Chiên. (dê).

        


      Ðuôi con chiên trung bình ở Palestine cũng lớn lắm, có khi nặng tới 5 hoặc 7 kilos. Chiên và dê cùng nuôi một chỗ, từng bầy đi ăn cỏ xanh (Sáng thế ký 30:35; Ma-thi-ơ 25:32). Chuồng chiên làm ở ngoài nhà, có tường bao chung quanh, phía trước che đá để phòng thú dữ ban đêm, tránh nắng ban ngày (Dân số ký 32:16; II Sa-mu-ên 7:8; Giê-rê-mi 23:3; Giăng 10:1-5). Con chiên dâng làm của lễ phải lựa lấy con không tì vít (Lê-vi ký 22:19). Còn dâng của lễ thiêu, thì theo lệ, phải dâng cả đuôi nguyên, chặt gần cuối xương sống (Xuất Ê-díp-tô ký 29:22; Lê-vi ký 3:9). Theo luật Môi-se, thì chiên, dê là vật sạch: thịt ăn được (I Sa-mu-ên 14:32), sữa uống được (Phục truyền luật lệ ký 32:14), da làm áo được (Hê-bơ-rơ 11:37). Lông chiên có thể dùng để dệt vải (Lê-vi ký 13:47). Tánh chiên nhu mì và nhịn nhục, nên Tiên tri nói tiên tri về Ðấng Christ chịu đau khổ như chiên câm (Ê-sai 53:7;  Công vụ các sứ đồ 8:32). Giăng chỉ Chúa Jêsus là Chiên Con của Ðức Chúa Trời (Giăng 1:29). Chúa Jêsus nói môn đồ theo Ngài như chiên theo kẻ chăn (Giăng 10:3, 4). Dân của Chúa cũng xưng là chiên của Ngài (Ê-xê-chi-ên 34:30-31; Thi Thiên 79:13; 80:1; Ma-thi-ơ 25:32).

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.