Nó là sách thứ tư trong Kinh Thánh Cựu Ước, do Môi-se biên tập. Tại sao đặt tên là Dân số ký? Vì trong sách chép số dân trong các họ Y-sơ-ra-ên.
Sách nầy chép việc bắt đầu từ khi dân Y-sơ-ra-ên mới đến núi Si-na-i cho tới lúc đã đến đồng bằng Mô-áp đại lược đủ cả. Chỉ thiếu sót những việc trong khoảng bốn mươi năm dân đó lưu lạc ở đồng vắng là không thuật lại thôi. Cả sách có thể chia làm ba phần:
Phần thứ nhứt (1:1-10:10).--
Ðại cương phần nầy là Chúa lập hết thảy luật pháp ở núi Sa-na-i.
Phần thứ hai (10:11-21:9).--
Ðại cương phần nầy là dân Y-sơ-ra-ên lìa khỏi núi Si-na-i, qua đồng vắng, thẳng tới sa mạc phía tây đồng bằng Mô-áp.
Phần thứ ba (21:10-36).--
Ðại cương phần nầy là những sự thực trong khi dân Y-sơ-ra-ên ở phía đông đồng bằng Mô-áp và qua lại phía đông sông Giô-đanh. Dân số chép trong sách: một là lúc ra khỏi nước Ai-cập; một là lúc gần đến xứ Ca-na-an. Coi Dân số ký 1:-4:26, ta thấy dân Y-sơ-ra-ên khi ở đồng vắng, thường phạm tội cùng Ðức Chúa Trời, nhiều phen chết hại; thì dân số đáng phải sút nhiều. Song, sánh sau với trước, tức là lần thứ nhứt sau khi ra khỏi xứ Ai-cập được hai năm và lần thứ hai là năm thứ bốn mươi, khi đã đến sông Giô-đanh, số dân chưa giảm tới một ngàn!
Sách đó bày tỏ kỹ càng về sự nghiêm nhặt và lòng yêu thương của Chúa. Lại nói Ngài gìn giữ dân Ngài thể nào, làm trọn lời hứa thế nào, dắt dẫn Hội Thánh thế nào. Song, đối với kẻ bội nghịch chẳng tin, Ngài chỉ có cách là phạt và diệt đi thôi! Vậy nên Tân Ước nói tóm cho rõ ý đó: "Những người ấy không thể vào đó được vì cớ không tin" (Hê-bơ-rơ 3:19; 4:1).