Một giống chim rất lớn. Nó cao đến 2m50. Ðầu nhỏ và đẹp, mỏ rộng, cổ cao, cánh nhỏ, lông mềm, chơn cao và to, mỗi chơn có ba móng, sức mạnh, chạy nhanh hơn ngựa (Gióp 39:16-18), nó có nhiều ở xứ nóng, bên Châu Phi và phía Tây Châu Á. Theo nguyên văn Hê-bơ-rơ, thì ở Gióp 30:29; Giê-rê-mi 50:39; Ê-sai 13:21; 34:3; 43:20; Mi-chê 1:8; đều nói là chim Mèo, song Kinh Thánh quốc ngữ thì dịch là đà điểu hoặc chim đà. Trong luật Môi-se cấm dân ăn chim đà (Lê-vi ký 11:16; Phục truyền luật lệ ký 14:15). Kinh Thánh nói nó, tánh hung dữ (Ca Thương 4:3). Nó vùi trứng mình trong cát, không hề thương tiếc gìn giữ chút nào, dường như không biết gì vậy (Gióp 39:14-18).
Chim Ðà. Autruche
Một giống chim rất lớn. Nó cao đến 2m50. Ðầu nhỏ và đẹp, mỏ rộng, cổ cao, cánh nhỏ, lông mềm, chơn cao và to, mỗi chơn có ba móng, sức mạnh, chạy nhanh hơn ngựa (Gióp 39:16-18), nó có nhiều ở xứ nóng, bên Châu Phi và phía Tây Châu Á. Theo nguyên văn Hê-bơ-rơ, thì ở Gióp 30:29; Giê-rê-mi 50:39; Ê-sai 13:21; 34:3; 43:20; Mi-chê 1:8; đều nói là chim Mèo, song Kinh Thánh quốc ngữ thì dịch là đà điểu hoặc chim đà. Trong luật Môi-se cấm dân ăn chim đà (Lê-vi ký 11:16; Phục truyền luật lệ ký 14:15). Kinh Thánh nói nó, tánh hung dữ (Ca Thương 4:3). Nó vùi trứng mình trong cát, không hề thương tiếc gìn giữ chút nào, dường như không biết gì vậy (Gióp 39:14-18).