Cá sấu hoặc Lê-vi-a-than. Crocodile (Thú vật lớn, da dày có khớp).

        


      Cá sấu lại dịch là Lê-vi-a-than (Gióp 3:8; 40:20-28; 41:1-25; Thi Thiên 74:14; 104:26; Ê-sai 27:1). Là một giống dữ tợn trong loài ở nước. Sông Ni-lơ ở Ai-cập và biển lớn ở châu Phi, châu Á có nhiều cá sấu. Hình nó giống con cắc kè, miệng lớn răng sắc, da cứng, vảy rắn, bốn chơn và đuôi giống những cái roi. Nó dài từ sáu đến tám thước tây. Sức mạnh, đi lanh, nó thường nấp ở bên nước, đớp ăn các động vật khác, cũng làm hại cả người ta nữa. Vậy nên Kinh Thánh lấy nó để sánh với sự hung dữ của Pha-ra-ôn (Ê-xê-chi-ên 29:3; Ê-sai 51:9). Cũng như biển hay rung động làm hình bóng về tâm thần bất định của thế gian, Lê-vi-a-than làm hình bóng về oai quyền thế gian và về sự hung dữ độc ác của đời, là những sức ngăn trở làm khó cho dân Chúa. Nhưng đến sau cùng sẽ bị Chúa hủy diệt (Ê-sai 27:1).
       Chắc Lê-vi-a-than trong Thi Thiên 104:26 chỉ về thứ cá voi (Baleine).
       Xưa cá sấu là biểu hiệu của một tà thần xứ Ai-cập, tên là Typhon, nghĩa là thần hành hại nơi tối tăm, khiến cho không sanh sản.

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.