Chăn chiên.

        


      A-bên là người đầu tiên chăn chiên. Gia-banh là tổ phụ của các dân ở trại và nuôi bầy súc vật (Sáng thế ký 4:2, 20). Người Hê-bơ-rơ phần nhiều làm nghề chăn chiên (Sáng thế ký 46:32). Có người do nghề chăn chiên trở nên giàu có (Sáng thế ký 24:35; 26:13-26; 30:43; Gióp 1:3). Kẻ chăn thường nay đây mai đó, chớ không ở nhất định một chỗ, song thường đóng trại ở nơi có nước và cỏ. Kẻ chăn hay đi trước bầy mình; bầy chiên thường quen tiếng kẻ chăn. Ðó là hình bóng về tín đồ nhận biết Chúa (Sáng thế ký 37:12-17). Ða-vít là kẻ chăn chiên, được Chúa kêu gọi lập làm vua chăn dân (II Sa-mu-ên đoạn 7-8; Thi Thiên 78:70). Tiên tri quở trách kẻ chăn Y-sơ-ra-ên chỉ biết thân mình, chớ không nghe đến bầy chiên sẽ bị Chúa sửa phạt (Ê-xê-chi-ên 34:10). Kinh Thánh xưng Chúa là Ðấng chăn giữ Y-sơ-ra-ên (Thi Thiên 80:1; Giê-rê-mi 31:10). Cũng xưng Ðấng Christ là Ðấng chăn (Thi Thiên đoạn 23; Ma-thi-ơ 2:6). Lại xưng Ngài là Ðấng chăn hiền lành (Giăng 10:11, 14). Lạy xưng Ngài là Ðấng chăn chiên lớn (Hê-bơ-rơ 13:20; I Phi-e-rơ 5:4). Những người truyền đạo do Ngài lập lên cũng như kẻ chăn, vậy nên gọi là Mục sư (Giê-rê-mi 3:15; 23:3; Ê-phê-sô 4:11; I Phi-e-rơ 5:2;  Công vụ các sứ đồ 20:28).

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.