Trong Nê-hê-mi 3:15 là "ao Si-lô-ê"; Ê-sai 8:6 "dòng nước Si-lô-ê," và Giăng 9:7-11 là "ao Si-lô-ê." Nay là Silwan theo tiếng A-rạp. Các ao khác không còn giữ tên chép trong Kinh Thánh duy chỉ có tên Si-lô-ê mà thôi. Ấy là một hồ xây cất rất đều, gần cửa Giếng, có cái thang từ thành Ða-vít xuống, gần bên vườn vua, v.v... (xem Nê-hê-mi 12:37; 3:15). Josèphe viết ao Si-lô-ê ở đầu trũng Tyropoeon, ngoài tường thành, nơi uống cong về phía Ðông và đối mặt đồi trên đó có hòn đá Peristereon về phía Ðông. Làng lân cận Keff-Silwan ở bên kia trũng Kít-rôn cũng còn giữ tên Si-lô-ê. Silwan ở đầu cực Nam núi của Ðền thờ, gọi là "Ô-phên." Ao nầy một phần đục trong đá, một phần xây bằng gạch, dài độ 16 thước, rộng 5 thước rưỡi, sâu 5 thước 80 phân. Có từng bậc xuống đến tận đáy. Có những trụ ở tường xung quanh. Nước từ đó đi qua bởi một kinh đục trong đá, một phần lần trong đá, chảy vào những vườn dưới là nơi có ao dưới, hoặc gọi là "ao của vua" (Nê-hê-mi 2:14). Suối nữ đồng trinh ở trên có liên lạc bởi một cống dẫn nước dài 530 thước đục trong đá, với một hồ chứa nước, tức một bể hình bầu dục, dần dần bớt từ 5 thước đến 1 thước cho đến vào một hang đá bởi một đường đục hình vòng cánh cung. Năm 1880 S.C., một thanh niên có tìm trên tường hang đá nhơn tạo đó 6 hàng chữ tiếng Hê-bơ-rơ từ thời vua A-háp hay vua Ê-xê-chia mô tả cách các người phu đục đá từ ngoài hai đầu đục vào cho đến khi gặp nhau ở giữa; và ngày đó nước từ suối Nữ đồng trinh chảy xuống tới ao Si-lô-ê, v.v.... Vậy, người ta tin rằng cống dẫn nước đó là công trình của vua Ê-xê-chia trị vì 726 đến 697 T.C. vì II Các vua 20:20 chép "cuộc xây hồ chứa nước, và kinh dẫn nước." Trong Giăng 9:7, nguyên văn Kolumbéthran tức ao, tỏ ra một ao để bơi lội. Rabbin Ishmael nói rằng xưa thầy cả thượng phẩm thường nhảy xuống suối Nữ đồng trinh tắm.
Nhằm "ngày sau cùng là ngày trọng thể trong kỳ lễ" Lều tạm, một người Lê-vi được sai đến Si-lô-ê tay cầm một bình bằng vàng. Người múc nước ở dưới ao và đổ trên của lễ để kỷ niệm về nước tại Rê-phi-đim. Chúa Jêsus có ngụ ý đến việc đó, khi Ngài đứng trong đền thờ mà kêu lên rằng: "Nếu người nào khát, hãy đến cùng ta mà uống, v.v..." (Giăng 7:37-39). Ngài sai người mù đi rửa đất sét khỏi mắt mình tại ao Si-lô-ê, nghĩa là "sai đi," và người đó trở về thấy được. Mê-si là "Ðấng được sai đến" (Lu-ca 4:18; Giăng 10:36) hiệp với hình bóng nước ao Si-lô-ê được sai đến (Gióp 5:10; Ê-xê-chi-ên 31:4) chữa lành. Nước đó chảy êm dịu, mềm mại và chữa lành, làm cho đất màu mỡ và tốt đẹp, không đục như nước khe Kít-rôn mùa Ðông chảy ồn ào, cũng không giống nước sông Ơ-phơ-rát chảy xiết lôi cuốn và hủy hại mọi sự ở trước mình (hình bóng về A-sy-ri), song chảy len lỏi cách yên lặng trong sự được sai đi ban phước (Ê-sai 8:6; 42:1-4; 40:11; II Cô-rinh-tô 10:1). Si-lô-ê được gọi vậy từ sự sai nước để làm mát mẻ vườn ở dưới, ngày nay vẫn là nơi xanh tươi nhứt của Giê-ru-sa-lem và rất nhiều ô-li-ve, vả, và lựu. Nước nầy dùng cho tro của con bò sắc hoe cũng lấy từ ao Si-lô-ê. Trong Si-lô-ê, có lẽ như đã nói ở trên, Ê-xê-chia đã dẫn một cống xuống trũng Tyropoeon những dòng nước ở phía bên kia thành khi "người lấy nguồn trên của nước Ghi-ôn, và dẫn nó chảy ngầm dưới đất qua phía Tây của thành Ða-vít (II Sử ký 32:30).