Nguyên văn là chỉ về người đầy tớ mà nói (Ma-thi-ơ 20:26; 23:11; Giăng 1:5, 9). Phao-lô hằng dùng tiếng nầy để chỉ về người hầu việc Chúa (II Cô-rinh-tô 6:4; 11:23; Cô-lô-se 1:23-25). Cội gốc hai chữ nầy bắt đầu từ Công vụ các sứ đồ 6:1-6. Về sau, người làm chức chấp sự đại để là gốc từ việc nói ở khúc sách Sứ đồ đó. Tân Ước nói về người làm chấp sự chỉ ở hai chỗ là Phi-líp và Ê-phê-sô (I Ti-mô-thê 3:8-13; Phi-líp 1:1); song chưa hề nói người chấp sự làm những việc gì. Coi Công vụ các sứ đồ 6 thì biết trách nhiệm người chấp sự; cứu giúp người nghèo khổ, hỏi thăm người ốm đau; nên cần phải giữ đừng nói hai lời, đừng ghiền rượu, đừng tham lợi phi nghĩa (I Ti-mô-thê 3:8). Còn nữ chấp sự thì bấy giờ cũng đã có rồi (Rô-ma 16:1; I Ti-mô-thê 3:11). Họ làm những việc quan hệ với nữ tín đồ.
Chấp sự.
Nguyên văn là chỉ về người đầy tớ mà nói (Ma-thi-ơ 20:26; 23:11; Giăng 1:5, 9). Phao-lô hằng dùng tiếng nầy để chỉ về người hầu việc Chúa (II Cô-rinh-tô 6:4; 11:23; Cô-lô-se 1:23-25). Cội gốc hai chữ nầy bắt đầu từ Công vụ các sứ đồ 6:1-6. Về sau, người làm chức chấp sự đại để là gốc từ việc nói ở khúc sách Sứ đồ đó. Tân Ước nói về người làm chấp sự chỉ ở hai chỗ là Phi-líp và Ê-phê-sô (I Ti-mô-thê 3:8-13; Phi-líp 1:1); song chưa hề nói người chấp sự làm những việc gì. Coi Công vụ các sứ đồ 6 thì biết trách nhiệm người chấp sự; cứu giúp người nghèo khổ, hỏi thăm người ốm đau; nên cần phải giữ đừng nói hai lời, đừng ghiền rượu, đừng tham lợi phi nghĩa (I Ti-mô-thê 3:8). Còn nữ chấp sự thì bấy giờ cũng đã có rồi (Rô-ma 16:1; I Ti-mô-thê 3:11). Họ làm những việc quan hệ với nữ tín đồ.