I. Một người A-bi-ê-xê-rít giàu có, cha của Ghê-đê-ôn. Ðang khi dân Ma-đi-an bức hiếp thì ông hiệp với dân sự mà lập một bàn thờ cho tà thần Ba-anh. Khi con ông phá bàn thờ đó, thì Giô-ách lấy lời nhạo báng về thần vô quyền đó mà binh vực con (Các quan xét 6:11,25; 29-31; 7:14; 8:13,29,32),
II. Con của A-háp, coi giữ tiên tri Mi-chê (I Các vua 22:26; II Sử ký 18:25).
III. Là Chúa Bên-gia-min, con Bê-ke (I Sử ký 8:7).
IV. Bầy tôi vua Ða-vít, coi sóc các kho dầu (I Sử ký 27:28).
V. Con Sê-ma, người Ghi-bê-a. Giô-ách nầy là một trong mấy người mạnh dạn theo vua Ða-vít (I Sử ký 12:1-3,21).
VI. Là dòng dõi Giu-đa, là người Cô-xê-ba (I Sử ký 4:22).
VII. Là con A-cha-xia còn sót lại. Vì ông là một người mà vua Giô-ram đã giết hết các anh em mình, nên dòng dõi của Sa-lô-môn chỉ có ông còn lại (II Sử ký 21:4). Các con Giô-ram, ngoài Giô-a-cha, cũng gọi là A-cha-xia đều bị bắt làm phu tù bởi dân Phi-li-tin và dân A-rạp, "chẳng còn sót lại cho người một con trai nào hết" (II Sử ký 21:17). Sau khi A-cha-xia bị Giê-hu, vua Y-sơ-ra-ên giết, A-tha-li, mẹ A-cha-xia, bèn chỗi dậy diệt cả dòng giống vua Giu-đa. Nhưng Giô-sa-bát vợ thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, giấu Giô-ách và kẻ vú người trong phòng ngủ (II Sử ký 22:10-12).
Khi lên bảy tuổi, Giô-ách được thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa lập lên làm vua thứ VIII nước Giu-đa. Trong 23 năm, ông làm lành trước mặt Chúa: sửa lại đền thờ, bỏ bàn thờ Ba-anh v.v.... Song sau khi Giê-hô-gia-đa chết, các quan trưởng lấy lời dua nịnh mà cám dỗ, thì vua vấp phạm, không vâng lời Chúa và thờ tượng Át-tạt-tê (so Châm Ngôn 29:5). Xa-cha-ri, con thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, được cảm động bởi thần Chúa, răn dạy dân sự, song họ theo lịnh vua ném đá Xa-cha-ri trong hành lang của đền thờ Chúa (II Sử ký 24:17-22; so với Ma-thi-ơ 23:35). Vua cũng giết mấy con khác của Giê-hô-gia-đa nữa.
Khi Xa-cha-ri chết thì có nói rằng: Nguyền Chúa xem xét và báo lại cho (Rô-ma 12:19). Sau có Ha-xa-ên, vua Sy-ri, người của Chúa dùng để báo ứng, đến đánh Giô-ách giết các quan trưởng Giu-đa. Giô-ách phải lấy hết thảy những vật thánh của các tổ phụ mình và của mình, cùng hết thảy vàng ở trong kho tàng của đền thờ và cung vua mà nộp thuế cho Ha-xa-ên để chuộc Giê-ru-sa-lem (II Các vua 12:17,18; II Sử ký 24:23,24). Vua bị đau nặng nằm trên giường thì có Xa-bát và Giô-sa-bát, người Am-môn và người Mô-áp, lập mưu giết vua. Chúa dùng hai người ngoại bang đó để phạt tội thờ thần ngoại bang của vua. Vua khác với Giê-hô-gia-đa (người tốt lành), nên không được chôn trong mồ của các vua (II Sử ký 24:25). Vua trị vì 40 năm, A-cha-xia, Giô-ách, và A-ma-xia không được ghi chép trong gia phổ của Ðấng Christ trong Ma-thi-ơ.
VIII. Là cháu vua Giê-hu, là con vua A-cha-xia, và là vua thứ XII của nước Y-sơ-ra-ên. Ông bắt đầu trị vì độ 805 T.C., và ở ngôi được 16 năm (II Các vua 13:9-13 đến 14:15; II Sử ký 25:17-24). Ông bước theo đường của Giê-rô-bô-am I, cứ thờ lạy hình tượng hai con bò ở Bê-tên và Ðan. Dầu vậy, Trô-ách luôn giữ sự tôn kính tiên tri Ê-li-sê và khi Ê-li-sê đang hấp hối, vua khóc lóc buồn rầu. Trước khi qua đời, Ê-li-sê truyền vua mở cửa phía Ðông và bắn tên. Vua làm theo. Kế đó, tiên tri truyền vua lấy tên mà đập xuống đất. Vua đập ba lần. Ấy chỉ bóng về vua sẽ thắng hơn quân Sy-ri ba lần. Nếu đã đập sáu lần, thì đã được thắng trận gấp hai (II Các vua 13:14-25; so Sáng thế ký 49:24). Sau Giô-ách cho A-ma-xia, vua Giu-đa, độ 10 vạn người mạnh dạn trong dân Y-sơ-ra-ên để đánh dân Ê-đôm, song có tiên tri Chúa đến bảo A-ma-xia phải cho lính đó về nước Y-sơ-ra-ên. Dầu đã được trả công, nhưng những tên lính đó tức mình trước khi trở về nước mình, xông vào đánh giết 3.000 người và cướp lấy của cải (II Sử ký 25:6-10,13). Chắc vì cớ ấy, A-ma-xia thách Giô-ách tranh chiến! Giô-ách lấy lời nghiêm nghị mà chối từ song A-ma-xia cứ đánh. Tại Bết-Sê-mốt, Giô-ách được thắng, bắt A-ma-xia điệu về Giê-ru-sa-lem. Rồi Giô-ách phá một phần vách tường chung quanh Giê-ru-sa-lem mà mang của báu lấy ở trong đền thờ và cung vua, bắt kẻ cầm làm tin rồi trở về xứ Sa-ma-ri. Khi Giô-ách chết, được chôn tại trong mộ các vua Y-sơ-ra-ên. Con vua là Giê-rô-bô-am II lên ngôi thay cha (II Các vua 14:8-16; II Sử ký 25:17-24).