Giô-na-than. Jonathan (Giê-hô-va ban cho).

       


      I. Là cháu Môi-se, là con Ghẹt-sôn, dầu là người Lê-vi, Giô-na-than trước làm thầy tế lễ cho hình tượng của Mi-ca, sau được chi phái Ðan lập làm thầy tế lễ thờ hình tượng cho đến khi bị bắt qua Ba-by-lôn làm phu tù (Các quan xét 17:7-13; 18:14-31). Bản cũ dịch là cháu Ma-na-se, chớ không nói là cháu Môi-se. Ý chừng người đạo Giu-đa không dám thẳng nhận một thầy tế lễ thờ hình tượng là cháu Môi-se, nên mới đổi làm Ma-na-se chăng?
       II. Con trưởng nam của Sau-lơ. Ðộ 30 tuổi mới có chép trong Kinh Thánh, đứng đầu 1.000 người tại Ghi-bê-a (I Sa-mu-ên 13:2 so II Sa-mu-ên 2:8,10). Mê-ri-ba-anh hay Mê-phi-bô-sết ra đời 5 năm trước khi cha là Giô-na-than qua đời (II Sa-mu-ên 4:4; I Sử ký 8:34).
       Giô-na-than nổi danh là một chiến sĩ đẹp, lanh lẹ và mạnh (II Sa-mu-ên 1:23); nhất là có tài bắn cung (II Sa-mu-ên 1:22; I Sử ký 12:2; I Sa-mu-ên 18:4; 20:35). Ông hết lòng giữ bổn phận đối với cha, và đi theo cha luôn (I Sa-mu-ên 20:2,25), nhưng cứ trung thành với bạn thiết nghĩa là Ða-vít, người nết na, đẹp và dũng cảm mà Giô-na-than đã kết giao lần gặp gỡ thứ nhứt sau khi Gô-li-át bị Ða-vít giết. Dầu vậy, Sau-lơ đem lòng ghen ghét Ða-vít. Giô-na-than biết Ða-vít, giữa những sự nghi ngờ của Sau-lơ vẫn giữ lòng ngay thẳng, cũng biết ý Chúa tỏ ra là Ða-vít sẽ được tôn lên ngôi thay cha mình. Nhưng Giô-na-than chịu phục ý Chúa phán. Thay vì lòng ghen ghét, sự yêu thương không chút ích kỷ làm cho Giô-na-than vui vẻ về bạn thiết được tôn lên thay mình. Khi gặp nhau lần cuối cùng trong rừng ở đồng vắng Xíp, Giô-na-than yên ủi Ða-vít "vững lòng tin cậy nơi Chúa", chỉ xin Ða-vít cho mình làm tể tướng trong triều Ða-vít thôi (I Sa-mu-ên 23:16,17; so I Cô-rinh-tô 13:4,5).
       "Giô-na-than yêu Ða-vít như mạng sống mình vậy" (I Sa-mu-ên 20:17,42) bền lòng chịu những lời quở trách của cha và sự xui mình bỏ Ða-vít, như Sau-lơ có nói: "Hễ con trai Y-sai sống lâu trên mặt đất chừng nào, thì mầy và nước mầy chẳng bền vững chừng nấy" (I Sa-mu-ên 20:31). Giô-na-than cho Ða-vít biết rằng cha mình đã quyết định giết bạn (I Sa-mu-ên 19:2). Giô-na-than can cha đừng làm như vậy (I Sa-mu-ên 19:4,6). Sau-lơ tạm bỏ ý đó, song ít lâu lại tìm cách giết Ða-vít lại, nên Ða-vít phải trốn đến Na-giốt. Ở đó Giô-na-than và Ða-vít kết ước với nhau, Giô-na-than xin Ða-vít tỏ lòng nhơn từ, chớ cất ơn thương xót nhà người đời đời (I Sa-mu-ên 20:17); là lời mà sau vua Ða-vít làm trọn cho Mê-phi-bô-sết, Giô-na-than khuyên cha đừng làm hại Ða-vít, song Sau-lơ nói xấu mẹ Giô-na-than và phóng cây giáo đâm người (I Sa-mu-ên 20:33); chỉ có lần nầy thôi, Giô-na-than tức giận cha lắm. Nhưng Giô-na-than cứ trung tín với cha cả đời và "lúc chết chẳng lìa khỏi nhau" (II Sa-mu-ên 1:23). Trước lần cuối cùng gặp nhau, Ða-vít và Giô-na-than "ôm nhau khóc, Ða-vít khóc nhiều hơn" (I Sa-mu-ên 20:41).
       Khi Giô-na-than đánh đồn dân Phi-li-tin ở tại Ghê-ba, ấy làm sự thúc giục dân Hê-bơ-rơ dấy lên nghịch cùng dân hà hiếp mình (I Sa-mu-ên 13:2,3). Khi dân Phi-li-tin kéo ra để đón đánh đèo Mích-ba thì Sau-lơ chỉ còn 600 người không có binh khí cứ ở với mình tại Ghi-bê-a (I Sa-mu-ên 14:2). Vì là duyên cớ thúc giục dân mình dấy lên như thế, nên Giô-na-than quyết định chính mình phải giải cứu dân Y-sơ-ra-ên, cùng kẻ vác khí ra trận. Ông hết lòng tin Chúa có thể "khiến cho số ít người được thắng cũng như số đông người vậy" (I Sa-mu-ên 14:6). Trước hết hiệp ý về dấu hiệu kia, khi dân Phi-li-tin chê cười và mời đến bên kia đèo Mích-ba (so I Sa-mu-ên 14:31); thì Giô-na-than và kẻ vác binh khí dùng tay và chơn leo lên và giết chết 20 người Phi-li-tin. Quân đồn và đảng cướp giựt đều kinh khủng và đất cũng bị rúng động (I Sa-mu-ên 14:13). Những người Y-sơ-ra-ên dưới quyền chỉ dẫn của Sau-lơ, nghe thấy thì chạy đến nơi chiến trường, thấy người Phi-li-tin rút gươm giết lẫn nhau, hỗn loạn cực điểm. Vậy người Y-sơ-ra-ên đắc thắng vì cớ lòng tin của Giô-na-than và phép lạ của Chúa. Chỉ có một sự buồn là lời thề vội vàng của Sau-lơ: Ai ăn trước khi kẻ thù nghịch bại thì phải chết. Giô-na-than không biết nên có ăn, song được giải cứu vì nhờ dân sự xin Sau-lơ tha cho.
       "Linh hồn Giô-na-than khế hiệp cùng Ða-vít" nên Ða-vít chứng rằng: tình thương của anh đối với tôi còn "quí hơn tình thương người nữ"; giống như một vị anh hùng cổi hết áo giáp và khí giới đương đeo đến nỗi không còn gì nữa, để cho và giúp bạn mình (I Sa-mu-ên 18:1-4; II Sa-mu-ên 1:26; so Phi-líp 2:7,8). Giô-na-than chiếm phần rất lớn trong bài ai ca của Ða-vít, gọi là "bài ca về cung" (II Sa-mu-ên 1:17-27), là bài kỷ niệm sự chết của Sau-lơ, Giô-na-than cùng các con khác trong trận đánh tại Ghinh-bô-a (I Sa-mu-ên 31:). Xác của cha con Sau-lơ bị treo trên tường Bết-san, sau Ða-vít với người Ga-la-át lấy chôn trong mồ của Kích (II Sa-mu-ên 21:12-14).
       Sự tin kính và sự hiếu thảo của Giô-na-than được bày tỏ khi sẵn sàng chịu chết vì cha mình thề lỡ (giống Y-sác), chỉ bóng về Con Ðức Chúa Trời tỏ ra tình nguyện chết thay vì ta, ấy bởi A-đam ăn trái cây cấm, thì "mắt mở ra" (Sáng thế ký 3:; I Sa-mu-ên 14:27,43); cũng được tỏ ra vì cứ trung tín với cha là Sau-lơ, dầu cha lúc trước thử giết mình, và dầu nước cha sắp mất, mà Ða-vít nối ngôi.
       III. Con trai Si-mê-a, cháu Ða-vít (II Sa-mu-ên 21:21; I Sử ký 20:7). Giống như Ða-vít, người một mình đánh giết một người cao lớn thuộc dân Phi-li-tin tại Gát (II Sa-mu-ên 21:21).
       IV. Con trai của thầy tế lễ cả A-bi-a-tha, là dòng dõi cuối cùng của thầy tế lễ cả Hê-li chép trong Kinh Thánh. Tên ông có chép trong ngày vua Ða-vít chạy trốn khỏi Áp-sa-lôm (II Sa-mu-ên 15:36; 17:15-21), và trong ngày Sa-lô-môn lên làm vua (I Các vua 1:42,43).
       V. Con trai Sa-ghê ở Ha-ra, một người mạnh dạn của Ða-vít (I Sử ký 11:34; II Sa-mu-ên 23:32).
       VI. Cha của Ê-bết, con cháu A-đin (E-xơ-ra 8:6).
       VII. Con trai của A-sa-ên, thầy tế lễ trong đời E-xơ-ra (E-xơ-ra 10:15).
       VIII. Một thầy tế lễ về họ Mê-lu-ki, trong đời Giô-gia-kim (Nê-hê-mi 12:14).
       IX. Con trai Ca-rê-át, em của Giô-ha-nan (Giê-rê-mi 40:8), người đầu đảng đạo binh trốn đi lúc người Canh-đê xông hãm Giê-ru-sa-lem, với anh mình đến cùng Ghê-đa-lia tại Mích-ba, từ đó không nghe về ông nữa.
       X. Con của Giô-gia-đa, kế chức thầy tế lễ cả của cha (Nê-hê-mi 12:11).
       XI. Cha của Xa-cha-ri, là thầy tế lễ thổi kèn lúc làm lễ khánh thành tường thành (Nê-hê-mi 12:35).

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.