Trong Thi Thiên thường dùng tiếng đó, là xin công chúng đồng thanh hát ngợi khen Chúa (Thi Thiên 104:35; 105:45; 106:1, 48; 111:1; 112:1; 113:1, 9; 115:18; 116:19; 117:2; 135:1, 21 và câu đầu câu cuối ở những thiên (146:-150:). Mỗi buổi sớm, khi nhóm họp thờ phượng ở nhà thờ, người Giu-đa xưa hằng hát Thi Thiên 135:; 136:; 146:-150: để ngợi khen Chúa. Thi Thiên 113:-118:, người Giu-đa gọi là bài Hallel vì được kể là loại thơ ngợi khen Chúa và kỷ niệm sự xuất Ê-díp-tô. Người ta thường hát những thiên đó trong ngày đầu tháng, và trong các Lễ Vượt Qua, Ngũ tuần, Lều tạm và lễ dâng nộp. Người Do-thái hay hát trước bữa ăn 113: và 114:, sau bữa ăn 115:-118:. Chắc những bài Chúa cùng môn đồ hát sau bữa ăn chiều trong đêm Ngài bị nộp là mấy Thi Thiên 115:-118: đó (Ma-thi-ơ 26:30). Hội Thánh sau cũng thường dùng tiếng "A-lê-lu-gia" nầy (Khải Huyền 19:1, 6).
Ha-lê-lu-gia. Alléluia (Hê-bơ-rơ: Hãy ngợi khen Ðức Giê-hô-va).
Trong Thi Thiên thường dùng tiếng đó, là xin công chúng đồng thanh hát ngợi khen Chúa (Thi Thiên 104:35; 105:45; 106:1, 48; 111:1; 112:1; 113:1, 9; 115:18; 116:19; 117:2; 135:1, 21 và câu đầu câu cuối ở những thiên (146:-150:). Mỗi buổi sớm, khi nhóm họp thờ phượng ở nhà thờ, người Giu-đa xưa hằng hát Thi Thiên 135:; 136:; 146:-150: để ngợi khen Chúa. Thi Thiên 113:-118:, người Giu-đa gọi là bài Hallel vì được kể là loại thơ ngợi khen Chúa và kỷ niệm sự xuất Ê-díp-tô. Người ta thường hát những thiên đó trong ngày đầu tháng, và trong các Lễ Vượt Qua, Ngũ tuần, Lều tạm và lễ dâng nộp. Người Do-thái hay hát trước bữa ăn 113: và 114:, sau bữa ăn 115:-118:. Chắc những bài Chúa cùng môn đồ hát sau bữa ăn chiều trong đêm Ngài bị nộp là mấy Thi Thiên 115:-118: đó (Ma-thi-ơ 26:30). Hội Thánh sau cũng thường dùng tiếng "A-lê-lu-gia" nầy (Khải Huyền 19:1, 6).