Khi tu bộ dân Y-sơ-ra-ên tại núi Si-na-i, số người chi phái nầy ra trận được là 53.400 (Dân số ký 1:43). Khi tu bộ lần nữa tại giới hạn xứ Ca-na-an, số đó đã xuống đến 45.400 (Dân số ký 26:48-50). Khi lưu lạc trong đồng vắng, Nép-ta-li với Ðan và A-se đóng trại ở phía Bắc Hội mạc (Dân số ký 2:25-31), đều làm "hậu binh của các trại quân khác" (Dân số ký 10:25). Khi chia xứ Ca-na-an, địa phận của Nép-ta-li Tây giáp A-se, Nam giáp Sa-bu-lôn, và Ðông giáp Ma-na-se bên kia sông Giô-đanh. Ở tận cùng phía Bắc có khe Litâny cũng gọi là Léontes, dẫn đến trũng rất đẹp chia hai dãy núi Li-ban. Ðịa giới phía Nam có lẽ như đời sau chia xứ Ga-li-lê phần Thượng và phần Hạ. Phần đất chi phái Nép-ta-li được hưởng rất nhiều màu mỡ (Giô-suê 19:32-39; Phục truyền luật lệ ký 33:23).
Ha-ba-cúc 3:19 "Ngài làm cho tôi giống như chơn con hươu", có liên lạc với tiên tri của Gia-cốp về Nép-ta-li trong Sáng thế ký 49:21. "Con hươu" đó chỉ bóng về một chiến sĩ chạy lẹ làng (II Sa-mu-ên 2:18; I Sử ký 12:8). Khi Ðê-bô-ra gọi, thì Ba-rác đem một vạn người Nép-ta-li đánh và giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi vua Gia-bin (Các quan xét 4:; 5:) và Nép-ta-li với Sa-bu-lôn liều mạng (5:18). Cũng giúp đỡ Ghê-đê-ôn nghịch cùng Ma-đi-an (6:35; 7:23). Lời Môi-se chúc phước cho Nép-ta-li là: "Nép-ta-li hưởng ân huệ cho thỏa nguyện, và phước lành của Ðức Giê-hô-va cho đầy dẫy, chiếm được phương Tây và phương Nam." Dầu vậy, Nép-ta-li không đuổi hết dân Ca-na-an trước (Các quan xét 1:33). Bởi thế, người ngoại đó không bao lâu làm cho địa phận Nép-ta-li phía Bắc Y-sơ-ra-ên trở nên "Ga-li-lê thuộc người ngoại bang."
Bên-ha-đát, vua Sy-ri, chiếm lấy địa phận Nép-ta-li (I Các vua 15:20) và sau Tiếc-la-phi-lê-se vua A-sy-ri đem dân sự sang A-sy-ri (II Các vua 15:29). Song nơi rất tối tăm và dân sự bị bắt phu tù trước hết thì có ánh sáng của Tin lành soi trước, như lời tiên tri chép về Sa-bu-lôn và Nép-ta-li (Ê-sai 9:1,2; Ma-thi-ơ 4:16). Nép-ta-li sẽ có 12.000 người được đóng ấn (Khải Huyền 7:6), và dự phần trong sự chia đất mới (Ê-xê-chi-ên 48:3,4,34).