõ: “đặng trốn”, trốn khỏi mặt Chúa, vì ông tưởng rằng Đức Chúa Trời chỉ có ở phía Đông, mà không hiện hữu ở phía Tây. Giô-na muốn trốn trách nhiệm giảng Tin lành mà Chúa đã giao cho ông.
- Khi nói đến thái độ trốn tránh trách nhiệm nầy, chúng ta phải cảm ơn Chúa để nhắc đến thái độ sẵn sàng giảng Tin lành bất cứ nơi nào của các Thánh đồ khác:
- Ê-sai 6:8, Tiên tri Ê-sai đã sẵn sàng đi giảng Tin Lành cho một dân mà Chúa cho ông biết đó là dân béo lòng, nặng tai không muốn nghe lẽ thật. Nhưng Ê-sai vẫn sẵn sàng: Có tôi đây! Xin hãy sai tôi!
- Rôma 1:14-15, Phaolô nói: ông sẵn lòng rao giảng Tin Lành cho tất cả các hạng người: người Gờ-réc – người có học thức, hay người dã man, giảng Tin lành cho người thông thái hay người ngu dốt.
- Công vụ 8: cho chúng ta một gương mẫu thật cao quý về thái độ của Chấp sự Phi-líp trong việc giảng Tin lành:
8:4-5, Vậy, những kẻ bị tan lạc đi từ nơi nầy đến nơi khác, truyền giảng đạo Tin lành. Tôi quả quyết rằng, trong những kẻ bị tan lạc ấy vì sự bắt bớ tàn hại của Sau-lơ, có Chấp sự Phi-líp, và Phi-líp đã không bỏ qua việc giảng Tin Lành, khi ông chạy đến thành Sa-ma-ri.
8:26, khi nghe Chúa bảo bỏ Sa-ma-ri xuống phía Nam thành Ga-xa, Philíp đã có thái độ vâng phục Chúa đi ngay. Tại đó ông giảng Tin lành cho hoạn quan Ê-thi-ô-pi.
8:39-40, vừa giảng Tin lành cho Hoạn quan xong tại Ga-xa, Chúa lại bảo Philíp đi lên phía Bắc đến A-xốt, đến Sê-sa-rê, Philíp cứ vâng lời đi và giảng Tin lành khắp những nơi nào mình đã ghé qua.
8:26, khi nghe Chúa bảo bỏ Sa-ma-ri xuống phía Nam thành Ga-xa, Philíp đã có thái độ vâng phục Chúa đi ngay. Tại đó ông giảng Tin lành cho hoạn quan Ê-thi-ô-pi.
8:39-40, vừa giảng Tin lành cho Hoạn quan xong tại Ga-xa, Chúa lại bảo Philíp đi lên phía Bắc đến A-xốt, đến Sê-sa-rê, Philíp cứ vâng lời đi và giảng Tin lành khắp những nơi nào mình đã ghé qua.
- Đó là thái độ mà Chúa muốn Cơ-Đốc nhân chúng ta ngày nay phải có trong việc giảng Tin lành.
- Thế thì thái độ của Giô-na thật đáng trách. Giô-na từ cái sai nầy đến cái khác, Giô-na lại còn dùng TIỀN Chúa cho ông có để trả cho hành trình trốn Chúa của ông – Người trả tiền quá giang; Giô na lại phạm một sai lầm nữa là: xuống tàu đặng đi … với họ…, bây giờ thì Giô-na đã đồng hóa với những người ngoại
- Anh chị em ơi, hãy rờ lòng tự hỏi: Chúng ta đã có thái độ nào đối với Sứ mạng giảng Tin lành cho đồng bào của chúng ta? Tôi nhắc lại: giảng cho ĐỒNG BÀO CỦA CHÚNG TA, không phải giảng cho kẻ thù của chúng ta. Xin hãy nghe những câu trả lời với Chúa đã và đang được nói trong Hội Thánh của Chúa ngày nay:
- Người Việt-nam cứng lòng lắm, không tin Chúa đâu, nên thôi cứ lo cho Hội Thánh hiện có là đủ rồi.
- Ở Mỹ nầy không có thì giờ, Mục sư thông cảm.
- Lâu lâu truyền giảng một lần là được rồi. Mình cũng phải có thì giờ để vui chơi một chút chớ.
- Hội Thánh đang thiếu tiền, phải giảm lại việc truyền giảng.
- Được, nhưng chờ cho Hội Thánh ổn định đã.
- Mình lo chăm sóc những người đã tin Chúa trong thời gian qua còn chưa xong, truyền giảng nữa làm sao chăm sóc họ.
- Câu nói nào trong những câu đó đã và đang vang lên trong lòng anh chị em? hãy nhơn danh Chúa Jêsus Christ mà ra lịnh cho tiếng nói đó im đi, vì đó là tiếng của ma quỉ – tiếng nói của kẻ ngăn trở giảng Tin lành cứu người.
- Trước đây có một người khi nghe kêu gọi giảng Tin lành thì họ chủ trương khi nào Chúa CẢM ĐỘNG mới đi giảng. Tôi hỏi họ: Chừng nào Chúa cảm động? Họ nói: Chưa biết. Tôi phải nói với họ rằng:Đại Mạng Lịnh giảng Tin Lành đã được Chúa ban gần 2000 năm qua, mà cho đến giờ nầy, anh em vẫn còn ngồi chờ cảm động. Nếu 2000 năm qua, các Sứ đồ, các thánh đồ ngồi chờ cảm động thì làm sao anh em ngày nay được cứu rỗi? Thật là thái độ của Giô-na
- Nếu anh chị em không có thái độ sẵn sàng giảng Tin Lành như Tiên tri Giô-na, thì hãy nghe lời Chúa cảnh cáo trong I Côrintô 9:16, Ví bằng tôi rao truyền Tin lành, tôi chẳng có cớ gì khoe mình, vì có lẽ cần buộc tôi; CÒN KHÔNG RAO TRUYỀN TIN LÀNH, THÌ KHỐN KHÓ CHO TÔI THAY.
- Anh chị em hãy đọc tiếp những lời tiếp theo để biết Đức Chúa Trời đã làm gì trước thái độ của Giô-na khước từ Sứ mạng giảng Tin lành cho Ni-ni-ve.
III/. ĐỨC CHÚA TRỜI ĐỐI VỚI TIÊN TRI GIÔ-NA:
- 1: 4-16
- Kinh Thánh không cho chúng ta biết chiếc tàu chở Giô-na khởi hành được bao lâu thì xảy ra cơn bão. Căn cứ vào khoảng cách giữa câu 3 và câu 4, và sự việc được tường thuật trong phân đoạn nầy, chắc chắn tàu đã ra khá xa không thể trở vào bờ được, nhưng cũng không thể quá xa bờ, để Giô-na có thể tiếp tục đến Ni-ni-ve sau đó.
- Điều gì đã xảy ra cho Giô-na khi ông không chịu đi giảng Tin lành? Câu 4, Đức Giê-hô-va khiến gió lớn thổi … có trận bão lớn, chiếc tàu hầu vỡ.
- Kinh Thánh xác nhận trận bão xảy ra không do tình cờ mà là từ Chúa đến và nhắm vào chiếc tàu đang chở Giô-na đi trốn. Mọi người đều sợ hãi và tìm mọi cách để thoát khỏi nguy hiểm:
- câu 5, những thủy thủ quăng đồ đạc xuống biển để tàu nhẹ bớt mà nổi lên.
- câu 6, họ kêu gọi cầu nguyện theo niềm tin của mỗi người trong đó có Giô-na, câu 7, họ bắt thăm để tìm nguyên nhân tai họa xảy đến, rõ ràng họ biết cơn bão nầy không phải bình thường
- Còn đối với Giô-na, người chối từ mạng lịnh của Chúa giao phó, thì kết quả như thế nào?
- câu 5b, Giô-na xuống lòng tàu và ngủ – chúng ta không biết Giô-na có ngủ được không với tâm trạng trốn chạy, và trong hoàn cảnh giông bão như thế (Anh chị em nào từng vượt biên bằng tàu, đang lúc sóng to gió lớn – chưa phải là bão, có ngủ được không? Chắc chắn câu trả lời là KHÔNG!)
- câu 6, Giô-na bị người chủ tàu là người ngoại quở trách, thúc giục cầu nguyện, đáng lẽ phải ngược lại giờ đó Giô-na là người thúc giục người khác cầu nguyện với Đức Chúa Trời, vì Giô-na là Tiên tri, là người của Đức Chúa Trời.
- câu 7, Giô-na bị chỉ ra là người thay vì đem phước hạnh đến cho người chung quanh thì ông là người đem tai họa đến.
- câu 15, Giô-na bị quăng xuống biển. Khi ấy gió bão mới yên lặng.
- Thật đúng như Phaolô đã nói trong I Côrintô 9:16b, không rao truyền Tin Lành, thì khốn khó cho tôi thay!”
- Kinh Thánh đã ghi lại nhiều lần những người từ chối Sứ mạng cứu người của Chúa giao, kết quả đời sống của những người ấy thật không may mắn:
- Sách Các Quan Xét 4:8-9, Chúa giao Sứ mạng cứu người cho Ba-rác, nhưng Ba-rác từ chối trách nhiệm chính, kết quả là vinh hiển của chiến thắng thuộc về Nữ Tiên tri Đê-bô-ra.
- Ê-xơ-tê 4:13-14, mạc-đô-chê cảnh cáo Ê-xơ-tê là nếu bà làm thinh trong lúc dân sự cần giải cứu, thì Đức Chúa Trời sẽ có cách khác, nhưng bà và gia đình bà sẽ không may mắn.
- Công vụ 8:4, Hội Thánh Đầu tiên sau vài thành công tại Giê-ru-sa-lem, họ đã quên Sứ mạng Chúa giao phải từ Giê-ru-sa-lem đến Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến cùng trái đất, họ chỉ muốn ở Giê-ru-sa-lem mà thôi, kết quả là Chúa phải cho phép sự bắt bớ xảy ra, khiến mọi người tan lạc.
- Người đời họ nói: Rượu mời không uống, bây giờ uống rượu phạt. Anh chị em muốn tự nguyện thi hành Sứ mạng rao giảng Tin Lành hay để Chúa buộc chúng ta như Tiên tri Giô-na? Nguyện Chúa cho tất cả TÌNH NGUYỆN VÂNG LỜI CHÚA THI HÀNH SỨ MẠNG GIẢNG TIN LÀNH, ngay cả cho những người thù nghịch của chúng ta.
Đề mục: GIÔ-NA TRONG BỤNG CÁ
Kinh Thánh: Giô-na 2:1-11
Câu gốc: Giô-na 2:1
I/. LÝ DO GIÔ-NA TRONG BỤNG CÁ:
- Giô-na 2:1
- Lý do Giô-na ở trong bụng cá được câu 1 nầy trả lời rõ ràng: Đức Giê-hô-va sắm sửa một con cá lớn đặng nuốt Giô-na.
- Có ba điều mà chúng ta phải suy nghĩ về câu Kinh Thánh nầy:
- Đức Giê-hô-va sắm sửa:
Kinh Thánh xác nhận việc Giô-na ở trong bụng cá không phải là một tai nạn tình cờ xảy ra, mà hoàn toàn do Chúa điều khiển. Hai chữ “sắm sửa” cho thấy việc Giô-na ở trong bụng cá là ở trong chương trình của Đức Chúa Trời.
Đặc biệt, trong sách tiên tri Giô-na nầy, chúng ta thường thấy xuất hiện từ ngữ “sắm sửa”
1:4, Nhưng Đức Giê-hô-va KHIẾN gió lớn thổi lên,
2:1, Đức Giê-hô-va sắm sửa
4:6, Đức Giê-hô-va sắm sẵn một dây dưa…
4:7, Đức Giê-hô-va sắm (sẵn) một con sâu
4:8, Đức Giê-hô-va sắm (sẵn) gió cháy…
Đặc biệt, trong sách tiên tri Giô-na nầy, chúng ta thường thấy xuất hiện từ ngữ “sắm sửa”
1:4, Nhưng Đức Giê-hô-va KHIẾN gió lớn thổi lên,
2:1, Đức Giê-hô-va sắm sửa
4:6, Đức Giê-hô-va sắm sẵn một dây dưa…
4:7, Đức Giê-hô-va sắm (sẵn) một con sâu
4:8, Đức Giê-hô-va sắm (sẵn) gió cháy…
- Những lời đó có nghĩa gì? Những lời đó được ghi lại để làm chứng cho chúng ta rằng câu chuyện trong sách tiên tri Giô-na không phải là truyện thần thoại, hoang đường, mà là câu chuyện chứng thực Đức Chúa Trời đang cầm quyền trên mọi sự từ thiên nhiên như gió, bão, đến những con vật to lớn như con cá to đến con vật nhỏ bé như con sâu, một dây dưa.
- Một con cá lớn:
Lời Chúa xác nhận con cá mà Chúa sắm sửa là một con cá lớn.
Trước đây có những người vô tín muốn tìm cách bài bác Kinh Thánh, nên đã thách thức Cơ-Đốc nhân cho thấy bằng cớ nào chứng minh có con cá to đến nỗi có thể nuốt được một người?
Thật là kỳ diệu, sau năm 1975, Chúa đã cho một tạp chí của Cộng sản đăng bài chứng minh lẽ thật Kinh Thánh – dĩ nhiên là họ không có ý ủng hộ Kinh Thánh. (Tôi muốn nhấn mạnh điều nầy vì Chúa đã dùng những người không tin Chúa, không tin Kinh Thánh để chứng minh Kinh Thánh). Tôi xin trích bài sau đây từ Tạp chí “VÉN MÀN BÍ MẬT” số 4, Phụ san Tờ Khoa học Kỹ thuật Sông bé – dịch từ Journal des Debats of Paris:
Trước đây có những người vô tín muốn tìm cách bài bác Kinh Thánh, nên đã thách thức Cơ-Đốc nhân cho thấy bằng cớ nào chứng minh có con cá to đến nỗi có thể nuốt được một người?
Thật là kỳ diệu, sau năm 1975, Chúa đã cho một tạp chí của Cộng sản đăng bài chứng minh lẽ thật Kinh Thánh – dĩ nhiên là họ không có ý ủng hộ Kinh Thánh. (Tôi muốn nhấn mạnh điều nầy vì Chúa đã dùng những người không tin Chúa, không tin Kinh Thánh để chứng minh Kinh Thánh). Tôi xin trích bài sau đây từ Tạp chí “VÉN MÀN BÍ MẬT” số 4, Phụ san Tờ Khoa học Kỹ thuật Sông bé – dịch từ Journal des Debats of Paris:
- Con cá lớn đặng NUỐT Giô-na
- Chẳng những Chúa sắm sửa con cá lớn đủ sức nuốt Giô-na, Chúa còn sắm sửa một loại cá NUỐT Giô-na.
- Khi suy nghĩ đến điều nầy, tôi thật là cảm tạ Chúa, nếu Chúa sai một con cá lớn, mà là một con cá mập, thì Giô-na không thể nào còn sống, vì loài cá mập với hàm răng sắc bén nó không NUỐT, mà chỉ TÁP, sức mạnh một cái táp của cá mập có thể làm đứt ngang thân thể Giô-na. Cảm ơn Chúa, con cá lớn nầy chỉ NUỐT Giô-na.
- Nhưng có một điều quan trọng là nhiều người chống đối Kinh Thánh, luôn thắc mắc là:Loài cá nào có thể nuốt Giô-na, con cá bao lớn… mà họ không thắc mắc: Tại sao Giô-na bị cá nuốt? Họ cố quên lý do Giô-na gặp bão, rồi bị cá nuốt là vì Giô-na đã không vâng theo Lời Chúa. Tại sao họ cố tình bỏ quên lý do Giô-na bị cá nuốt? Vì rõ ràng chính người thắc mắc nầy là người đang không vâng lời Chúa, họ biết là số phận người không vâng lời Chúa là cuộc đời gặp bão, bị cá nuốt.
II/. GIÔ-NA LÀM GÌ TRONG BỤNG CÁ?
- Giô-na 2:2-11
- Câu 2 cho chúng ta câu trả lời: Giô-na trong bụng cá cầu nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
- Thật cảm ơn Chúa, so với đoạn 1:
- 1:5b, Giô-na xuống tàu và ngủ, ngủ để cố quên lời Chúa dạy, cố quên trách nhiệm giảng Tin Lành.
- 1:12, dù được chủ tàu kêu gọi cầu nguyện, nhưng Giô na không cầu nguyện, và ông đã liều mạng đề nghị các thủy thủ quăng ông xuống biển.
- Tôi suy nghĩ: Tại sao Giô-na không tự nhảy xuống biển, mà bảo các thủy thủ quăng ông xuống biển?
- Rõ ràng Giô-na cũng sợ chết.
- Cảm ơn Chúa, bây giờ ở trong bụng cá, Giô-na đã bằng lòng cầu nguyện với Giê-hô-va Đức Chúa Trời của MÌNH.
- Giô-na cầu nguyện điều gì?
- 2:3-4, Giô na đã đầy đức tin trong sự cầu nguyện, ông biết rõ Chúa nghe lời cầu nguyện của ông, dù Chúa đã quăng ông vào Âm phủ, vực sâu. Ông biết rõ điều ông chịu là hình phạt mà Chúa đã dành cho ông.
- 2:5-9, Giô-na đã cầu nguyện với tấm lòng ăn năn hướng về Chúa. Giô-na nói với Chúa: Dầu vậy, tôi còn nhìn lên đền thánh của Ngài … nhưng Ngài đã đem mạng sống tôi lên khỏi hầm hố … Khi linh hồn tôi mòn mỏi trong tôi, thì tôi nhớ đến Đức Giê-hô-va, và lời cầu nguyện của tôi đạt đến Ngài…
- 2:10, Cảm ơn Chúa hơn nữa, sau khi hạ mình ăn năn với Chúa, Giô-na đã hứa nguyện vâng lời Chúa, hứa nguyện trả xong sự hứa nguyện của ông. Giô-na đã hứa nguyện điều gì? Giô-na là một người hầu việc Chúa, chắc chắn ông đã từng hứa nguyện dâng mình phục vụ Chúa. Ông hứa nguyện dâng mình cho Chúa để làm gì? Chắc chắn Giô-na không hứa nguyện làm vua, làm quan… mà ông đã hứa nguyện dâng mình để giảng Tin Lành cứu người, kể cả cứu kẻ thù của ông là dân A-si-ri và thành Ni-ni-ve.
- Anh chị em có để ý, trong lời cầu nguyện của Giô-na, ông luôn nhắc đến Danh Giê-hô-va của Chúa. Tại sao? Vì đó là Danh của Giao ước, Giô-na đã biết nắm lấy giao ước của Chúa để cầu xin sự tha thứ.
- Điều làm tôi cảm động là Giô-na đã biết sự sai lầm của ông khi trốn tránh trách nhiệm giảng Tin Lành đến nỗi bị Chúa sửa phạt. Khi bị Chúa sửa phạt, Giô-na biết ăn năn và hứa nguyện trở lại với trách nhiệm giảng Tin Lành.
- Nguyện Chúa tìm thấy tại đây, giữa chúng ta có những tấm lòng như Giô-na, biết ăn năn vì đã từng hứa nguyện với Chúa – nhất là qua việc ăn Tiệc Thánh: mỗi lần anh em ăn bánh nầy, uống chén nầy, thì sẽ rao sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến – hãy tái hứa nguyện trở lại trách nhiệm giảng Tin Lành cứu người mà Chúa đã giao cho Cơ-Đốc nhân chúng ta.
III/. GIÔ-NA TRONG BỤNG CÁ BAO LÂU?
- Giô-na 2:11
- 2:1b cho chúng ta biết Giô-na ở trong bụng cá 3 ngày 3 đêm, và sau đó Đức Chúa Trời đã phán cùng con cá.
- Một lần nữa, chúng ta thấy bàn tay của Đức Chúa Trời can thiệp và lo liệu cho Giô-na từng việc lớn lẫn việc nhỏ. Và một lần nữa, chúng ta lại ngợi khen Chúa vì Chúa của chúng ta thờ phượng là Đức Chúa Trời Tạo Hóa, có quyền trên muôn loài vạn vật, hơn thế nữa các loài vật cũng vâng lịnh Ngài.
- Và con cá đã nghe lời của Đức Chúa Trời.
- Anh chị em có nhớ một tiên tri khác không biết vâng lời Chúa, trong khi một con vật đã biết nghe lời Chúa không?
- Đó là tiên tri Ba-la-am, được ghi trong sách Dân số ký 22:22-30. Tiên tri Ba-la-am đã không vâng lời Chúa, Chúa đã cấm ông không cho ông đi rủa sả dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, nhưng ông có lòng muốn đi, và kết quả là Chúa phải mở miệng con lừa để dạy một tiên tri.
- Tại sao Chúa cho phép Giô-na ở trong bụng cá 3 ngày 3 đêm?
- Câu trả lời lần nầy là của chính Chúa Jêsus Christ trong Mathiơ 12:39-40, ấy là để làm dấu chỉ về Chúa Jêsus Christ sẽ ở trong mồ mả ba ngày ba đêm. Điều nầy cho chúng ta xác định một điều: Tất cả những điều xảy ra trong Cựu Ước đều làm hình bóng chỉ về Đấng Cứu thế trong Tân Ước – ngay cả câu chuyện tiên tri Giô-na ở trong bụng cá.
- Giô-na đã ra khỏi bụng cá bằng cách nào?
- 2:11, Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Chúa ra lịnh cho con cá MỬA Giô-na ra trên đất. Kinh Thánh đã dùng động từ “mửa”, trong khi nhiều người học Kinh Thánh lại hay dùng động từ “nhả”. Không, Kinh Thánh dùng động từ “mửa” hay nói cách khác là “ói” ra.
- Có một cụ Mục sư hưu trí nói những lời thật thâm thúy để căn dặn những người hầu việc Chúa trẻ:Khi Giô-na là người hầu việc Chúa mà không vâng lời Chúa, đi theo ý riêng, dù có ăn năn, thì cũng sẽ như Giô-na khi được con cá mửa ra, từ đó Giô-na đi đâu cũng mang theo mùi tanh của con cá.Thật là một lời đáng học!
- Kinh Thánh không xác định con cá mửa Giô-na ra trên vùng đất nào. Có thể con cá đã mửa Giô-na ra trên bờ biển Địa Trung Hải, nơi mà Giô-na đã trốn đi; nhưng cũng có thể con cá đã mửa Giô-na ra trên vùng Vịnh Persian, phía nam xứ A-si-ri, nghĩa là trong ba ngày, con cá đã chở Giô-na đi một đoạn đường rất xa từ Địa Trung Hải vòng qua Đại Tây Dương đến Vịnh Persian. Có thể như thế để Giô-na bớt một đoạn đường dài.
- Dù vùng đất nào đi nữa, điều mà chúng ta phải để ý là Giô-na được con cá mửa ra trên ĐẤT KHÔ!. Con cá không mửa Giô-na trên biển.
- Anh chị em ơi, chúng ta còn nói được điều gì với Chúa hơn là cảm tạ Chúa, vì sự nhơn từ của Chúa thật còn đến đời đời, như Kinh Thánh làm chứng: Ngài không bắt tội luôn, cũng chẳng giữ lòng giận đến đời đời. Ngài không đãi chúng tôi theo tội lỗi của chúng tôi, cũng không báo trả chúng tôi tùy sự gian ác của chúng tôi (Thi thiên 103:10-11)
- Điều tôi cầu xin là tất cả chúng ta xin Chúa ban cho tấm lòng mềm mại sẵn sàng vâng lời Chúa giảng Tin lành, đừng để Chúa phải sai cá nuốt – tôi nói cá nuốt, nhắc tôi nhớ đến những anh chị em từng vượt biển tìm tự do đến Đất Mỹ nầy. Trong những ngày phong trào vượt biển sôi động, người Việt-nam chúng ta có câu nói: Một là con nuôi má; hai là con nuôi cá; ba là má nuôi con (vì con bị bắt ở tù). Và nhơn kỷ niệm 30 năm người Việt-nam tạm dung trên đất Mỹ, chắc chắn kỷ niệm hãi hùng trên biển với hàng trăm ngàn người bị cá nuốt trên biển khó mà phôi pha trong lòng người dân Việt-nam. Xin Chúa cũng cho chúng ta ngày nay là những người thoát cảnh cá nuốt, ở được bến bờ tự do, sẽ nhớ bài học Giô-na trong bụng cá, mà kíp mau rao giảng Tin lành, vâng theo Đại mạng Lịnh của Chúa, hầu không bị cá Satan nuốt.
Đề mục: GIÔ-NA GIẢNG TẠI THÀNH NI-NI-VE
Kinh Thánh: Giô-na 3:
Câu gốc: Giô-na 3:5
Mục đích: Khích lệ con cái Chúa rao giảng Tin lành.
I/. LÝ DO GIÔ-NA GIẢNG TẠI THÀNH NI-NI-VE:
- Giô-na 3:1-4
1/. Vì mạng lịnh của Chúa:
- Giô-na 3:1-2.
- Ngay câu 1 đã xác định lý do Giô-na phải đi rao giảng Lời Chúa cho thành Ni-ni-ve là do lịnh của Chúa truyền: Lại có lời Đức Giê-hô-va phán…
- Chúa truyền cho Giô-na điều gì?
- Chúa bảo Giô-na đi đến thành lớn Ni-ni-ve, Chúa xác định địa điểm để Giô-na rao giảng Tin Lành rõ ràng.
- Thành lớn Ni-ni-ve là thủ đô của Đế quốc A-si-ri, một Đế quốc rất hung dữ đang trong thời kỳ cực thịnh, đã từng dẫn quân xâm chiếm các nước, trong đó có nước Y-sơ-ra-ên của Giô-na. Lòng yêu nước của Giô-na đã khiến ông thù ghét Ni-ni-ve hơn là muốn rao giảng Tin Lành cho họ.
- Thành lớn Ni-ni-ve nhắc Giô-na đến vấn đề chủng tôc, họ là dân ngoại bang, còn Giô-na là tuyển dân Y-sơ-ra-ên của Chúa. Một người Y-sơ-ra-ên thì không giao tiếp với dân ngoại.
- Thành lớn Ni-ni-ve nhắc Giô-na những khó khăn mà ông sẽ phải đối diện khi đến đó rao giảng Tin lành.
- Đây không phải là lần thứ 1 Giô-na nhận lịnh trực tiếp từ Chúa. Chữ “LẠI” trong câu một hàm ý đã có một lần Chúa truyền lịnh cho Giô-na rao giảng Tin Lành cho Ni-ni-ve trước đó (1:1), và lần trước đó ông Giô-na đã từ chối bằng cách trốn khỏi mặt Chúa. Nếu Chúa không thương xót thì Giô-na đã chết giữa biển khơi rồi (1:15).
2/. Vì Chúa muốn cứu dân Ni-ni-ve:
- Giôna 3:3-4
- Chúng ta có thể hiểu được tâm trạng của Giô-na khi ông đi đến Ni-ni-ve giảng Tin Lành: chắc chắn rất miễn cưỡng, như trong câu 3 phần b, Giô-na chờ dậy… theo lịnh của Đức Giê-hô-va, có phải chăng vì lịnh Chúa – một mạng lịnh mà ông không cãi lại được – cãi lại là bị phạt như lần trước, suýt chút nữa thì mất mạng, cá nhân ông thì không được tinh thần như Phaolô (Rôma 1:15, sẵn lòng; II Tim 4:2, giảng đạo, cố khuyên).
- Ngay cả sứ điệp mà Giô-na rao giảng cũng chỉ nửa phần: Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-ve sẽ đổ xuống (câu 4). Giô-na chỉ rao án phạt tội lỗi mà không rao Ân điển giải cứu. Rõ ràng Sứ điệp Giô na rao giảng không phải là Tin Lành mà là một Tin Dữ.
- Kinh Thánh luôn làm chứng rằng Chúa luôn muốn Tin lành được rao giảng cho tội nhơn để họ ăn năn và được cứu:
- Êxêchiên 33:11, Chúa phán: Thật như ta hằng sống, ta chẳng lấy sự kẻ dữ chết làm vui, nhưng vui về nó xây bỏ đường lối mình và được sống. Các ngươi khá xây bỏ, xây bỏ đường lối xấu mình…
- II Phi 3:9, Chúa không chậm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia tưởng đâu, nhưng Ngài lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn.
- Tin Lành của Chúa bao giờ cũng rao báo hình phạt cho tội nhơn biết, nhưng Tin Lành không ngừng ở chỗ rao báo hình phạt cho tội nhơn, nhưng Tin Lành tiếp tục rao báo một phương pháp giải cứu để tội nhơn ăn năn được tha thứ.
- Giô-na không giảng như vậy, ông chỉ giảng một Tin Dữ, ông rao giảng: còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-ve sẽ bị đổ xuống! Và ông chấm dứt bài giảng ở đó, không hề đưa ra phương pháp giải cứu của Chúa.
- Lý do Chúa muốn Giô-na giảng tại thành Ni-ni-ve là vì Chúa muốn dân tộc tội ác đó ăn năn để được cứu. Đó là lý do Chúa nhất định sai Giô-na đến Ni-ni-ve – dù Giô-na không muốn.
II/. THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI VIỆC GIÔ-NA GIẢNG TẠI THÀNH NI-NI-VE:
- Giô-na 3:5-9
- Thật kỳ diệu quá! Thật cảm động quá! Đọc phân đoạn mô tả thái độ của dân Ni-ni-ve đối với sứ điệp của Tiên tri Giô-na về hình phạt mà Đức Chúa Trời sắp đổ xuống trên thành tội ác của họ.
- Anh chị em hãy xem thái độ của dân Ni-ni-ve:
1/. Tất cả đều ăn năn:
- Giô-na 3:5-8
- Có bao nhiêu hạng người hạ mình ăn năn với Chúa?
- câu 6: Vua Ni-ni-ve không dám ngồi trên ngai vàng nữa, vua lột áo, mặc bao gai, ngồi trong tro bụi, bày tỏ sự ăn năn hết lòng.
- câu 7, vua ra lịnh cho các kẻ tôn trưởng: không luận người hay thú vật kiêng ăn, quấn bao gai, hết lòng ăn năn.
Nếu chúng ta đọc lịch sử dân A-si-ri, chúng ta sẽ thấy các vua A-si-ri là những vua rất độc ác. sách II Vua từ đoạn 17 đến đoạn 19, chúng ta sẽ thấy sự hung dữ phạm thượng của các vua A-si-ri.
Cảm ơn Chúa, trong số các vua A-si-ri độc ác đó, có một vị vua biết hạ mình ăn năn quay lại với Đức Chúa Trời.
2/. Cách họ ăn năn: Câu 8b,
Cảm ơn Chúa, trong số các vua A-si-ri độc ác đó, có một vị vua biết hạ mình ăn năn quay lại với Đức Chúa Trời.
2/. Cách họ ăn năn: Câu 8b,
- hết sức kêu cầu sự tha thứ,
- ai nấy khá bỏ đường lối xấu của mình
- ai nấy khá bỏ việc hung dữ của tay mình
Nghĩa là lòng ăn năn thật được bày tỏ qua sự ăn năn trong tư tưởng (đường lối), ngay cả việc làm (tay mình).
Tôi không biết có ai giảng Lời Chúa trong sách II Sử ký 7:14 cho dân Ni-ni-ve hay không, nhưng họ thật đã từng bước áp dụng đúng như Lời Chúa dạy về sự ăn năn để được tha thứ: Tha thứ tội chính mình và xứ sở cũng được cứu.
3/. Tin sự nhơn từ của Chúa:
Tôi không biết có ai giảng Lời Chúa trong sách II Sử ký 7:14 cho dân Ni-ni-ve hay không, nhưng họ thật đã từng bước áp dụng đúng như Lời Chúa dạy về sự ăn năn để được tha thứ: Tha thứ tội chính mình và xứ sở cũng được cứu.
3/. Tin sự nhơn từ của Chúa:
- Câu 9.
- Thật sự chúng ta không biết làm cách nào mà một dân đầy dẫy tội ác như Ni-ni-ve lại biết được Đức Chúa Trời là Đấng có lòng thương xót, sẵn sàng tha thứ, xá điều tội trọng – vì chúng ta không thấy sứ điệp Đức Chúa Trời thương xót trong bài giảng của Giô-na.
- Chúng ta cũng phải ngạc nhiên về tấm lòng mềm mại của dân Ni-ni-ve khi nghe giảng Tin lành – dù Tin Lành đó chỉ mới giảng phân nửa – dân Ni-ni-ve đầy lòng tin cậy nơi sự thương xót của Chúa tha thứ không hình phạt họ.
- Đây không phải là bài học cho chúng ta ngày nay để khích lệ chúng ta giảng Tin Lành cho mọi người sao? Chúng ta thường nghĩ và nói rằng: Người Việt-nam ở Mỹ khó tin Chúa vì họ sống quá đầy đủ. Ở Việt-nam cũng vậy, nhiều người mỗi lần nghĩ đến những người từng bắt bớ Hội Thánh thì lập tức nghi ngờ, không nghĩ rằng những người đó cần ăn năn tội biết dường nào.
- Công vụ 9:26, hãy xem thái độ của các tín đồ trong Hội Thánh đầu tiên, họ thật không thể tin rằng một người như Sau-lơ (9:21) lại có thể tin nhận Chúa Jêsus Christ, các môn đồ đã né tránh.
- Thật là cảm tạ Chúa, trong khi đó dân Ni-ni-ve đầy tội lỗi đáng chết, tội lỗi đến nỗi án phạt từ Đức Chúa Trời đã được Giô na rao báo chỉ còn 40 ngày nữa sẽ đổ xuống, thế mà họ vẫn có lòng tin rằng Chúa sẽ tha thứ nếu họ ăn năn.
- Đọc những lời mô tả dân thành Ni-ni-ve ăn năn, xin Chúa cảm động lòng anh chị em đứng dậy tiếp tục giảng Tin Lành cho những người Việt-nam ngay trên đất Mỹ nầy – dù họ nghe hay là không nghe, duy để chúng nó biết rằng ở giữa họ có những tiên tri của Đức Chúa Trời.
- Tôi quyết chắc rằng vẫn có người còn giữ được tấm lòng mềm mại ăn năn với Chúa.
III/. KẾT QUẢ VIỆC GIÔ-NA GIẢNG TẠI THÀNH NI-NI-VE:
- Giô-na 3:10
- Nhiều người đọc đến câu nầy, cứ thắc mắc: Như vậy Đức Chúa Trời có thay đổi không? Đức Chúa Trời có ăn năn không? Họ thắc mắc như vậy mà không hề quan tâm đến lòng nhơn từ của Chúa đã tha thứ, không bắt tội luôn, cũng chẳng giữ lòng giận đến đời đời (Thi thiên 103:9)
- Rõ ràng không phải Chúa thay đổi mà do lòng người thay đổi. Kinh Thánh phán: Bấy giờ Đức Chúa Trời thấy việc họ làm đều đã xây bỏ đường lối xấu của mình….
- Chúng ta có thể thí dụ như đường lối của Đức Chúa Trời là một chương trình đã cài đặt (set up) sẵn rồi, tùy chúng ta nạp dữ liệu đúng theo đường lối đó hay không. Nếu chúng ta biết mình nạp sai dữ liệu, chúng ta thay đổi cách nạp đúng chương trình đã cài đặt thì kết quả tốt sẽ hiện ra cho chúng ta.
- Cảm ơn Chúa, một lần nữa Kinh Thánh làm chứng rằng Chúa không muốn con người chết mất, trầm luân, nhưng muốn mọi người ăn năn để được cứu, dù những con người đó là dân thành Ni-ni-ve tội ác miển là họ biết hạ mình ăn năn xây bỏ đường lối xấu của mình, quay lại với Đức Chúa Trời yêu thương. Và Đức Chúa Trời đã tha thứ cho họ.
- Ngay cả những người thắc mắc về sự thay đổi của Đức Chúa Trời, họ không nhìn thấy một việc quan trọng nữa là Chúa vẫn chờ đợi họ thay đổi: thay vì cứ thắc mắc Chúa có thay đổi không thì họ phải thắc mắc tại sao cho đến giờ nầy họ không thay đổi xây bỏ đường lối xấu của họ quay lại với Đức Chúa Trời yêu thương? Nếu họ cứ không chịu thay đổi thì Chúa sẽ không thay đổi án phạt trên họ, như Lời Chúa đã phán: Ai tin Con thì được sự sống đời đời; ai không chịu tin Con thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó (Giăng 3:36).
- Cầu xin Chúa là Đức Chúa Trời yêu thương ban cho anh chị em là những người đã tin cậy nơi sự nhơn từ của Chúa như dân Ni-ni-ve, đã ăn năn, đã bỏ đường lối xấu của mình, đã quay lại tìm sự tha thứ của Chúa, sẽ hiệp với tác giả Thi thiên 118 ca tụng sự nhơn từ của Chúa (Thi thiên 118:1-4) luôn chúc tụng sự nhơn từ của Chúa còn đến đời đời.
- Cầu xin Chúa cho ai đó trong chúng ta chưa từng ăn năn tội lỗi của mình, thay vì cứ thắc mắc với Chúa, hãy bắt chước dân Ni-ni-ne hạ mình ăn năn quay lại cùng Đức Chúa Trời để được Chúa tha thứ tội ác và chữa lành bịnh tật.
Đề mục: CHÚA DẠY GIÔ-NA
Kinh Thánh: Giô-na 4:1-11
Câu gốc: Giô-na 4:10-11 (Đức Giê-hô-va lại phán: Ngươi đoái tiếc một dây mà ngươi chưa hề khó nhọc vì nó … Còn ta, há không đoái tiếc thành lớn Ni-ni-ve…)
Mục đích: Chúa dạy Giô-na học biết yêu thương tội nhân.
I/. LẼ CẦN CHÚA DẠY GIÔ-NA:
- Giô-na 4:1-4
- Có hai điều mà Giô-na cần học với Chúa:
- Giô-na đang giận dữ: 4:1
- Những chữ “rất không đẹp lòng” có nghĩa là Giô-na đang tức vì một việc trái ý. Việc trái ý đó là việc gì? Đó là việc đã xảy ra mà đoạn 3 câu 5 và 10 đã ghi lại:
- 3:5, việc dân Ni-ni-ve đã ăn năn, quay lại tin Đức Chúa Trời, trông đợi sự tha thứ của Chúa.
- 3:10, việc Đức Chúa Trời đã vì dân Ni-ni-ve ăn năn nên Chúa đã đổi ý tha thứ cho họ, không đổ hình phạt như điều Giô-na đã rao giảng (3:4)
- Xem như thế Giô-na đã giảng bài giảng trong 3:4, Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-ve sẽ đổ xuống! Rõ ràng không phải để tội nhân ăn năn được cứu mà để mong tội nhân bị Chúa phạt. Thật sự điều nầy hoàn toàn trái ngược với lòng yêu thương của Chúa: Ngài không muốn một người nào chết mất, mà muốn mọi người ăn năn để được cứu (II 3:9)
- Nếu chúng ta xem lại từ đoạn 1 đến đoạn 3, Kinh Thánh đã cho thấy Giô-na có một tánh tình rất cương trực và khó khuyên:
- 1:3, Nhưng Giô-na chổi dậy đặng trốn qua Ta-rê-si, ĐỂ LÁNH KHỎI MẶT ĐỨC GIÊ-HÔ-VA. Giô-na đã cương quyết không vâng lời Chúa, ông đã đi ngược lại với con đường mà Chúa bảo ông đi, Chúa bảo ông qua phía Đông, Giô-na lại đi qua phía Tây. Suốt cả Kinh Thánh không một người nào dám chống nghịch với Chúa như Giô-na, ngay cả những người cứng lòng như Pha-ra-ôn, Nê-bu-cát-nết-sa, thậm chí cả ma quỉ cũng không dám chống nghịch mạng lịnh của Chúa (Gia-cơ 2:19).
- 1:5b, Giô-na đã xuống dưới lòng tàu, nằm và ngủ mê. Giô-na ngủ mê lúc nào? Giô-na ngủ mê lúc chiếc tàu ông đi đang bị bão tố hầu bị vỡ. Ai đã từng đi biển chắc chắn không thể nào hiểu được làm sao mà Giô-na có thể ngủ được trong hoàn cảnh như vậy. Giô-na là một con người bất chấp.
- 1:12, Người trả lời rằng: Hãy bắt lấy ta; hãy ném ta xuống biển, thì biển sẽ yên lặng… Chúng ta có thể thấy Giô-na thật cứng lòng, quyết không vâng lời Chúa, dù phải bị quăng xuống biển giữa cơn bão tố – cái chết là điều không thể tránh khỏi.
- 3:1, lần thứ hai Chúa lại sai Giô-na đi giảng Tin Lành cho Ni-ni-ve, sau khi GIô-na từ trong bụng cá nói lời ăn năn tội với Chúa. Nhưng chúng ta thấy Giô-na dù vẫn đi giảng nhưng giảng một thứ tin dữ không phải Tin Lành, rao sự hình phạt tội nhơn không giảng sự cứu rỗi cho tội nhơn (3:4).
- Bây giờ đến 4:1, sự thù ghét Ni-ni-ve, đối tượng nghe Tin lành của ông vẫn không thay đổi, Giô-na không thể tha thứ cho những người mà ông đang giảng Tin Lành cho.
- Một người như Giô-na thật khó mà khuyên bảo.
- Giô-na đang trách Chúa: Giôna 4:2-4
- Đọc qua những lời của Tiên tri Giô-na nói với Chúa, rõ ràng Giô-na biết Chúa rất rõ. Có lẽ ông học từ hai người rất nổi tiếng đối với một người Y-sơ-ra-ên như ông:
- Người thứ nhất là Môi-se. Chính Môi-se là người đã được nghe chính Chúa tuyên bố về bản tánh của Chúa: Ngài đi ngang qua mặt người, hô rằng: Giê-hô-va! Giê-hô-va! là Đức Chúa Trời nhân từ, thương xót, chậm giận, đầy dẫy ân huệ và thành thực…
- Người thứ hai là Đa-vít. Đa-vít đã viết ra kinh nghiệm về Chúa của ông trong Thi thiên 103:8, Đức Giê-hô-va có lòng thương xót, hay làm ơn, chậm nóng giận, và đầy sự nhơn từ. Ngài không bắt tội luôn luôn, cũng chẳng giữ lòng giận đến đời đời.
- Giô-na xác nhận là ông biết Chúa như vậy, nên ông đã lật đật trốn qua Ta-rê-si, để khỏi phải giảng cho Ni-ni-ve ăn năn.
- Không phải Giô-na biết Chúa bằng lý thuyết, mà chính Giô-na cũng vừa kinh nghiệm Chúa nhơn từ, thương xót, chậm giận, giàu ơn, và đổi ý không xuống tai vạ… Chính ông vừa được Chúa tha thứ,
- 2:1, thay vì phạt ông chết trong bão biển, Chúa đã đổi ý tha thứ cho ông bằng cách: Đức Giê-hô-va sắm sẵn một con cá lớn đặng nuốt Giô-na. Giô-na ở trong bụng cá ba ngày ba đêm.
- 2:11, thay vì để ông chết trong bụng cá, Chúa đã nghe lời cầu nguyện ăn năn của Giô-na, Chúa đã đổi ý để tha thứ cho ông, Đức Giê-hô-va bèn phán cùng con cá, và nó mửa Giô-na ra trên đất khô.
- Giô-na biết Chúa đã tha thứ cho ông, ông cũng biết Chúa sẽ tha thứ cho thành tội ác Ni-ni-ve, nhưng ông không muốn Chúa tha thứ cho Ni-ni-ve.
- Thật như tác giả Thi thiên 130:3-4, nếu Chúa cố chấp thì ai sẽ còn sống? Nếu Chúa cố chấp thì Giô-na cũng đã chết rồi, cảm ơn Chúa, Ngài đầy lòng nhịn nhục để dạy dỗ cho Tiên tri của Ngài.
II/. CÁCH CHÚA DẠY GIÔ-NA:
- 4:5-8
- Chúa sắm sẵn dây dưa: 4:5-6
- Thông thường chúng ta hay nghĩ để dạy một người có học thức, có địa vị, một tiên tri thì chúng ta nghĩ đến dùng những bài học cao xa. Nhưng Đức Chúa Trời thật là kỳ diệu, Ngài có những cách dạy thật lạ lùng:
- Xuất. 3:1-2, để dạy cho một người học thức của Môi-se, Chúa đã dùng một bụi gai – một loài cây bị ghét bỏ.
- Dân. 22:28-30, để dạy cho Tiên tri về bài học vâng lời, Đức Chúa Trời đã dùng một con lừa – một con vật biểu tượng cho sự ngu dốt.
- Giăng 3:1-16, để dạy cho một Giáo-sư Luật như Ni-cô-đem, Chúa Jêsus Christ đã dùng một đề tài rất đơn giản: Sự sanh lại – chuyện một đứa trẻ vừa được sanh ra.
- Bây giờ để dạy cho một Tiên tri của Ngài là Giô-na, Đức Chúa Trời lại dùng một DÂY DƯA. Kinh Thánh xác nhận là: Đức Giê-hô-va SẮM SẴN một dây dưa lớn lên che mát cho Giô-na. Giô-na đã làm một cái chòi che mát, bây giờ Chúa cho một dây dưa – có lẽ đã có trái cho Giô-na giải khát trong lúc nắng nóng giữa đồng trống.
- Chúa sắm sẵn một con sâu: 4:7-8
- Kinh Thánh nói rằng: Đức Chúa Trời sắm sẵn một con sâu. Con sâu thì đã nhỏ rồi, mà con sâu ấy còn chích dây dưa – không phải cắn dây dưa, hóa ra con sâu ấy nhỏ vô cùng.
- Một lần nữa chúng ta cảm tạ Chúa vì sự khôn ngoan kỳ diệu của Chúa, Ngài không cần dùng những phương tiện to lớn, phức tạp, nhưng Chúa đã dùng những phương pháp đơn giản.
- Khi Chúa dựng nên muôn vật thì Ngài chỉ dùng Lời Phán (Hê. 11:3)
- Khi Chúa dựng nên con người thì Ngài chỉ dùng bụi đất hà sinh khí vào (Sáng. 2:7)
- Khi Chúa ban Luật pháp cho dân Chúa, thì Ngài chỉ cần dùng 2 điều: Kính Chúa và yêu người (Math. 22:37-40)
- Khi Chúa làm nên sự cứu rỗi cho nhân loại, Chúa chỉ cần con người TIN thi được cứu (Công vụ 16:31)
- Trong tương lai khi Chúa hủy diệt ma quỉ thì Ngài chỉ cần hơi miệng của Ngài (II Tê. 2:8)
- Bây giờ để dạy dỗ một tiên tri của Chúa tánh tình như Giô-na, Chúa đã dùng những phương tiện thiên nhiên:
- Một dây dưa.
- Một con sâu
- Một cơn gió nóng,
- Một tia nắng mặt trời.
- Tất cả đều rất quen thuộc với Giô-na hằng ngày, nhưng hôm nay tất cả đã trở nên một bài học sâu sắc cho Giô-na.
- Anh chị em hãy thử nghĩ lại xem, có phải chính mỗi chúng ta cũng đã từng được Chúa dùng những phương tiện rất đơn giản để dạy chúng ta những bài học quý báu: một chén canh đậu đỏ như Ê-sau đã học (Sáng. 12:16), một mục độc như vua Ê-xê-chia (Êsai 38:21), một con chim sẻ, một cánh hoa huệ ngoài đồng (Math. 6:26-29).
- Chúng ta phải thưa với Chúa: Chúa thật là một Giáo Sư Vĩ Đại, còn con là một đứa học trò ngu dốt và cứng lòng, học hoài mà không thuộc những bài học đơn giản Chúa ban, và hãy cầu xin Chúa như Tiên tri Ê-sai đã cầu xin trong Ê-sai 50:4b-5, Ngài đánh thức ta mỗi buổi sớm mai, đánh thức tai ta để nghe lời Ngài dạy như học trò vậy. Thật như Chúa Giê-hô-va đã mở tai ta, ta không trái nghịch, cũng không giựt lùi.
III/. MỤC ĐÍCH CHÚA DẠY GIÔ-NA:
- 4:9-11
- Đọc xong 3 câu Kinh Thánh ghi lại lời Chúa phán với Giô-na về mục đích Chúa dạy Giô-na qua những phương tiện đơn giản trong thiên nhiên, chắc chắn chúng ta không thể nói gì hơn là cảm tạ Chúa về sự nhơn từ Chúa còn đời đời. Nói một cách khác, đọc cả sách Giô-na, chúng ta không thể nào yên lặng mà không cảm tạ Chúa về sự nhơn từ, nhịn nhục của Chúa đối với một người ngang ngược, cứng lòng như Giô-na.
- 1:1, khi Giô-na chống lại mạng lịnh của Chúa, Chúa đã khiến bão tố nổi lên để cảnh cáo dạy ông, kể cả lời của những thủy thủ không tin Chúa trên tàu, nhưng Giô-na cũng không ăn năn.
- 1:7, khi Giô-na bị phát giác là người gây ra tai vạ cho đoàn người trong tàu, Giô-na cũng thà chết chịu bị quăng xuống biển, không ăn năn, và Chúa đã sắm sửa một con cá lớn để dạy Giô-na.
- 4:1, bây giờ trước tấm lòng thù ghét, ích kỷ của Giô-na đối với Tội nhân ăn năn, Chúa vẫn yêu thương kiên trì dạy Giô-na. Giô-na giống như người anh trong truyện Con Trai Hoang đàng (Luca 15:28)
- Chúng ta cũng học được một bài học nữa về Giô-na:
- 1:1-3, Mạng lịnh của Chúa là Giô-na phải đến giảng Tin Lành cho Ni-ni-ve, ông là một Tiên tri của Đức Chúa Trời, nhưng ông không thương được tội nhân, nên không giảng Tin Lành cho họ.
- 3:1-4, lần thứ hai nhận mạng lịnh giảng Tin Lành, Giô-na giảng nhưng không thương tội nhân, nên ông giảng mà không muốn tội nhân ăn năn để được tha thứ.
- Còn đối với Cơ-Đốc nhân chúng ta ngày nay cũng vậy, Chúa đã nhiều lần kiên trì, nhịn nhục để phán dạy chúng ta: Hãy đi khắp thế gian giảng Tin Lành cho mọi người (Mác 16:15); Vậy, hãy đi khiến muôn dân trở nên môn đồ ta (Mathiơ 28:19-20), và chúng ta cũng cứ thoái thác tìm cách tránh trách nhiệm giảng Tin Lành.
- Tại sao? Có lẽ chúng ta cũng như Giô-na, chúng ta không yêu thương được tội nhân là bao nhiêu đồng bào Việt-nam chung quanh, nên chúng ta không giảng cho họ về tình yêu thương của Chúa. Có lẽ chúng ta đã từng giảng Tin Lành, nhưng việc làm đó không phát xuất từ lòng yêu thương tội nhân, như Giô-na giảng cho Ni-ni-ve mà lúc nào cũng mong cho Ni-ni-ve bị hình phạt.
- Và 4:9-11, Chúa đã dạy Giô-na: Ngươi tiếc dây dưa mà ngươi chưa hề khó nhọc vì nó, không làm cho nó mọc… còn ta há không đoái tiếc một thành lớn Ni-ni-ve, trong đó có hơn mười hai vạn người không biết phân biệt tay hữu và tay tả, với lại một số thú vật rất nhiều hay sao?
- Nguyện Chúa dùng bài học dạy Giô-na cũng để dạy cho Cơ-Đốc nhân chúng ta.