Chi Phái Giu-đa. Tribu de Juda.

        

      Từ Giu-đa, con thứ tư của Gia-cốp, bởi ba con và hai cháu, sanh ra năm họ hàng thuộc chi phái Giu-đa (xem Sáng thế ký 46:13; Xuất Ê-díp-tô ký 1:2 và Dân số ký 26:19-21; I Sử ký 2:3-6).
       Quan trưởng của Giu-đa trong khi mới đi lưu lạc nơi đồng vắng là Na-ha-sôn, con của A-mi-na-đáp (Dân số ký 1:7; 2:3; 7:12-17; 10:14). Lần tu bộ thứ nhứt trong đồng vắng núi Si-na-i, số người nam từ 20 tuổi sấp lên tức là những người trong chi phái Giu-đa đi ra trận được là 74.600 người. Trong 12 người do thám xứ Ca-na-an có Ca-lép, đại biểu của chi phái Giu-đa, và lúc chia xứ nữa (Dân số ký 13:6; 34:19). Lúc Y-sơ-ra-ên ở đồng vắng, Giu-đa lần đầu ở bên Ðông hội mạc với chi phái Y-sa-ca và Sa-bu-lôn (Dân số ký 2:3-9; 10:14). Lần tu bộ thứ nhì ở tại Si-tim, lúc sắp vào xứ Ca-na-an, số người nam từ 20 tuổi sấp lên là 76.500 người (Dân số ký 26:22). Giu-đa là một trong những chi phái đứng trên núi Ga-ri-xim để chúc phước cho dân sự (Phục truyền luật lệ ký 27:12). A-can phạm tội tham lam, gây nên sự hình phạt Chúa trên mình và nhà mình, cũng thuộc chi phái Giu-đa (Giô-suê 7:1, 17, 18). Sau khi Giô-suê qua đời, Chúa chọn chi phái Giu-đa làm gương để đánh dân Ca-na-an; cùng với chi phái Si-mê-ôn anh em mình bắt được Bê-xéc, Hếp-rôn, Xê-phát, Ga-xa, Ách-ca-lôn và Éc-rôn, ba thành sau thuộc về người Phi-li-tin. Bấy giờ -t-ni-ên, em thứ của Ca-lép chiếm lấy Ðê-bia nữa (Các quan xét 1:1-20).
       Khi Giô-suê chia xứ Ca-na-an, phần nhiều đất phía Nam Pha-lê-tin thuộc chi phái Giu-đa. Giới hạn phía Bắc phần nhiều giáp giới với chi phái Bên-gia-min, bắt đầu từ phía biển Chết nơi vàm sông Giô-đanh, đi qua miền núi theo đường hiện nay từ Giê-ri-cô, về phía Tây đến En-sê-mết (có lẽ nay là Ain Haud) phía dưới Bê-tha-ni, đi qua núi Ô-li-ve đến En-rô-ghên, trong trũng dưới Giê-ru-sa-lem, đi dọc theo trũng Hi-nôm, đi lên chót núi nằm ngang trũng Hi-nôm về hướng Tây, ở đầu phía Bắc trũng Rê-pha-im, sau đến suối nước Nép-thô-ách (có lẽ là Lifta), đi luôn đến Ki-ri-át-Giê-a-rim, chạy xuống đến Bết-sê-mết. Thim-na và Éc-rôn, thẳng đến Giáp-nê-ên, rồi giáp biển Ðịa-trung-hải, phía Ðông giáp Biển Chết, phía Tây giáp biển Ðịa Trung Hải. Giới hạn miền Nam khó quyết định vì hiện nay, tên các nơi chép tìm không được nữa. Giới hạn đó từ cực miền nam Biển Chết đến Ðịa Trung Hải ở nơi hiện nay gọi là Wady-el-Arish (xem Giô-suê 15:1-12; và 18:11-20). Ðịa phận Giu-đa ở vào nơi rất đông đúc, bề dài từ Bắc chí Nam đo được 80 cây số, song từ Giê-ru-sa-lem đến Ca-đe-Ba-nê-a, độ 140 cây số; bề ngang đo được từ sông Giô-đanh đến đồng bằng Phi-li-tin chừng 70 cây số. Về phần hình thế, địa phận chia làm ba miền: miền núi Giu-đa (Giô-suê 15:48; Lu-ca 1:39); miền trung du gọi là Shephelah (Giô-suê 15:33), và miền đồng bằng gần Ðia Trung Hải. Phần nhiều đất Giu-đa là đồng khô, cỏ cháy và lắm đá, song có thể trồng nho và nuôi bầy súc vật được (so Sáng thế ký 49:11-12). Thành Giu-đa (II Sử ký 25:28) tức là thành Ða-vít (II Các vua 14:20).
       Sau khi chiếm xứ Ca-na-an, vua nước Mê-sô-bô-ta-mi hà hiếp dân Y-sơ-ra-ên, nên có quan xét -t-ni-ên thuộc chi phái Giu-đa giải cứu dân sự (Các quan xét 3:8-11). Trong những thời bối rối xảy đến cho dân Y-sơ-ra-ên vì làm điều ác trước mặt Chúa, các chi phái ghen ghét nhau, không vâng lời Chúa tuyệt diệt hết các dân ngoại bang, thì Giu-đa và Ðan cùng Si-mê-ôn họp thành một toán ở gần nhau, biệt ra khỏi các chi phái khác ở miền Bắc. Ấy vì có một khu đất rộng mười mấy cây số đi lại bất tiện, vì cớ còn có dân Ca-na-an, là người A-mô-rít, Ga-ba-ôn và Giê-bu-sít ở đó, và có mấy trũng sâu khó qua giữa Giê-ru-sa-lem và Giê-ri-cô, nên ngăn trở sự giao thông Nam, Bắc. Giữa Giu-đa và Gát với Ru-bên cũng có nơi thấp của sông Giô-đanh và biển Chết. Chi phái Giu-đa cũng có những sự khó riêng của mình vì dân Phi-li-tin xông vào đất mình (Các quan xét 3:31; 10:7; 13:1), nên dự một phần nhỏ với các chi phái khác trong sự tranh chiến với những kẻ thù. Bô-ô và Ru-tơ sống tại Bết-lê-hem trong thời nầy. Song le, Giu-đa hiệp với các chi phái khác để sửa phạt Bên-gia-min (Các quan xét 20:1-18).

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.