Bửu thạch hoặc Ngọc hoặc Ðá quí. Pierres précieuses.

      


      Trong Kinh Thánh có nhiều chỗ chép về bửu thạch: II Sa-mu-ên  12:30; I Các Vua 10:2,11; I Sử ký 29:2; II Sử ký 3:6; 32:27; Gióp 28:6; Ê-sai 54:11,12; Ê-xê-chi-ên 27:16; Xa-cha-ri 9:16. Song có ba chỗ sau nầy nói kỹ hơn:
       1. Cái bảng mà thầy tế lễ đeo ngực có gắn mười hai viên bửu thạch, mỗi viên khắc tên của một chi phái (Xuất Ê-díp-tô ký 28:17,20; 39:10-14).
2. Ðầy mình vua Ty-rơ có trang sức chín thứ bửu thạch (Ê-xê-chi-ên 28:13).
3. Nền tường thành Giê-ru-sa-lem cũng trang sức mười hai thứ bửu thạch (Khải Huyền 21:19,20).
       Trong các bửu thạch mà Kinh Thánh đã chép, có thứ người ta biết được vì ngày nay cũng có: lại có thứ người ta chưa biết rõ được. Ví bằng không chính mắt trông thấy vật đó thế nào, thì thật khó lòng lựa chữ mà dịch cho đúng được. Muốn biết tên nhiều bửu thạch, nên coi kỹ Xuất Ê-díp-tô ký 28:17-27. Cũng nên xem bài: "ÐÁ".

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.