Thuộc về loại cây kè, nó có rất nhiều ở A-rạp, mà cũng không ít ở Ai-cập và Ca-na-an (Xuất Ê-díp-tô ký 15:27; Dân số ký 33:9). Giê-ri-cô nổi tiếng là nhiều cây nầy, nên được gọi là thành cây chà là (Phục truyền luật lệ ký 34:3; Các quan xét 1:16; II Sử ký 28:15). Cây nầy mọc thẳng, hướng lên trên, không có nhành ngang. Có cây cao độ 20 thước, lá nó dài từ 1 đến 2 thước tây. Có khi cây chà là sống lâu đến 100 hay 200 năm. Người ta dùng lá nó để làm những đồ như chiếu nón bị, v.v.. Trái nó sanh ở dưới tàu lá, mỗi buồng nặng tới mấy cân. Dân A-rạp, Ba-tư và Ai-cập hay hái trái nó để ăn. Họ lại nói trái chà là có thể dùng làm vị thuốc quí. Tàu nó dùng để đan lồng và phên bẹ nó kết làm dây thừng, nước trái nó ép làm rượu. Hột nó xay ra để làm đồ ăn cho lạc đà. Tất cả cây nầy đều có ích cho người ta. Vậy nên thơ xưa khen nó dùng được ba trăm sáu mươi việc. Kinh Thánh lấy cây chà là để thí dụ về sự thạnh vượng và đẹp đẽ của người ta (Thi Thiên 92:12; Nhã Ca 7:7). Người ta chạm trổ hình cây chà là để trang hoàng đền thờ (I Các vua 6:29). Người Y-sơ-ra-ên từ xưa vẫn nhận cây nầy là vật thánh (Lê-vi ký 23:40; Nê-hê-mi 8:15). Họ mua nhánh chà là để làm hoan nghinh (Giăng 12:13) và để phô bày về ý tín đồ được thắng trận (Khải Huyền 7:9).