I. Con trai của Nun (Nê-hê-mi 8:17).
II. Thầy tế lễ trong đời vua Ða-vít, thuộc về năm thứ chín (I Sử ký 24:11).
III. Một người Lê-vi trong đời vua Ê-xê-chia (II Sử ký 31:15).
IV. Con của Giô-sa-đác (A-ghê 1:12,14; 2:2,4; Xa-cha-ri 3:1,6,8,9; 6:11), thầy tế lễ thượng phẩm tại Giê-ru-sa-lem và tổ 14 đời thầy tế lễ thượng phẩm cho đến Jason và Onias, ở trong sách E-xơ-ra và Nê-hê-mi được gọi là Giê-sua. Khi Giê-ru-sa-lem bị phá hủy năm 586 T.C., cha của Giê-sua là Sê-ra-gia cũng bị bắt, và sau bị giết ở Ríp-la (II Các vua 25:18; I Sử ký 6:15). Chắc Giê-sua, giống như Xô-rô-ba-bên ra đời tại Ba-by-lôn, và cả hai người cùng về Giê-ru-sa-lem, năm đầu vua Sy-ru trị vì lập lại sự thờ phượng Chúa (E-xơ-ra 3:2).
Ông dự phần về sự xây cất lại đền thờ; trước hết lập lại bàn thờ, sau dâng của lễ hằng ngày. Kế đến tháng hai, năm thứ II thì đặt nền Ðền thờ (E-xơ-ra 3:8). Song trải qua 14 năm phải nghỉ việc, vì trước có những người Sa-ma-ri giả bộ xin giúp đỡ, song thật có ý ngăn trở, nên Giê-sua và Xô-rô-ba-bên từ chối không cho họ cùng làm. Họ có ảnh hưởng trên vuaạ t-ta-xét-xe nên ngăn trở việc xây lên. Hết 14 năm đó, trong năm thứ II đời vua Ða-ri-út, Giê-sua và Xô-rô-ba-bên với A-ghê (A-ghê 1:1,12,14; 2:1-9), và Xa-cha-ri (Xa-cha-ri 1:-8:), bắt đầu xây đền thờ lần nữa. Ðến ngày ba tháng A-đa, năm thứ VI đời vua đó thì mớI xong (E-xơ-ra 6:15).
Khi làm lễ khánh thành đền thờ, họ theo "số các chi phái Y-sơ-ra-ên mà dâng mười hai con dê đực làm của lễ chuộc tội cho cả Y-sơ-ra-ên" (E-xơ-ra 6:15-22). Sau họ giữ Lễ Vượt Qua cách vui vẻ vì Chúa đã làm cho họ vui và cảm động vua A-sy-ri bằng lòng giúp đỡ việc xây đền thờ.
Giê-sua thay mặt Giê-ru-sa-lem (Hội Thánh cũng vậy), đứng trước mặt Chúa. Dầu bị Sa-tan cáo, nhưng được Chúa xưng là vô tội; ấy bởi ý muốn và sự chọn lựa do chính Ngài, nhờ Ðấng Mê-si, là Ðấng cầu thay, cổi bỏ áo bẩn khỏi Giê-sua, và lấy áo đẹp mặc cho Giê-sua (Xa-cha-ri 3:1-4 so Ê-sai 54:6). Nên nhớ xưa ở phương Ðông, người bị cáo hay mặc áo dơ bẩn, khi nào được trắng án, thì mặc áo trắng (so Ê-sai 61:10), và hay đội mũ sạch trên đầu (chỉ về sự tinh sạch). Nếu là thầy tế lễ thì mão đó chỉ về sự phục chức. Ấy là Chúa đáp lời cầu nguyện của Xa-cha-ri (Xa-cha-ri 3:1-9). Áo cưới cũng vậy, vì bởi sự công bình của Ðấng Christ, tín đồ được xưng là công bình và nên thánh ở trước mặt Chúa (Ma-thi-ơ 22:11). Sự phục lại vinh hiển của chức thầy tế lễ vốn là khi xong việc xây đền thờ thứ hai, thì được trọn vẹn trong Chúa Jêsus tức là Giê-sua đứng ra thay mặt Y-sơ-ra-ên "một nước thầy tế lễ" (Xuất Ê-díp-tô ký 19:6).
Dầu mặc tội ta, song Ðức Chúa Cha đã lựa chọn Ngài (Ê-sai 42:1; 44:1; 49:1-3). Từ khi chuộc tội trên cây thập tự rồi, Ngài đã sống lại, mặc áo vinh hiển mà vào nơi thánh trên trời làm thầy tế lễ thượng phẩm của ta (Hê-bơ-rơ 8:1; 9:24). Vậy bây giờ chức thầy tế lễ thánh (I Phi-e-rơ 2:5) không có hạn chế trong một trật tự nào; hết thảy những tín đồ đều là thầy tế lễ cho Chúa, và mặc áo tốt nhứt (Lu-ca 15:22; Khải Huyền 19:8). Dân Y-sơ-ra-ên cũng vậy về sau (Ê-sai 3:6; 66:21).
Xưa họ từ nơi làm phu tù mang vàng bạc về, vâng lời Chúa làm mão triều thiên đội trên đầu Giê-sua: hình bóng về Ðấng Christ vừa làm vua vừa làm thầy tế lễ. Chức tế lễ của người Lê-vi không bao giờ như thế, song được ứng nghiệm trong Ðấng mà vua Mê-chi-xê-đéc xưa làm hình bóng (Xa-cha-ri 6:9-13; Thi Thiên 110:1-4; Hê-bơ-rơ 5:; 6:). "Sẽ có mưu hòa bình ở giữa cả hai" chỉ về cả hai chức Vua và thầy tế lễ. Hành chức tế lễ, Ngài chuộc tội; hành chức vua, Ngài trừ diệt tội. Ấy là một "mưu trí" của sự khôn ngoan vô cùng (Ê-sai 9:6; Ê-phê-sô 1:8-11; Hê-bơ-rơ 6:17), để làm phu phỉ sự công bình của Ðức Chúa Trời như là Vua hiệp với tình yêu thương của Ngài như là Cha và thầy tế lễ. Chỉ bởi Ngài làm thầy tế lễ chuộc tội mà tín đồ được tha thứ, và bởi sự cai trị của Ngài, mà tín đồ thấy sự bình an (Lu-ca 2:14; Công vụ các sứ đồ 10:36; Ê-phê-sô 2:13-17).
V. Một trưởng tộc của nhà Lê-vi, một người trở về từ xứ Ba-by-lôn, dự một phần hoạt động dưới quyền của Xô-rô-ba-bên, E-xơ-ra và Nê-hê-mi mà quản đốc những người làm việc trong nhà của Ðức Chúa Trời. Tên đó chỉ về cả họ hàng hoặc những người kế tiếp làm trưởng họ hàng đó (E-xơ-ra 2:40; 3:9; Nê-hê-mi 3:19; 8:7; 9:4,5; 12:8 v.v....
VI. Một nhánh thuộc về họ hàng Pha-hát-Mô-áp, một trong những họ hàng đứng đầu, có lẽ chi phái Giu-đa (Nê-hê-mi 10:14; 7:11; E-xơ-ra 10:30).
VII. Một trong các thành, mà những người nước Giu-đa sau khi từ xứ họ bị bắt làm phu tù trở về lại đến ở đó (Nê-hê-mi 11:26). Không có chỗ nào chép đến nữa.