Jêsus Christ.

          


      I. Danh.-- Danh Jêsus nghĩa là Cứu Chúa, còn Christ nghĩa là được xức dầu. Khi khởi hành chức vụ, giữa vòng người Giu-đa các thầy tế lễ được xức dầu (I Sử ký 16:22; Thi Thiên 105:15), và các vua cũng vậy (I Sa-mu-ên 10:1). Trong Tân Ước, danh Christ dùng như danh Mê-si trong Cựu Ước (Giăng 1:41), ấy là danh đặt cho một Ðấng tiên tri kiêm chức Vua đã từ lâu, mà các tiên tri đã dạy dân Giu-đa nên trông đợi (Công vụ các sứ đồ 19:4; Ma-thi-ơ 11:3). Danh Jêsus chính thức là danh Chúa, và danh Christ thêm vào để chỉ Ngài là một với Ðấng Mê-si đã hứa.
       II. Sự giáng sinh và tuổi thơ ấu.-- Theo niên hiệu được công nhận, ấy thật ra của Dionysius Éxiguus trong thế kỷ thứ VI, Ðấng Christ giáng sanh nhằm năm 754 theo niên lịch La-mã (1 S.C); nhưng theo một vài nhà khảo cứu khác, chắc sự giáng sanh xảy ra trước tháng Avril 750 (4 S.C.), và nếu chỉ mấy tháng trước Hê-rốt băng, thì thật sớm hơn niên hiệu của Dionysius 4 năm vậy.
       Thiên sứ đến chào Ma-ri, mẹ Ngài: "Hỡi người được ơn, mừng cho ngươi" là triệu chứng về một công việc tạo thành mới của Chúa. Dầu chắc không hiểu hết nghĩa, nhưng Ma-ri lấy lòng thuần phục nhận sự báo trước về phép lạ đó, vì biết sứ mạng đó đến từ Ðức Chúa Trời. Sau thiên sứ lìa khỏi đó. Tiên tri Mi-chê đã dự ngôn (5:2) về Vua tương lai sẽ sanh tại Bết-lê-hem, xứ Giu-đê, nơi căn nguyên của nhà Ða-vít; song Ma-ri lúc đó ở Na-xa-rét. Nhưng mà Âu-gút-tơ đã ra chiếu chỉ lập sổ dân trong khắp đế quốc La-mã. Xem Lu-ca 2:2 thì biết sự lập sổ dân nầy đến đời Qui-ri-ni-u, tức mấy năm sau, mới xong; việc lập sổ dân nầy không biết có được hoàn toàn không, song chỉ biết đã khiến Giô-sép, thuộc nhà Ða-vít, từ nhà mình đến Bết-lê-hem là nơi Chúa giáng sanh. Trong nhà quán, không còn chỗ nữa, nên máng cỏ được dùng làm nôi cho Chúa nằm. Dầu vậy, song không thiếu những dấu tỏ ra việc dường như thường mà thật ra rất long trọng. Những kẻ chăn hèn hạ làm chứng về sự lạ lùng kèm theo việc hạ sanh tầm thường của Cứu Chúa. Có một thiên sứ báo cho họ ngoài đồng "một tin lành sẽ là một sự vui mừng lớn cho muôn dân"; rồi có sự vui mừng quá bội giữa các thiên sứ trên trời về sự mầu nhiệm nầy của tình yêu thương, đến nỗi phá tan sự yên lặng ban đêm bằng những lời nầy: "Sáng danh Chúa trên các từng trời rất cao, bình an dưới đất, ân trạch cho loài người!" (Lu-ca 2:8-20).
       Con trẻ Jêsus đến đúng kỳ chịu phép cắt bì, được đem lên đền thờ, và mẹ Ngài cũng dâng của lễ để được tinh sạch. Si-mê-ôn và An-ne được cảm bởi Ðức Thánh Linh biết Ðấng mình đã ước ao từ lâu đang ở trước mình, nên nói tiên tri về công việc lạ lùng của Ngài: người thì vui vì mắt đã thấy sự cứu vớt của Ðức Chúa Trời, còn người kia nói về Ngài "với mọi người trông đợi sự giải cứu của thành Giê-ru-sa-lem" (Lu-ca 2:25-38). Chúa được nhìn nhận giữa dân sự Ngài như vậy, cũng được lời làm chứng giữa người ngoại bang nữa. "Mấy thầy Bác sĩ ở Ðông phương", tức là các bác sĩ ở nước Ba-tư của tôn giáo Zend là tôn giáo dạy rõ có một Zoziosh nghĩa là Cứu Chúa, được dẫn dắt cách lạ lùng bởi 1 ngôi sao hoặc một hiện trạng được tạo nên để làm việc đó, đến và tìm Ngài để tôn vinh. Một em bé làm cho vua Hê-rốt lớn run sợ trên ngai mình. Khi Hê-rốt biết các bác sĩ đã đến chào mừng Vua và Chúa họ mà không dừng bước tại lâu đài mình, và thấy không trở lại chỉ chỗ con trẻ ở, tức là phản mình, thì ra lịnh giết những con trẻ tại thành Bết-lê-hem từ hai tuổi trở xuống. Giô-sép được Chúa mách bảo trong chiêm bao, chạy trốn sang Ai-cập với con trẻ, quá tầm của tay vua Hê-rốt. Sau khi Hê-rốt băng, không đầy một năm, Chúa Jêsus cùng với cha mẹ trở về xứ mình đến thành Na-xa-rét và ở đó. Trừ ra một việc bốn sách Tin lành yên lặng về những năm tiếp theo trong đời sống Chúa cho đến khi bắt đầu hành chức vụ. Việc đó là khi Chúa lên 12 tuổi, Ngài lên Ðền thờ, nghe các thầy thông giáo và hỏi họ (Lu-ca 2:40-52). Chỉ việc nầy đủ cho biết trong khoảng thời gian mà người Giu-đa coi là từ tuổi ấu trĩ đến thời niên thiếu Chúa Jêsus biết nhiệm vụ của Ngài và đang sửa soạn làm trọn, dầu phải chờ đợi lâu trước khi khởi sự.
       Có 30 năm qua từ khi Chúa giáng sanh cho đến khi mở đầu cuộc hành chức vụ. Trong khoảng đó, có nhiều sự thay đổi lớn xảy ra cho dân lựa chọn của Ngài. Hê-rốt lớn đã thâu hiệp hầu hết các miền nguyên trước thuộc nhà Ða-vít, và sau khi vua ấy băng, nước lại bị phân rẽ luôn. Trong năm thứ XV đời hoàng đế Tibère kể từ khi cùng với Au-gút-tơ trị vì (12 S.C.), chớ không phải kể từ lúc hoàng đế trị vì một mình (14 S.C.), thì Giăng Báp Tít bắt đầu giảng dạy. Người là đại biểu cuối cùng của các tiên tri về giao ước cũ, và công việc Giăng có hai phần: khuyên người ta phải ăn năn để tránh khỏi sự kinh khiếp của luật pháp cũ, và làm cho phấn hưng lòng trông đợi Ðấng Mê-si và dân sự hầu quên (Ma-thi-ơ 3:1-10; Mác 1:1-8; Lu-ca 3:1-18). Thời giờ mà Giăng hành chức vụ dường như ngắn ngủi lắm. Chúa Jêsus đến sông Giô-đanh cùng với mọi người khác chịu lễ báp-têm bởi tay Giăng: thứ nhứt, hầu cho kể từ đó mọi người nhận vào nước Chúa phải chịu lễ đó, nên Chúa đã làm gương kể lễ đó là phải lẽ (Ma-thi-ơ 3:15); thứ nhì hầu cho Giăng bởi sự Chúa đến biết chắc rằng chức vụ mình là sứ giả Ðấng Christ bấy giờ đã trọn rồi (Giăng 1:33); và thứ ba, hầu cho bởi dấu hiệu trước công chúng thì tỏ ra Ngài thật là Ðấng chịu xức dầu của Ðức Chúa Trời (Hê-bơ-rơ 5:5). Ngay sau khi khánh thành chức vụ như thế, Chúa được Ðức Thánh Linh dẫn vào đồng vắng để chịu ma quỉ cám dỗ (Ma-thi-ơ 4:1-11; Mác 1:12-13; Lu-ca 4:1-13). Ba sự cám dỗ hiệp với ba lối mà bịnh tội phát hiện trong linh hồn: "sự mê tham của xác thịt, mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời (I Giăng 2:16).
       III. Chức vụ của Chúa.-- Trước khi bắt đầu kể lịch sử Chúa, có hai yếu điểm đáng chú ý: (1) Cảnh tượng của chức vụ; (2) Thời hạn của chức vụ đó.
       1. Cảnh tượng của chức vụ.--
       Về cảnh tượng và hạn thời gian của chức vụ Ngài, mới thoạt xét dường như ba sách Tin lành thứ nhứt khác nhau với sách Tin lành thứ tư. Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca chỉ thuật lại công việc Chúa trong xứ Ga-li-lê; nếu bỏ qua vài ngày trước những ngày thương khó Chúa, thì thấy ba sách Tin lành đó không bao giờ nói đến Chúa thăm viếng thành Giê-ru-sa-lem. Trái lại, Giăng chỉ thuật lại vài công việc Chúa tại xứ Ga-li-lê, và dành một phần lớn cho công việc Chúa tại xứ Giu-đê. Song khi nhớ sách Giăng là phần phụ thuộc của ba sách trước thì giải nghĩa không khó nữa. Ba sách Tin lành thứ nhứt không có ý sắp một bảng niên hiệu của chức vụ Ngài, chỉ vẽ một bức tranh mà thôi; nên ít khi chú thích về thì giờ. Vì chú trọng về xứ Ga-li-lê, là nơi Cứu Chúa làm nhiều việc hơn cả, nên ba sách đó tự nhiên không nói đến những ngày lễ mà Chúa dự tại Giê-ru-sa-lem.
       2. Thời hạn Chúa hành chức vụ.-- không thể do các sách Tin lành mà quyết định đúng thời hạn Chúa hành chức vụ trước tuần thương khó, song chắc là hai hay ba năm. Phải nhờ sách Giăng mới biết. Giăng nói đến 6 ngày lễ, trong số đó Chúa dự năm ngày: lễ Vượt qua sau khi Chúa chịu báp têm (2:13); "một ngày lễ của dân Giu-đa" (5:1); Lễ Vượt Qua mà Chúa ở lại xứ Ga-li-lê (6:4); lễ Lều tạm mà Chúa đi lén lên thành Giê-ru-sa-lem (7:2); lễ Khánh thành (10:22); và Lễ Vượt Qua mà Chúa chịu đau thương (12:; 13:). Bởi đó biết chắc có ba ngày lễ Vượt qua, và có lẽ cũng có thể kể "một ngày lễ" (5:1) là ngày Lễ Vượt Qua thứ tư nữa. Có hay không là vấn đề rất quan hệ để quyết định thời hạn chức vụ Chúa. Song nếu thật ra không phải là Lễ Vượt Qua, thì không có chép về ngày Lễ Vượt Qua khác giữa 2:13 và 6:4 nên khoảng nầy chỉ là một năm. Dầu Giăng chỉ chép ít việc trong khoảng nầy, song khi so sánh các sách Tin lành với nhau, thì số công việc gồm lại chỉ trong một năm nầy là nhiều quá chừng. Cách dễ hơn cả là nhận rằng "ngày lễ" (5:1) là Lễ Vượt Qua, chia khoảng nầy làm hai năm, và gồm lại hai cuộc tuần hành của Chúa quanh xứ là trong năm thứ hai của chức vụ Ngài. Vậy, dầu không có chứng cớ rất rõ, chắc có 4 ngày Lễ Vượt Qua, nên chức vụ của Chúa tận cùng hơn ba năm, vì phép lạ thứ nhứt (Giăng 2:) được làm ra trước ngày Lễ Vượt Qua thứ nhứt.
       A. Năm thứ nhứt của chức vụ Chúa.-- Năm có ngày Lễ Vượt Qua thứ nhứt trong bốn ngày lễ đó (theo lịch La-mã xưa là 780, và cũng là 27 S.C.), Chúa chịu báp-têm đầu năm đó hoặc cuối năm trước. Chúa đã trải qua cơn cám dỗ, và khởi hành chức vụ. Ngài trở về Bê-ta-ba-ra và tại đó, nhiều môn đồ bắt đầu đến cùng Ngài; Anh-rê và một người nữa, có lẽ là Giăng vì chỉ có Giăng nói đến truyện đó, xem Chúa Jêsus và nghe Giăng Báp Tít làm chứng về Ngài. Anh-rê dẫn Si-môn Phi-e-rơ đến cùng Ngài nữa và Si-môn được Chúa đổi tên là Sê-pha. Kế đến, Phi-líp và Na-tha-na-ên được dẫn đến với Ngài, và gặp Ngài lúc sắp dời qua xứ Ga-li-lê, là ngày thứ ba mà Ngài ngụ tại Bê-ta-ba-ra. Khỏi ba ngày Chúa đến thành Ca-na tại xứ Ga-li-lê làm phép lạ thứ nhứt, hóa nước ra rượu (Giăng 1:29, 35, 43; 2:1).
       Ngài xuống thành Ca-bê-na-um, chỉ ở tại đó ít ngày thôi, sau đến thành Giê-ru-sa-lem dự Lễ Vượt Qua, ấy là bắt đầu chức vụ Ngài trong xứ Giu-đê (Giăng 2:12-13). Giăng cho sự dẹp sạch Ðền thờ vào ngày Lễ Vượt Qua thứ nhứt nầy (2:12-22), và một sự dẹp sạch Ðền thờ giống thế thì các sách Tin lành khác cho vào ngày Lễ Vượt Qua cuối cùng. Không thể lẫn lộn hai lần dẹp sạch Ðền thờ đó vì lời chú thích về thời giờ rõ lắm. Chúa đuổi những kẻ buôn bán, song không công hiệu mãi; nên chắc cuối năm thứ III Ngài lại thấy sự ồn ào và sự buôn bán làm ô uế hành lang đền thờ như lúc trước. Ni-cô-đem đến thăm Chúa chừng Lễ Vượt Qua thứ nhứt. Ấy tỏ ra Chúa còn làm nhiều việc khác tại Giê-ru-sa-lem nữa mà chính Giăng không chép: vì Ni-cô-đem là giáo sư của Y-sơ-ra-ên (Giăng 3:10), một nhân viên ở trong Tòa Công luận (Giăng 7:50) tỏ lòng tin Chúa dầu lúc đó nhát sợ quá, đến nỗi không dám xưng ra cách tỏ tường. Dầu không tỏ cách trực tiếp, song mục đích ông rất rõ: ông là người tốt trong vòng người Pha-ri-si, đang trông đợi nước của Ðấng Mê-si, nên khi thấy các phép lạ Chúa làm, ông đến hỏi Chúa rõ hơn về các dấu lạ chỉ về nước đó gần đến. Có người nói truyện nầy tóm tắt cả sách Tin lành.
       Sau khi Chúa ở thành Giê-ru-sa-lem một thời gian không biết chắc bao lâu, Chúa đến sông Giô-đanh với các môn đồ; môn đồ nhơn danh Ngài mà làm báp-têm (Giăng 3:22; 4:1-2). Bấy giờ Giăng Báp Tít ở Ê-nôn gần Sa-lim; và vì sự ghen tương của môn đồ mình đối với Chúa, nên Giăng phải xưng rõ về địa vị mình; bởi thế tỏ lòng khiêm nhường thay (Giăng 3:27-30). Không biết chắc Chúa còn ở Giu-đê bao lâu. Chúa đi đường gần nhứt mà về xứ Ga-li-lê, là ngang qua xứ Sa-ma-ri. Trong đời Chúa người Do-thái rất ghét người Sa-ma-ri: ghét nhiều hơn là ghét người ngoại bang. Dầu vậy, cũng có người ở Sa-ma-ri đáng được cứu; nên Chúa không phủi bụi đất đó khỏi chơn Ngài được. Ngài đến Si-chem là nơi người Giu-đa, vì nhạo báng, đổi tên là Si-kha. Mỏi mệt và khát, Ngài ngồi bên giếng Gia-cốp. Một người đờn bà ở thành lân cận đến xách nước, và vì Ngài xin nàng cho uống nước như người lân cận, thì nàng lấy làm lạ. Cuộc hội đàm nầy là một gương mẫu mà Ðấng Christ dùng để dắt đem những linh hồn đến cùng Ngài. Trong bài vấn đáp nầy có nhiều điều đáng chú ý. Nước hằng sống mà Ðấng Christ ban cho, sự báo cáo thay đổi cách thờ phượng của người Giu-đa và người Sa-ma-ri, và sau cùng đều đáng chú ý là chính Chúa tỏ ra Ngài thật là Ðấng Mê-si.
       Chúa Jêsus bây giờ trở về xứ Ga-li-lê, đến thành của Ngài là Na-xa-rét. Trong nhà hội, Ngài giải nghĩa cho dân sự một khúc trong sách Ê-sai (61:1), phán rằng lời đó đã được ứng nghiệm trong chính Ngài. Trước lẽ thật nầy đã làm cho người Sa-ma-ri đầy lòng biết ơn, nay làm cho dân thành Na-xa-rét nổi giận đến nỗi toan diệt Ngài. Song Ngài trốn thoát khỏi tay họ (Lu-ca 4:16-30). Ngài tới thành Ca-bê-na-um. Trong khi đi đường, tới Ca-na, Ngài chữa lành con một quan thị vệ của vua Hê-rốt An-ti-ba (Giăng 4:46-54), thì "người và cả nhà đều tin". Ấy là phép lạ thứ hai tại Ga-li-lê. Tại thành Ca-bê-na-um, Chúa làm nhiều phép lạ cho những người có cần. Ðây có hai môn đồ đã biết Ngài từ trước, là Si-môn Phi-e-rơ và Anh-rê, được gọi thì bỏ nghề và trở nên "tay đánh lưới người" (Ma-thi-ơ 4:19). Hai con trai Xê-bê-đê cũng nhận mạng lịnh đó. Sau khi Chúa chữa một người bị quỉ ám tại nhà hội, cũng trong ngày đó, Ngài trở về nhà Si-môn, và chữa cho bà gia người đang lên cơn sốt. Khi mặt trời lặn đoàn dân chịu cảm động bởi điều họ đã nghe, đem nhiều kẻ đau đến trước cửa nhà Si-môn để được chữa lành. Ngài không từ chối sự cứu giúp, song chữa lành hết (Mác 1:29-34). Sau khi đã chữa lành nhiều người tại Ca-bê-na-um như thế, Ngài còn nghĩ đến nhiều thành khác trong xứ Ga-li-lê, vì tại đó cũng có "nhiều chiên mất" đang đi lạc (Mác 1:38). Vậy, Chúa đi đường như thế là một cuộc tuần hành vòng quanh xứ Ga-li-lê đó.
       B. Năm thứ hai của chức vụ Chúa.-- Chúa Jêsus lên thành Giê-ru-sa-lem dự "Ngày lễ của dân Giu-đa", chắc là Lễ Vượt Qua. Tại ao Bê-tết-đa (tức nhà của sự thương xót), gần cửa Chiên (Nê-hê-mi 3:1), ở phía Ðông bắc đền thờ. Chúa Jêsus thấy có nhiều người tàn tật chờ đợi đến khi nước ao động để xuống trước hầu được chữa lành (Giăng 5:1-18). Trong vòng họ, có một người bị bịnh đã 38 năm; Chúa phán, thì người được lành và vác giường đi. Phép lạ nầy làm trong ngày Sa-bát, nên người Giu-đa nghịch cùng Ngài quở trách vì người mang giường. Ấy là một việc cấm làm trong ngày Sa bát (Giê-rê-mi 17:21). Vậy, chính Chúa tự lấy làm phải: "Cha ta làm việc cho đến bây giờ, ta đây cũng làm việc như vậy" (Giăng 5:17). Bởi đó, ta thấy Ðức Chúa Jêsus xưng Ngài có bổn tánh Ðức Chúa Trời. Có một sự biện luận khác về ngày Sa-bát xảy ra, vì các môn đồ trong ngày đó đi qua đồng ruộng bứt bông lúa mì (Ma-thi-ơ 12:1-8). Thời giờ việc nầy không chắc chắn: có người nói là năm sau đúng sau ngày Lễ Vượt Qua thứ ba, song giờ xảy ra chắc hiệp đúng vào đây. Chúa minh chứng các trường hợp mà luật pháp phải bỏ hoặc xếp lại. Ấy vì Ngài là một với Ðấng có quyền làm như vậy. Bởi thế khi Chúa phán "vì loài người mà lập ngày Sa-bát, chớ chẳng phải vì ngày Sa-bát mà dựng nên loài người" (Mác 2:27), thì lập nên một luật mới. Vì yêu thương người, Ðức Chúa Trời lập luật về ngày Sa-bát đó, để bảo toàn sự yên nghỉ cần cho người có đủ thì giờ thờ phượng Ngài. Con người tự mình có quyền làm lại luật nầy, miễn là việc luật pháp làm xong hoặc người ta xứng đáng nhận một luật pháp khác cao thượng hơn. Việc nầy có lẽ xảy ra trên đường đi về thành Giê-ru-sa-lem sau ngày Lễ Vượt Qua.
       Trong một ngày Sa-bát khác, có lẽ tại Ca-bê-na-um, là nơi Chúa đã trở lại, những người Pha-ri-si bày tỏ rất rõ cách mình dùng giải nghĩa luật pháp là nghiêm khắc, hẹp hòi và không có lòng thương xót, mà đổi ơn lành của luật pháp thành một sự áp chế dữ dội. Chúa vào trong nhà hội thấy một người teo tay, có lẽ một người thợ nghèo khổ nhờ nghề nghiệp mà kiếm ăn. Chúa định chữa lành cho người: để người được sức khỏe và ai đứng đó có chút lòng thương xót cũng được vui. Song người Pha-ri-si ngăn trở: "Trong ngày Sa-bát có phép chữa bệnh hay không?". Các nhà thông thái họ bằng lòng cho phép kéo chiên lên khỏi hầm; song họ không bằng lòng cho một người ở dưới vực đau khổ được giải thoát. Rất ít khi như lúc nầy, cơn giận của Giáo sư yêu thương tỏ ra lẫn với sự phiền. Ngài nhìn quanh họ, "vừa giận vừa buồn vì lòng họ cứng cõi", và trả lời sự cãi lẽ họ bằng việc chữa lành người đó (Ma-thi-ơ 12:9-14; Mác 3:1-6; Lu-ca 6:6-11).
       Nhờ Lu-ca dẫn dắt (6:13, 17), thì sắp đặt cho việc kêu gọi 12 Sứ đồ ngay trước bài giảng trên núi. Song sự biệt riêng ra cách long trọng như thế không chỉ rõ ngày giờ họ mới gặp Chúa lần thứ nhứt. Ðây Chúa chỉ định ra 12 môn đồ làm một đoàn thể đặc biệt gọi là các Sứ đồ. Cuối năm đó, họ mới được Chúa sai đi rao giảng. Số 12 đó chắc chỉ về 12 chi phái Y-sơ-ra-ên. Ấy là một số lựa chọn vì cớ có nghĩa bóng, chớ thật ra công việc có thể làm trọn bởi hoặc nhiều hoặc ít người hơn. Trong bốn danh sách kể tên các Sứ đồ (Ma-thi-ơ 10:; Mác 3:; Lu-ca 6:; Công vụ các sứ đồ 1:), giữa những sự thay đổi có giữ một trật tự. Hai đôi anh em, Si-môn và Anh-rê cùng hai anh em con Xê-bê-đê, bao giờ cũng đặt đàng trước và có Si-môn Phi-e-rơ đứng đầu luôn. Phi-líp và Ba-tê-lê-my với Thô-ma và Ma-thi-ơ bao giờ cũng đặt ở khoảng thứ nhì mà có Phi-líp đứng đầu luôn. Hàng thứ ba có Gia-cơ và con A-phê đứng trước, như Giu-đa Ích-ca-ri-ốt đứng cuối cùng luôn, với Si-môn Xê-lốt và Tha-đê ở giữa. Một vài Sứ đồ chắc nghèo và thiếu học; chắc mấy Sứ đồ còn lại cũng thế. trong vòng Sứ đồ có bốn người đánh cá, song không phải nghèo khổ nhất trong nghề; người thứ năm là kẻ thâu thuế tức thâu thuế thay cho người La-mã thuộc hạng thượng lưu. Từ đó, Chúa lo dạy dỗ các Sứ đồ cách đặc biệt, và đem họ theo làm bạn đồng hành. Sau Ngài sai họ đi dạy dỗ và chữa bệnh thay Ngài. Bài giảng trên núi dầu cho hết thảy mọi tín đồ, song dường như cốt để cho 12 Sứ đồ được chọn (Ma-thi-ơ 5:11).
       Lúc nầy, Giăng Báp Tít đang bị cầm tù đã lâu không có chút hy vọng được thả ra, sai đến cùng Chúa và hỏi: "Thầy có phải là Ðấng phải đến, hay là chúng tôi còn phải đợi Ðấng khác chăng?" (Ma-thi-ơ 11:3). Trong các sách Tin lành không có truyện nào cảm động phải thương xót nhiều hơn. Ðặc ân lớn của Giăng là được cử để nhận biết và làm chứng cho Ðấng Mê-si (Giăng 1:31). Sau một năm chán nản trong ngục, khi nghe Chúa Jêsus chưa tiến bước đến sự lập nước Ngài cho dân Giu-đa, và nghe những người theo Ngài chỉ là 12 người Ga-li-lê nghèo khổ, thì sự nghi ngờ bắt đầu che phủ trên tâm chí Giăng. Có phải nước của Ðấng Mê-si gần rồi như mình tưởng không? Chúa Jêsus có phải là Ðấng Mê-si không, hoặc là người dọn đường cho Ðấng Giải cứu như mình? Không có sự vô tín đâu; Giăng không tưởng rằng Chúa Jêsus đã lừa dối; khi có sự nghi ngờ nổi dậy, thì Giăng trình lại cho Chúa. Dầu vậy, không phải là Giăng không có lòng nặng nề và khó giải quyết mà đặt câu hỏi: "Ngài có phải là Ðấng phải đến không?" Mục đích của lời Chúa đáp lại là muốn cho Giăng giữ được tín nhiệm nơi Chúa như trước.
       Bây giờ bắt đầu cuộc châu lưu thứ hai quanh xứ Ga-li-lê (Lu-ca 8:1-3), trong đó Chúa phán ví dụ trong Ma-thi-ơ 13:; sự mẹ Chúa và các anh em thăm viếng Ngài (Lu-ca 8:19-21), và cách tiếp nhận Chúa tại xứ Na-xa-rét (Mác 6:1-6). Trong lúc nầy, 12 Sứ đồ cùng đi với Ngài. Song có chép một cuộc tuần hành thứ ba quanh xứ Ga-li-lê, có lẽ nhằm ba tháng cuối năm nầy (Ma-thi-ơ 9:35-38); và trong cuộc tuần hành nầy, sau khi đã nhắc cho Sứ đồ biết mùa gặt là lớn và sự cần những con gặt gấp là dường nào, Ngài dẫn đến một bước nữa, tức là sai 12 Sứ đồ đi dạy dỗ (Ma-thi-ơ 10:; 11:). Sứ đồ đi từng đôi, và Chúa cứ tiếp cuộc tuần hành của Ngài (Ma-thi-ơ 11:1), đi với ai không rõ. Hai tháng sau, 12 Sứ đồ trở về với Chúa, và thuật lại cuộc lưu hành mình.
       Ngày Lễ Vượt Qua thứ ba gần rồi; song Chúa không đến dự Ngài muốn chỉ bảo riêng với các Sứ đồ và thêm sự học thức mà Sứ đồ đã nhận nơi Ngài (Mác 6:30-31). Bởi đó, Ngài cùng Sứ đồ từ vùng lân cận thành Ca-bê-na-um đi lên trên núi ở bờ phía Ðông biển Ti-bê-ri-át, gần thành Bết-sai-đa, không xa phía Bắc của hồ. Ðoàn dân rất đông theo Ngài. Ðây, Chúa động lòng thương xót dân chúng đói và mệt, nên làm một phép lạ đáng chú ý nhứt. Do năm ổ bánh và hai con cá, Chúa ban thức ăn cho 5.000 người, không kể đờn bà, con trẻ. Sau đó, các Sứ đồ vượt biển và Chúa đi tẻ một mình ở trên núi để thông công với Chúa Cha. Còn các Sứ đồ đang chèo thuyền, gió ngược, gần lúc hừng sáng, thấy Chúa Jêsus đi bộ trên biển đến cùng mình, sau khi đã thức thâu đêm trên núi. Sứ đồ lấy làm lạ và sợ hãi. Chúa cho Phi-e-rơ thử đức tin đi bộ trên mặt biển. Ngài vào thuyền thì gió bão yên. Khi đến bờ hồ Ghê-nê-xa-rết, toàn thể dân sự tỏ lòng tin Ngài là một Ðấng chữa bịnh (Mác 6:53-56; Ma-thi-ơ 14:36), và Ngài làm nhiều phép lạ. Ngày hôm sau, Chúa giảng một bài dài ngụ ý đến bánh hằng sống, song "từ lúc ấy, có nhiều môn đồ Ngài trở lui, không đi với Ngài nữa" (Giăng 6:22-66).
       C. Năm thứ ba của chức vụ Chúa.-- Có lẽ nghe nói Chúa Jêsus không đến dự lễ, các thầy thông giáo và người Pha-ri-si từ thành Giê-ru-sa-lem đến thăm Ngài tại thành Ca-bê-na-um (Ma-thi-ơ 15:1). Bỏ miền lân cận thành Ca-bê-na-um, Chúa đi phía Ðông bắc xứ Ga-li-lê, đến miền Ty-rơ và Sy-đôn. Thời giờ không thể quyết định, song có lẽ vào mùa hạ năm nay. Dường như không phải Ngài đến xứ dân ngoại đó để hành chức vụ, chắc chỉ để tránh khỏi cuộc âm mưu của người Giu-đa (Ma-thi-ơ 15:21-28; Mác 7:24-40). Từ đó, Ngài trở về đi vòng quanh phía Bắc biển Ga-li-lê đến miền Ðê-ca-bô-lơ ở phía Ðông (Mác 7:31-37). Trong địa phận nầy, Chúa làm nhiều phép lạ, nhứt là Chúa chữa lành người điếc và câm. Việc ấy đáng chú ý vì dường như Ngài phải gắng sức mới làm được. Tiếp theo, Ngài phát bánh cho 4.000 người ăn no bằng 7 ổ bánh và vài con cá (Ma-thi-ơ 15:32). Chúa qua hồ đến bờ cõi Ma-ga-đan, tại đó Chúa từ chối lời người Pha-ri-si và Sa-đu-sê xin một dấu lạ. Khi họ đi, Chúa cùng các môn đồ qua hồ. Tại Bết-sai-đa, Chúa làm cho kẻ mù được sáng, nên suy xét phương cách Chúa dùng để chữa bịnh (Mác 8:22-26). Chức vụ tại xứ Ga-li-lê gần hết. Trải qua ngang dọc xứ đó, Chúa đã tuyên bố về nước của Ðấng Christ, và bởi các việc lớn, Ngài tỏ ra mình là Ðấng Christ phải đến. Có mấy vạn người được lợi bởi phép lạ đó; nhưng mà trong số đó chỉ có 12 người thật quyến luyến với Ngài, kể cả Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, người sẽ phản Ngài. Sự chối bỏ nầy là khởi điểm của một đoạn mới trong lịch sử Ngài.
       Chúa bây giờ bắt đầu giải tỏ lẽ đạo về sự thương xót Ngài càng rõ hơn. Lẽ đạo về Ðấng Mê-si phải chịu đau đớn dầu tỏ rõ bởi các tiên tri nhưng đã nhường bước trước tôn giáo trong thời bấy giờ. Vậy, Ngài báo trước cho các môn đồ là một sự mới và trái ngược. Chúa truyền lẽ đạo phải từ bỏ lòng vị kỷ cho cả đoàn thể theo Ngài. Các Sứ đồ vừa tỏ ra, theo lẽ tự nhiên, sự đau khổ là một tại họa nên tránh, như những người thường, các Sứ đồ muốn tránh khỏi mọi sự đau khổ và sự chết. Song, Chúa Jêsus dạy, so với sự sống cao hơn tức sự sống của linh hồn, thì sự sống về phần xác không có giá trị gì (Ma-thi-ơ 16:21-28; Mác 8:31-38; Lu-ca 9:22-27).
       Một tuần sau, có sự hóa hình trên núi tương quan với cuộc hội đàm đó. Tâm trí Sứ đồ bối rối về điều đã nghe, nên Chúa vẫn sẵn lòng giúp đỡ khi họ có cần. Ngài chọn ba Sứ đồ, Phi-e-rơ, Giăng và Gia-cơ; ba người ấy thành như 1 vòng nhỏ gần cạnh Chúa hơn những người khác, đem lên một núi cao riêng với Ngài. Không thể chỉ rõ núi ở đâu. Bởi thế, ba người sau làm chứng về đau thương Chúa tại vườn Ghết-sê-ma-nê, cũng là những người đã thấy Chúa được vinh hiển trên núi, nên khi thấy Chúa hạ mình tỏ lòng rất khiêm nhường, ba người đó nhớ lại sự hóa hình thì được yên ủi và có sức mới. Giữa đoàn dân dưới núi, có sự xảy ra trái ngược với sự vinh hiển trên núi. Một thanh niên khốn nạn, mắc chứng phong điên vì bị quỉ ám, được đem đến cùng các Sứ đồ không ở với Chúa trên núi, mong được chữa lành. Nhưng họ không thắng được. Chúa hiện ra giữa họ, người cha đau đớn và thất vọng kêu cầu đến Ngài, vì phàn nàn các Sứ đồ không có quyền. Ðiều mà các Sứ đồ không làm được. Chúa chỉ phán một lời thì xong. Ngài giải nghĩa cho họ biết là vì cớ thiếu đức tin đến với lời hứa Ngài, nên không có quyền chữa được (Ma-thi-ơ 17:14-21; Mác 9:14-29; Lu-ca 9:37-43). Một lần nữa. Chính Chúa Jêsus dự ngôn về sự đau thương của Ngài trong khi đi đường trở về thành Ca-bê-na-um (Mác 9:30-32).
       Năm thứ ba, kể từ ngày lễ Lều tạm.-- Lễ Lều tạm đã gần rồi, các anh em Ngài đi dự lễ song không có Ngài, và Ngài ở lại xứ Ga-li-lê thêm vài ngày nữa (Giăng 7:2, 10). Sau Ngài cũng đi song do đường qua Sa-ma-ri là đường ít đi. Chỉ có Lu-ca thuật lại về cuộc hành trình nầy, Chúa sai 70 môn đồ đi. Việc nầy khác với sự Chúa sai 12 Sứ đồ đi. 70 môn đồ đó không có sự dạy dỗ riêng từ Chúa, và sự cắt cử họ đi đó chỉ là tạm thời. Số nầy chỉ về dân ngoại như số 12 chỉ về dân Giu-đa, và nơi làm việc, Sa-ma-ri, nhắc lại ấy là một cuộc vận động giữa vòng dân ngoại. Sau khi chữa lành 10 người phung, Chúa đến Giê-ru-sa-lem vào giữa ngày lễ. Người Pha-ri-si và các quan tìm cách bắt Ngài; dầu vậy có người trong dân sự tin Ngài, giấu không cho nhà cầm quyền hay. Vì sự chia rẽ dư luận, nên Hội Công luận nhiều lần thử bắt Chúa, Ðấng dạy dỗ cách công nhiên trong Ðền thờ, mà không thành công (Giăng 7:11-53). Các binh sĩ phần thì sợ bắt Chúa trước mặt dân sự, là Giáo sư yêu quí, phần thì sợ và được Chúa kéo đến với Ngài. Truyện người đờn bà tà dâm bị bắt thuộc trong thời nầy. Phép lạ người mù từ thuở sanh ra được chữa lành cũng thế (Giăng 9:1-41; 10:1-21). Ví dụ người chăn hiền lành là lời Chúa đáp lại sự vu cáo của người Pha-ri-si rằng: "Người nầy không phải từ Ðức Chúa Trời đến đâu, vì không giữ ngày Sa-bát" (Giăng 9:16).
       Nay tới phần khó trong lịch sử thánh. Về thời kỳ nầy, Giăng cho biết có ngày lễ Khánh thành tiếp theo ngay sau đó, là ngày 25 tháng Kileu, gần hiệp với tháng Décembre. Theo Giăng, dường như Chúa không trở về Ga-li-lê giữa lễ Lều tạm và lễ Khánh thành, song cứ ở trong và gần thành Giê-ru-sa-lem. Ma-thi-ơ và Mác không nói đến lễ Lều tạm nầy. Lu-ca ngụ ý đến, trong 9:51, song lời dùng ở đó dường có ý là lần cuối cùng Chúa lên thành Giê-ru-sa-lem. Trong sách Lu-ca, từ đoạn 9:51-18:14 dường như thuộc trước kỳ Chúa bỏ xứ Ga-li-lê; vậy, có câu hỏi: "Phải sắp đặt thế nào hầu cho có thể hòa hiệp với thời giờ chép ở sách Giăng?" Câu đáp hòa hiệp nhứt là: Chúa chắc có trở về xứ Ga-li-lê. Như thế mới có chỗ cho phần Lu-ca kể trên. Vậy, Lu-ca 10:17-18:14 có lẽ xen vào giữa Giăng 10:21-22. Có những ví dụ đáng chú ý nhứt thuộc về kỳ nầy chỉ có Lu-ca ghi chép thôi. Ví dụ về người Sa-ma-ri nhơn lành, con hoang đàng, người quản gia bất công, người giàu và La-xa-rơ, người Pha-ri-si và kẻ thâu thuế, đều chỉ chép trong Lu-ca, cũng thuộc về phần lịch sử nầy. Truyện Ma-ri và Ma-thê với phép lạ chữa mười người phung cũng thuộc trong phần nầy. Ngoài ra, có những lời rải rác của Chúa phán trong sách Ma-thi-ơ được chép lần nữa với một sự quan thiệp mới. Cả ba sách Tin lành đều hiệp nhau chép truyện đem những con trẻ đến cùng Chúa (Ma-thi-ơ 19:13-15; Mác 10:13-16; Lu-ca 18:15-17).
       Trên con đường qua Bê-rê đến thành Giê-ru-sa-lem, Chúa lại đặt trước tâm trí mười hai Sứ đồ điều chẳng bao giờ quên được: ấy là những sự đau thương đương chờ đợi Ngài. Sứ đồ không hiểu được những sự nầy, vì không thể hiệp sự báo trước cơn đau thương đó với những dấu lạ và lời Chúa báo trước về nước Chúa đến (Ma-thi-ơ 20:17-19; Mác 10:32-34; Lu-ca 18:31-34). Kết cuộc của đức tin, dầu mờ tối, nước Chúa sẽ đến, Sa-lô-mê cùng với hai con là Gia-cơ và Giăng đến xin hai chỗ tôn trọng nhứt trong nước Ngài. Chúa nói họ không biết điều mình xin, nơi tôn trọng trong nước sẽ được ban cho những người mà Chúa Cha đã sửa soạn cho. Tội lỗi bao giờ cũng khêu gợi tội lỗi, nên câu hỏi đó xui giục sự dục vọng của 10 Sứ đồ khác nổi lên, thì bất bình với Giăng và Gia-cơ. Một lần nữa, Chúa nhắc lại nguyên lý là phải giống như con trẻ mới được Chúa ưng thuận (Ma-thi-ơ 20:20-28; Mác 10:35-45).
       Sự chữa lành hai người mù tại thành Giê-ri-cô rất đáng chú ý vì làm cho các sách khó hòa hiệp nhau. Ma-thi-ơ chép có 2 người mù được chữa lúc Ngài bỏ thành Giê-ri-cô; Mác chép có một người mù và ghi tên người đó được chữa lành lúc Ngài tới thành, và Lu-ca hiệp với Mác. Phần nhiều nhà giải nghĩa trứ danh hiệp ý rằng có hai người mù thật được chữa lành cùng một cảnh ngộ giống nhau; Ba-ti-mê ở một bên thành được chữa lành khi Chúa vào, còn người kia ở bên kia thành được chữa lành khi Chúa đi ra (Ma-thi-ơ 20:29-34; Mác 10:46-52; Lu-ca 18:35-43).
       Sự kêu gọi Xa-chê có ích lợi cho nhiều người khác nữa. Xa-chê là một kẻ thâu thuế, thuộc vào hạng mà người Do-thái rất ghét và khinh bỉ. Song là một người muốn thờ phượng Ðức Chúa Trời. Bởi đó, Chúa kêu gọi người làm môn đồ, mặc dầu là người thâu thuế hay không (Lu-ca 19:1-10).
       Bây giờ chúng ta đến ngày lễ Khánh thành; song như có kể trên, các việc chép trong Lu-ca không rõ có đúng nhằm vào phần nầy của chức vụ Ngài không. Sau khi có mặt tại ngày lễ nầy, Chúa trở về Bê-tha-ba-ra, bên kia sông Giô-đanh, nơi Giăng trước làm lễ báp-têm, và ở đó. Không rõ Ngài ở đó bao lâu, có lẽ vài tuần. Sự tối cần của một gia đình tại Bê-tha-ni, là những người bạn thiết của Chúa, kêu gọi Ngài tới đó. La-xa-rơ đau, các em gái báo tin cho Chúa, vì biết rõ quyền phép Ngài. Song La-xa-rơ chết và chôn trong mộ bốn ngày thì Chúa mới tới. Nhờ quyền năng của Ðức Chúa Trời, mà Ngài bẻ gãy xiềng xích của sự chết, và khi nghe tiếng Ngài, thì La-xa-rơ dầu xác đã bắt đầu có mùi, được sống và bước ra khỏi mộ (Giăng 11:1-45). Mục đích phép lạ nầy là "để cho các ngươi tin" (11:15). Vì Bê-tha-ni ở gần Giê-ru-sa-lem và nhiều người ở thành đó biết La-xa-rơ, nên phép lạ công khai như thế không thể nào qua mắt tòa Công luận được. Tức thì tòa đó họp lại bàn luận về phép lạ mới xảy ra.
       Nay đã gần đến chặng chót của lịch sử chức vụ Ngài, và mọi lời cùng mọi việc đều hướng dẫn đến tấn thảm kịch của sự thương khó Ngài. Mỗi ngày đều có ghi lại những việc xảy ra và dạy dỗ riêng. Chúa vào thành Bê-tha-ni ngày thứ sáu, mồng tám tháng Nisan, trước ngày Sa-bát và ở lại hết ngày đó.
       Ngày thứ bảy, mồng 9 tháng Nisan (1 Avril). Khi Ngài dùng bữa tối tại nhà Si-môn, có biệt danh "người phung", một người bà con với La-xa-rơ, đang ngồi cùng bàn với Ngài, thì Ma-ri đầy lòng biết ơn vì Ngài đã khiến cho anh nàng từ kẻ chết sống lại, lấy một bình đựng dầu cam tòng nguyên chất, xức chơn Chúa và lấy tóc mình lau chơn Ngài, cũng xức trên đầu Ngài nữa.
       Tuần thương khó.--
       Ngày Chúa nhựt 10 Nisan (2 Avril).-- Khi từ Bê-tha-ni đến núi Ô-li-ve, Ngài truyền linh cho hai môn đồ đến một làng gần đó, bảo tại đó họ sẽ thấy một con lừa cái và con lừa con cột chung với nhau. Với hai con vật nầy, dường bắt để cho vua dùng, Ngài vào thành Giê-ru-sa-lem. Các môn đồ trải áo trên lưng lừa để Ngài ngồi ở trên? Một đoàn dân lớn tiếng hoan hô đằng trước Ngài: "Hô-sa-na...Ðáng ngợi khen cho Ðấng nhơn danh Chúa mà đến! Hô-sa-na ở trên nơi rất cao" (Thi Thiên 118:25-26; Ma-thi-ơ 21:9). Cả thành đều cảm động. Khi Chúa đến Ðền thờ, người mù và kẻ què đến đó đều được chữa lành. Sau khi đã làm các phép lạ trong Ðền thờ, Ngài trở về thành Bê-tha-ni. Ngày 10 tháng Nisan là ngày biệt riêng chiên con của ngày lễ Vượt qua (Xuất Ê-díp-tô ký 12:3), Chúa Jêsus, Chiên Con của Ðức Chúa Trời, vào thành Giê-ru-sa-lem và Ðền thờ trong ngày đó. Dầu ngoài Ngài ra không ai biết chính Ngài là Chiên Con của Lễ Vượt Qua đó, nhưng hai việc gặp nhau không phải là không định trước (Ma-thi-ơ 21:1-11; 14-17; Mác 11:1-11; Lu-ca 19:29-44; Giăng 12:12-19).
       Ngày thứ hai, 11 tháng Nisan (3 Avril).-- Ngày sau, Chúa Jêsus trở về Giê-ru-sa-lem, lợi dụng dịp tiện để dạy dỗ dân sự. Trong khi đi đường, Ngài đến gần một trong những cây vả mọc tại vùng đó, thấy một cây có lá sum suê mà không có trái. Ngài phán; "chẳng hề có ai ăn trái của mày nữa!" Cây vả tức thì khô đi (Ma-thi-ơ 21:18-19; Mác 11:12-14). Lên Ðền thờ, Ngài dẹp sạch hành lang đuổi bọn buôn bán họp lại tại đó (Ma-thi-ơ 21:12-13; Mác 11:15-19; Lu-ca 19:45-48). Buổi chiều Ngài lại trở về Bê-tha-ni.
       Ngày thứ ba, 12 tháng Nisan (4 Avril).-- Ðây là ngày thứ ba trong tuần thương khó. Chúa lên thành Giê-ru-sa-lem như trước, và vào Ðền thờ. Hội Công luận đòi Ngài đến, hỏi về việc dẹp sạch đền thờ. "Bởi quyền phép nào mà thầy làm những sự nầy?". Chúa đáp lại bằng một câu hỏi khác: "Lễ báp-têm của Giăng bởi đâu?" Họ không đáp lời và Chúa cũng vậy. Vào lúc nầy, Ngài phán ví dụ về hai con trai, về người trồng nho, và về tiệc cưới (Ma-thi-ơ 21:23-46; Mác 11:27-12:1-12; Lu-ca 20:1-19). Trong ngày nầy, Chúa giảng một bài dài, giới thiệu rõ hơn các bài khác, Ngài là Tiên tri lớn của dân sự. Khi bỏ đền thờ, các môn đồ chú ý về sự tốt đẹp của kiểu Ðền thờ, "đá và các nhà", chắc vì cớ trước Chúa ngăm đe thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị hủy diệt. Chúa đáp lời rằng sẽ chẳng có một hòn đá nào chồng trên một hòn đá khác mà không bị đổ. Khi tới núi Ô-li-ve đối ngang Ðền thờ, bốn Sứ đồ đứng đầu hỏi Chúa chừng nào sự phá hủy thành được ứng nghiệm. Muốn hiểu lời đáp Ngài phải chú ý Ngài chỉ bày tỏ các dấu sẽ xảy ra trước ngày Chúa tái lâm, chớ không phán đúng chính ngày đó. Ấy vì: "về ngày và giờ đó, chẳng ai biết chi hết, các thiên sứ trên trời, hay là Con cũng chẳng biết nữa; song chỉ Cha mà thôi". Vậy, trong bài có nói đến hai cơn biến động: sự phá hủy Giê-ru-sa-lem và sự Chúa tái lâm nói chung với nhau nhưng có một thời gian dài phân rẽ hai ngày đó. Lời kết luận về lời Chúa bảo trước đó dầu không nên đoán định đúng ngày nào Chúa đến song phải chực cho sẵn. Bài học về 10 người nữ đồng trinh cũng có ý đó (Ma-thi-ơ 24:44; 25:13). Ví dụ về ta lâng dạy rằng sự lợi dụng thì giờ quí là dường nào (Ma-thi-ơ 25:14-30). Kết luận bài giảng quan hệ nầy, Chúa bỏ qua sự hủy phá thành Giê-ru-sa-lem mà bày ra trước mắt thính giả bức tranh về ngày đoán xét (Ma-thi-ơ 25:31-46).
       Ngày thứ tư, 13 tháng Ni-san (5 Avril).-- Chúa cùng các Sứ đồ đi tẻ ra một nơi yên nghỉ trong ngày nầy. Quỉ Sa-tan đã đặt ý phản Ngài vào trong trí một người giữa vòng các Sứ đồ; Giu-đa Ích-ca-ri-ốt đi kết ước với các thầy tế lễ cả sẽ phản Chúa bằng giá 30 miếng bạc (Ma-thi-ơ 26:14-16; Mác 14:10-11; Lu-ca 22:1-6).
       Ngày thứ năm, 14 tháng Nisan (6 Avril).-- Trong ngày lễ bánh không men thứ nhứt, môn đồ hỏi Chúa muốn ăn Lễ Vượt Qua tại đâu. Ngài chỉ cho Phi-e-rơ và Giăng vào thành Giê-ru-sa-lem, theo một người xách vò nước, và nhơn danh Ngài xin người cho dùng phòng tiếp khách trong nhà người để giữ lễ đó. Mọi sự xảy ra như lời Ngài, và buổi tối ngày đó, Chúa và các Sứ đồ họp lại để cùng nhau ăn bữa Lễ Vượt Qua lần cuối cùng. Khi so các sách Tin lành sự liên tiếp các việc xảy ra lúc bữa ăn đó thì không rõ lắm. Dường như theo trật tự nầy: Khi đã ngồi vào bàn, bữa ăn bắt đầu, Chúa ban cho Sứ đồ chén thứ nhứt để phát cho nhau (Lu-ca 22:). Theo tục, khi bữa ăn tối Lễ Vượt Qua, hay uống bốn chén rượu nho pha nước, và ấy là chén thứ nhứt. Bây giờ, có sự cãi lẽ nổi lên giữa các Sứ đồ về ai sẽ là người lớn nhứt, có lẽ quan thiệp với những chỗ ngồi trong bàn tiệc (Lu-ca 22:). Sau lời răn dạy về sự kiêu căng và tham lam, Chúa làm một việc trong những việc cuối cùng đời Ngài để nhắc luôn cho những kẻ dự tiệc một bài học về sự khiêm nhường. Ngài đứng dậy khỏi bàn, đổ nước trong chậu, lấy khăn quấn ngang lưng, và Ngài rửa chơn cho các môn đồ (Giăng 13:). Khi rửa chơn cho mọi Sứ đồ xong, Chúa bày tỏ ý nghĩa việc Ngài vừa làm: "Nếu ta là Chúa, là Thầy mà đã rửa chơn cho các ngươi, thì các ngươi cũng nên rửa chơn lẫn cho nhau. Vì ta đã làm gương cho các ngươi để các ngươi cũng làm như ta đã làm cho các ngươi" (Ma-thi-ơ 26:17-20; Mác 14:12-17; Lu-ca 22:7-30; Giăng 13:1-20). Dường như cả đến Giu-đa Ích-ca-ri-ốt cũng không bị trừ ra ngoài công việc yêu thương nầy. Song sự phản bội của người, ai nấy đều biết và Chúa cũng chỉ rõ nữa. Một trong các Sứ đồ sẽ phản Ngài. Vì kẻ phản bội đi thẳng đến mục đích ác mình, thì chức vụ của Chúa cũng gần xong. Ngài ban điều răn mới là hãy yêu thương nhau như là phần cơ nghiệp cuối cùng Chúa để lại cho họ (Ma-thi-ơ 26:21-25; Mác 14:18-21; Lu-ca 22:21-23; Giăng 13:21-35). Gần xong bữa ăn, Chúa thiết lập lễ Tiệc thánh (Ma-thi-ơ 26:26-29, Mác 14:22-25; Lu-ca 22:19-20; I Cô-rinh-tô 11:23-25). Chúa nói trước Phi-e-rơ sẽ chối Ngài. Lời dự cáo đó, chắc không ai lấy làm khó tin hơn Phi-e-rơ (Ma-thi-ơ 26:31-33; Mác 14:27-31; Lu-ca 22:31-34; Giăng 13:36-38). Bây giờ, có bài giảng dài cuối cùng của Chúa chỉ Giăng chép mà thôi. Giữa bài giảng đó, Chúa nói phải đi khỏi đây (Giăng 14:31), có lẽ ấy chỉ có ý sửa soạn đi, và Chúa cứ phán hết bài trước khi đi đến vườn Ghết-sê-ma-nê (Giăng 14:-17:).
       Ngày thứ sáu, 15 tháng Nisan (7 Avril), gồm một phần tối trước.-- Sau khi đã hát thơ thánh rồi có lẽ là phần thứ hai bài của Hallel, tức là bài hát ngợi khen, gồm Thi Thiên 115:-118:, phần trước 113:-114: đã hát khi khởi sự bữa tiệc, Chúa và môn đồ đi ra, lên núi Ô-li-ve. Chúa chỉ dẫn ba bạn thử biết rồi, Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng đều đi xa hơn trong vườn, còn các Sứ đồ khác chắc ngồi gần cửa. Không bút nào tả được việc xảy ra đêm ấy trong nơi quạnh hiu đó, Chúa phán cùng ba Sứ đồ: "Linh hồn ta buồn bực cho đến chết: các ngươi hãy ở đây và tỉnh thức với ta". Rồi Ngài lìa ba Sứ đồ đi xa hơn, và ở riêng một mình, Ngài phấn đấu với một sự thử rèn không tả được. Lời Mác chép càng cảm động hơn: "Ngài khởi sự kinh hãi và sầu não" (Mác 14:33). Ngài không sợ sự đau đớn về phần xác, dầu cực kỳ đau đớn, nhưng chỉ sợ sự đụng chạm đến tội lỗi của thế gian mà Ngài cảm thấy cay đắng và nặng nề. Không thể cắt nghĩa quan cảnh trong vườn Ghết-sê-ma-nê một cách khác nữa. Ngài không phải chỉ suy gẫm, song cũng mang và cảm biết tội nữa. Ba Sứ đồ chìm đắm trong giấc ngủ. Chúa trở lại cùng Sứ đồ cốt tìm sự an ủi. Sứ đồ trước kia sẵn sàng hỏi: "Sao hiện bây giờ tôi không thể theo Chúa được", phải nghe câu hỏi khác quở trách lời tự phụ trước: "Thế thì các ngươi không tỉnh thức với ta trong một giờ được!" Lần thứ nhứt, Chúa đi riêng và chiến đấu trong sự cầu nguyện với Cha. Lần thứ hai, Chúa trở lại cũng thấy ba Sứ đồ ngủ. Cũng quang cảnh đó xảy ra lần thứ ba; thì mọi sự kết liễu. Từ nay, Sứ đồ có thể ngủ và được nghỉ ngơi, không còn phải thức canh một giờ với Chúa Jêsus nữa. Ấy vì chức vụ của Chúa trong xác thịt đã hết rồi. Quang cảnh nầy trái hẳn với cảnh Chúa hóa hình trên núi (Ma-thi-ơ 26:36-46; Mác 14:32-42; Lu-ca 22:39-46; Giăng 18:1).
       Giu-đa Ích-ca-ri-ốt đến để làm trọn việc mình. Trong ánh sáng mập mờ của bó đuốc, một cái hôn của người làm dấu để cho quân lính biết người phải bắt. Phi-e-rơ rút gươm và chém đứt tai của đầy tớ thầy cả thượng phẩm; song Chúa từ chối sự cứu giúp đó và chữa lành kẻ bị thương? Hết thảy môn đồ bỏ Ngài mà chạy trốn (Ma-thi-ơ 26:47-56; Mác 14:43-52; Lu-ca 22:47-53; Giăng 18:2-12).
       Nếu lấy cả bốn sách Tin lành, thì khó sắp đặt đúng những việc xảy ra ngay sau đó. Khi Chúa bị bắt, họ trước hết giải Ngài đến nhà An-ne, cha vợ của Cai-phe, thầy tế lễ thượng phẩm. Theo Giăng, dường như sự tra xét Chúa và Phi-e-rơ chối Chúa lần thứ nhứt, là tại nhà An-ne (Giăng 18:13-14). Nhưng phải nhớ câu 24 trở lên; vậy hết cả mọi việc xảy ra từ câu 14-24 không phải ở nhà An-ne, song tại nhà Cai-phe. Chắc nhà Cai-phe giống như các nhà phương Ðông khác, có một sân lộ thiên ở giữa còn các buồng ở xung quanh có một cửa dẫn vào sân, ở đó có một con đòi để mở cửa. Khi Phi-e-rơ vào, con đòi giữ cửa để ý đến người, sau trước ánh lửa hỏi rằng: "Còn ngươi cũng là môn đồ của người đó, phải chăng?" (Giăng 18:17). Dường như lòng sốt sắng dạn dĩ của Phi-e-rơ mất rồi. Phi-e-rơ có lẽ lén đi đến và định cứ ở đó như vậy, bất đồ người chối Chúa mình! Nay thấy sự nguy hiểm sắp đến, Phi-e-rơ đi ra tới hiên cửa và đó có một người (1), hỏi Phi-e-rơ lần thứ hai, thì người chối càng mạnh hơn. Chừng một giờ sau, thì Phi-e-rơ trở vào sân, có câu hỏi đó lần thứ ba, và cũng một kết quả đó. Tức thì gà gáy!
       Chúa Jêsus ở bên trong, có lẽ nhờ một chỗ trông ra sân, "xây mặt lại ngó Phi-e-rơ!" Phi-e-rơ nhớ lại lời Chúa: "Trước khi gà gáy, ngươi sẽ chối ta ba lần". Phi-e-rơ đi ra ngoài khóc lóc thảm thiết (Ma-thi-ơ 26:57-58; 69-75; Mác 14:53-54; 66-72; Lu-ca 22:54-62; Giăng 18:13, 18; 24-27).
       Cai-phe tra hỏi Chúa thứ nhứt (Giăng 18:19-24), có lẽ trước lúc tòa Công luận đủ thì giờ đến họp lại. Ấy là sự gạn hỏi riêng của người tò mò hơn là sự tra xét theo thường lệ. Vì cớ đó, Chúa không trả lời là phải lẽ. Và sau khi tra hỏi theo lệ thường, Chúa sẵn sàng đáp lời. Một đầy tớ muốn đẹp lòng chủ mình, vả Con Ðức Chúa Trời. Ấy chỉ là đầu của những sự đáng kinh khiếp. Khi rạng đông, tòa Công luận họp lại vì thầy cả thượng phẩm đã bá cáo ban đêm có đem đến một bọn làm chứng dối mà đã sắp đặt trước. Dầu những người đó làm chứng trước tòa án không công bình, song không lên án được vì nhiều chứng ngôn trái với nhau. Cuối cùng có hai người đến làm chứng dối, song cũng không tương hiệp, dầu lời chứng hơi giống sự thật. Thầy tế lễ lấy lời thề nghiêm trọng mà hỏi Chúa có phải là Ðấng Christ, Con Ðức Chúa Trời không? Ngài đáp thật phải, và phán trước Ngài sẽ lấy đại quyền đại vinh trong ngày sau rốt mà đến. Ấy là đủ cho mục đích họ. Họ tuyên án Chúa phạm một tội đáng chết (Giăng 18:19-24; Lu-ca 22:63-71; Ma-thi-ơ 26:59-68; Mác 14:55-65). Dầu vậy, tòa Công luận cũng không có quyền thi hành bản án đó.
       Vừa hừng sáng, họ dẫn Chúa đến quan tổng đốc La-mã là Phi-lát. Nơi phán xét chắc là một phần của tháp Antonia gần Ðền thờ, tại đó có lính La-mã canh gác. Phi-lát nghe nói Chúa là người phạm luật pháp Giu-đa, sắp sửa cho họ tự quyền xử Ngài theo ý họ; như vậy, chắc họ sẽ bình an mà hành hình Ngài. Song khi Phi-lát thấy Chúa thì Ngài được ơn trước mặt người, Phi-lát nói không thấy Ngài có tội gì. Người Giu-đa không chịu bỏ miếng mồi họ cách dễ dàng như vậy. Họ chất trên Ngài những lời tố cáo và nói Ngài phá rối cuộc trị an (Lu-ca 23:5). Phi-lát không thắng sự hung hăng của họ. Biết Chúa là người Ga-li-lê, Phi-lát giao Ngài cho Hê-rốt xử; song Hê-rốt sau khi chế giễu và bắt bớ Chúa cách dữ tợn, giao Ngài lại cho Phi-lát. Bấy giờ, cuộc tranh chiến ghê gớm bắt đầu giữa dân Giu-đa và quan tổng đốc La-mã, là người có tánh nhu nhược và hung dữ.
       Phi-lát định tha Chúa, vì theo lệ thường trong ngày lễ có thể ân xá một tội nhơn cho dân Giu-đa. Phi-lát biết các thầy cả và nhà cầm quyền sẽ phản đối; song có ý nhờ dân sự giải quyết. Ðoàn dân vì đã được các thầy tế lễ xui giục, thà tha tội nhơn Ba-ra-ba hơn là Jêsus. Bấy giờ, bọn lính đánh đòn, vả và mắng nhiếc Chúa. Trong lúc chỉ có ý sỉ nhục Chúa, họ vô tình làm đúng lẽ thật, tức đội mão miện và xưng Ngài là Vua dân Giu-đa, theo Giăng Phi-lát cố tìm cách tha Ngài một lần chót. Song lý cớ cuối cùng trong óc mọi người tỏ thẳng cho Phi-lát rõ: "Nếu quan tha người nầy, thì quan không phải là trung thần của Sê-sa". Ấy đủ khiến Phi-lát quyết dịnh giao Chúa cho chúng đóng đinh trên thập tự (Ma-thi-ơ 27:15-30; Mác 15:6-19; Lu-ca 23:17-25; Giăng 18:39-40; 19:1-16). Giăng chép chừng ấy giờ thứ sáu, chắc tính từ nửa đêm. Trong Mác tính từ giờ sáng trở đi.
       Thật chỉ có một mình người bình thản giữa những sự kích thích kinh khủng trong đêm vừa qua. Nay, Chúa phải mang thập tự nặng nề đè nén trên Ngài, cùng mọi người đi ra ngoài thành đến Gô-gô-tha hay Chỗ Sọ. Hiện nay không biết chắc ở đâu. Khi Ngài bắt đầu mệt không mang nổi, vì không muốn mình bị ô uế bởi gánh nặng đáng rủa sả, nên họ đặt trên Si-môn, người Si-ren, và buộc người phải mang sau Chúa Jêsus. Sau khi cho Chúa rượu và một dược, họ đóng đinh Ngài giữa hai tên trộm. Về sự hèn hạ Chúa, không còn thiếu gì cả. Một kẻ trộm được tha ra thay vì Ngài, còn hai tên khác bị phạt với Ngài. Phi-lát để trên đầu thập tự một bảng viết bằng ba thứ tiếng: Jêsus, người Na-xa-rét là vua dân Giu-đa. Thầy tế lễ cả không muốn để như thế vì bảng đó không tố cáo Ngài mạo xưng mình bằng danh đó, song Phi-lát không chịu đổi. Một trong hai tên trộm được đổi lòng trên thập tự: trước tên đó có sỉ nhục Chúa (Ma-thi-ơ), kế đó thấy sự kiên tâm của Chúa thì ăn năn (Lu-ca). Xem Ma-thi-ơ 27:44; Mác 15:32; Lu-ca 23:39-43; Giăng 19:.
       Trong cơn rất đau thương của xác thịt, Chúa bình tĩnh giao Ma-ri mẹ Ngài cho người đứng gần là Giăng coi sóc. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, có sự tối tăm trên cả xứ. Giờ thứ chín (3 giờ chiều), Chúa lớn tiếng đọc những lời mở đầu Thi Thiên 22:, và cả Thi Thiên đó soi dẫn về Ðấng Mê-si đau khổ. Một người tại đó lấy bông đá thấm rượu chua của người lính thường dùng, và để trên đầu cây sậy, làm cho ướt cặp môi người đau khổ. Chúa kêu lớn một lần nữa: "Mọi việc đã được trọn" (Giăng) "Hỡi Cha! Tôi giao linh hồn lại trong tay Cha!" (Lu-ca), và trút linh hồn (Ma-thi-ơ 27:31-56; Mác 15:20-41; Lu-ca 23:33-49; Giăng 19:17-30). Khi Chúa chết, bức màn trong Ðền thờ phủ nơi chí thánh, nơi đặc biệt có sự hiện diện của Ðức Giê-hô-va, bị xé làm hai. Có cơn động đất lớn. Có nhiều người chết ra khỏi mồ mả song sau khi dấu lạ lớn nầy đã làm chứng cho nhiều người về quyền phép Ðấng Christ làm cho sống, thì trở về bụi đất lần nữa (Ma-thi-ơ). Người Giu-đa rất sốt sắng về ngày Sa-bát, giữa công việc giết người, xin Phi-lát làm xong sự phạt mà đánh gãy chơn của tội nhơn, hầu cho có thể đem xác xuống và chôn trước ngày Sa-bát là ngày họ giữ (Phục truyền luật lệ ký 21:23). Những kẻ làm việc đó thấy hai tên trộm còn sống nên đánh gãy ống chơn, song vì Chúa chết rồi thì không cần. Chúa chết trước nhứt như thế, ấy chắc vì Ngài về phần trí đã chịu đau đớn quá nhiều, và vì ý muốn Ngài định chết nên tự nhiên bớt sức thân thể Ngài chống trả với sự hư nát. Giô-sép ở Ma-ri-a-thê, thuộc Hội Công luận và là tín đồ kín giấu của Chúa, đến xin Phi-lát thân Chúa để chôn đi. Ni-cô-đem cũng vùa giúp trong việc yêu thương nầy? Họ xức dầu cho xác Chúa và đặt nằm trong mộ mới của Giô-sép (Ma-thi-ơ 27:50-61; Mác 15:37-47; Lu-ca 23:46-56; Giăng 19:30-42).
       Ngày thứ bảy, 16 tháng Nisan (8 Avril).-- Các thầy tế lễ cả và người Pha-ri-si được Phi-lát cho phép đặt một vọng canh nơi cửa mộ sợ các môn đồ nửa đêm đến lấy trộm xác Chúa và nói cùng dân sự: Ngài đã từ kẻ chết sống lại (Ma-thi-ơ 27:62-66).
       Ngày Chúa nhựt, 17 tháng Nisan (9 Avril).-- Ngày Sa-bát đến giờ thứ sáu chiều ngày 16 Nisan là hết. Tảng sáng sớm ngày sau, hiện nay gọi là ngày Chúa nhựt, Chúa sống lại. Các sách Tin lành không chép đúng giờ nào. Về sự mầu nhiệm lớn đó, là Ðấng Christ được sống lại khỏi kẻ chết thể nào, không chép nhiều. Những người đờn bà trước đứng gần thập tự Chúa, đã sửa soạn thuốc thơm từ chiều hôm trước, có lẽ để làm trọn việc xông xác Chúa mà Giô-sép và Ni-cô-đem đã vội vã làm rồi. Các bà đó đến mộ rất sớm trong ngày thứ nhứt, thấy hòn đá đã lăn đi, và Chúa không còn ở trong mộ. Ngài đã sống lại từ trong kể chết. Ma-ri Ma-đơ-len vội vàng trở về, vì tin xác Ngài bị người ta dời đi, nói ngay cùng Phi-e-rơ và Giăng rằng xác Chúa đã bị đem đi. Các bà khác tới mộ, thấy một thiên sứ (Ma-thi-ơ và Mác). Lu-ca chép có hai thiên sứ. Có một thuyết nói thiên sứ hiện ra hai lần cho mấy người khác nhau trong số đờn bà, vì chỉ Lu-ca không ghi rõ tên đờn bà, là những ai. Bây giờ, họ bỏ mộ và vội báo tin cho các Sứ đồ. Ðang khi đi đường, Chúa Jêsus gặp họ, chào rằng: "Mừng các ngươi". Mười một Sứ đồ mới nghe thì chưa tin. Trong lúc đó, Giăng và Phi-e-rơ đến mộ. Giăng chạy đến trước dòm vào, Phi-e-rơ đến sau vào mộ ngay thấy vải liệm còn quấn nguyên mà không có xác Chúa. Ấy gợi ý không phải là người dời xác Ngài đi. Hai Sứ đồ trở về, tự hỏi về điều mình vừa thấy. Ma-ri Ma-đơ-len còn ở lại mộ mà khóc, bà thấy hai thiên sứ trong mộ dầu Phi-e-rơ và Giăng không thấy. Hai vị hỏi Ma-ri thì nàng trả lời, song chưa ngờ rằng Chúa đã sống lại. Khi đi ra, Ma-ri thấy Chúa, song vì sự ồn ào của cảm giác, bà không nhận biết Chúa ngay. Chúa phán: "Hỡi Ma-ri". Bà vui nhận Chúa ngay. Chúa hiện ta lần thứ ba là với Phi-e-rơ (Lu-ca, Phao-lô), lần thứ tư giữa hai môn đồ buổi chiều đang đi về làng Em-ma-út (Lu-ca, Mác); lần thứ năm, buổi chiều đó với 10 Sứ đồ đang khi ngồi bàn ăn (Mác, Lu-ca, Giăng). Mọi sự đó xảy ra trong ngày thứ nhứt của tuần lễ, là chính ngày mà Chúa sống lại. Ðúng một tuần sau, Chúa hiện ra với các Sứ đồ bày tỏ các dấu vết cho Thô-ma biết chắc Ngài thật đã sống lại (Giăng). Ấy là lần thứ sáu. Lần thứ bảy, Chúa hiện ra tại Ga-li-lê với 7 Sứ đồ đang họp lại, có lẽ vài người có ý quay về nghề cũ là đánh cá (Giăng). Lần thứ tám, Chúa hiện ra với 11 Sứ đồ, và có lẽ lúc có 500 anh em họp lại với mình trên núi Ga-li-lê (Phao-lô). Lần thứ chín, Chúa hiện ra với Gia-cơ (Phao-lô) I Cô-rinh-tô 15:3-8, và lần chót với các Sứ đồ tại thành Giê-ru-sa-lem ngay trước khi Chúa thăng thiên (Công vụ các sứ đồ).
       Tiến sĩ Scofield có luận về Ðấng Christ rằng:
       1. Luận về Ðấng Christ tương phản với A-đam Rô-ma 5:14 (xem bài: A-đam).
       2. Luận về chức vụ cầu thay của Ðấng Christ (I Giăng 2:1).-- Ðấng Christ cầu thay cho các thánh đồ phạm tội. Ngài thi hành chức vụ ấy ở nơi Ðức Chúa Cha. Vì có sự linh nghiệm đời đời của của lễ Ngài dâng, nên các thánh đồ lại được thông công với Ðức Chúa Cha (Thi Thiên 23:3; Giăng 13:10).
       3. Luận lược về hai sự đến của Ðấng Christ (xem Công vụ các sứ đồ 1:11).
             (1) Cựu Ước dự ngôn về sự đến của Ðấng Mê-si theo hai phương diện: một là bị chối bỏ và chịu đau đớn (như Ê-sai 53:); hai là được vinh hiển và quyền phép trên mặt đất (như Ê-sai 11:; Giê-rê-mi 23:; Ê-xê-chi-ên 37:). Thường khi hai phương diện ấy lẫn lộn với nhau trong cùng một đoạn (Thi Thiên 2:). Chính các Ðấng tiên tri cũng bối rối vì sự dường như tương phản đó (I Phi-e-rơ 1:10-11). Vấn đề ấy giải quyết được bởi sự làm ứng nghiệm từng phần. Ðúng kỳ hạn, Ðấng Mê-si sanh ra bởi nữ đồng trinh y như Ê-sai đã nói, hiện ra giữa loài người và bắt đầu thi hành chức vụ bởi rao truyền rằng: "Nước thiên đàng đã đến gần" (Ma-thi-ơ 4:17). Theo sau có sự chối bỏ Vua và Nước.
             (2) Ðoạn, Vua bị chối bỏ bèn rao truyền rằng Ngài sắp bị đóng đinh vào thập tự giá, sẽ sống lại, về trên trời và tái lâm (Ma-thi-ơ 12:38-40; 16:1-4, 27; Lu-ca 12:35-46; 17:20-36; 18:31-34; 19:12-27; Ma-thi-ơ 24:; 25:).  
             (3) Ngài dự ngôn về những biến động sẽ xảy ra giữa khi Ngài về trên trời và tái lâm (Ma-thi-ơ 13:1-50; 16:18; 24:4-26).
             (4) Sự tái lâm của Ðấng Christ theo như Ngài đã hứa đó trở nên đề mục cốt yếu của sách Sứ đồ, các thơ tín và sách Khải Huyền.
       Góp chung lại, những lời Tân Ước dạy dỗ về sự tái lâm của Ðức Chúa Jêsus Christ có thể tóm tắt như vầy:
             (1) Sự tái lâm đó là một sự thật xảy ra chớ không phải là một phương thức; chính Ðấng Christ sẽ tái lâm và người ta sẽ trông thấy thân thể Ngài (Ma-thi-ơ 23:39; 24:30; 25:31; Mác 14:62; Lu-ca 17:24; Giăng 14:3; Công vụ các sứ đồ 1:11; Phi-líp 3:20-21; I Tê-sa-lô-ni-ca 4:14-17).
             (2) Sự tái lâm của Ngài có quan hệ với Hội Thánh, dân Y-sơ-ra-ên và các nước:
                   a) Ðối với Hội Thánh, sự Chúa giáng lâm xuống không trung để khiến các thánh đồ ngủ sống lại và biến hóa các thánh đồ còn sống, đã được tỏ ra là một mối hy vọng vững vàng (Ma-thi-ơ 24:36, 44; 48-51; 25:13; I Cô-rinh-tô 15:51-52; Phi-líp 3:20; I Tê-sa-lô-ni-ca 1:10; 4:14-17; I Ti-mô-thê 6:14; Tít 2:13; Khải Huyền 22:20).
                   b) Ðối với dân Y-sơ-ra-ên, có lời tiên tri rằng sự tái lâm của Chúa cốt để làm ứng nghiệm những lời tiên tri về dân ấy sẽ lập lại nước, sẽ hối cải và được hòa bình, hùng cường theo giao ước Ða-vít (Công vụ các sứ đồ 15:14-17; Xa-cha-ri 14:1-9; II Sa-mu-ên 7:8-17; Xa-cha-ri 13:8; Lu-ca 1:31-33; I Cô-rinh-tô 15:24). Những lời tiên tri ấy đến nay vẫn chưa ứng nghiệm.
             c) Ðối với các nước dân ngoại, có lời tiên tri rằng sự tái lâm của Ðấng Christ sẽ hủy diệt nền chánh trị quốc tế hiện thời (Ða-ni-ên 2:34-35; Khải Huyền 19:11); Sự đoán xét ở Ma-thi-ơ 25:31-46 theo sau có dân ngoại ở khắp thế gian hối cải và được hưởng phước của nước thiên đàng (Ê-sai 2:2-4; 11:10; 60:3; Xa-cha-ri 8:3, 20, 23; 14:16-21).
       4. Luận về các sự hiện ra của Ðấng Christ sau khi Ngài sống lại (Ma-thi-ơ 28:9).-- Thứ tự các sự hiện ra của Chúa chúng ta dường như thế nầy:
       Nhằm chính ngày Ngài sống lại:
             (1) Với Ma-ri Ma-đơ-len (Giăng 20:14-18).
             (2) Với mấy bà từ mồ mả trở về truyền tin của thiên sứ (Ma-thi-ơ 28:8-10).
             (3) Với Phi-e-rơ có lẽ là buổi chiều (Lu-ca 24:34; I Cô-rinh-tô 15:5).
             (4) Với hai môn đồ đi về Em-ma-út vào buổi tối (Lu-ca 24:13-31).
             (5) Với các Sứ đồ, trừ ra Thô-ma (Lu-ca 24:36-43; Giăng 20:19-24).
       Tám ngày sau:
             (1) Với các Sứ đồ, có cả Thô-ma (Giăng 20:24-29).
       Trong xứ Ga-li-lê:
             (a) Với bảy người trên hồ Ti-bê-ri-át (Giăng 21:1-23).
             (b) Trên một quả núi, với các Sứ đồ và năm trăm anh em (I Cô-rinh-tô 15:6).
       Lại ở Giê-ru-sa-lem và Bê-tha-ni:
             (a) Với Gia-cơ (I Cô-rinh-tô 15:7).
             (b) Với mười một Sứ đồ (Lu-ca 24:5-53; Mác 16:19-20; Công vụ các sứ đồ 1:9-12).
       Với Phao-lô:
             (a) Gần thành Ða-mách (Công vụ các sứ đồ 9:3-6; I Cô-rinh-tô 15:8).
             (b) Trong Ðền thờ (Công vụ các sứ đồ 22:17-19; 23:11). Với Ê-tiên, ở ngoài thành Giê-ru-sa-lem (Công vụ các sứ đồ 7:55). Với Giăng ở Cù lao Bát-mô (Khải Huyền 1:10-19).
       5. Luận về sự chuộc tội bởi Ðấng Christ (Lê-vi ký 16:5-15).-- Thầy tế lễ thượng phẩm dâng của lễ đền tội mình thì không giống như Ðấng Christ (Hê-bơ-rơ 7:26-27) ý nghĩa hình bóng của hai con dê đực và thầy tế lễ thượng phẩm như sau nầy:
             (1) Mọi việc nhờ chính thầy tế lễ thượng phẩm làm (Hê-bơ-rơ 1:3 -- "Con làm"), dân chỉ đem của lễ đến (Ma-thi-ơ 26:47; 27:24-25).
             (2) Dê đực bị giết (phần của Ðức Giê-hô-va) chỉ bóng về sự chết của Ðấng Christ để binh vực sự thánh khiết và sự công bình của Ðức Chúa Trời, như đã tỏ ra trong luật pháp (Rô-ma 3:24-26), lại để chuộc tội nữa;
             (3) Dê đực sống chỉ bóng về việc Ðấng Christ cất tội lỗi của chúng ta khỏi trước mặt Ðức Chúa Trời (Hê-bơ-rơ 9:26; Rô-ma 8:33-34).
             (4) Thầy tế lễ thượng phẩm vào nơi chí thánh, chỉ bóng về Ðấng Christ dùng huyết mình mà vào "chính trên trời" vì cớ chúng ta (Hê-bơ-rơ 9:11-12). Nhờ huyết Ngài, nơi trước là chỗ đoán phạt, nay đổi ra "ngai ơn phước" và "nắp thi ân".
             (5) Chúng ta là thầy tế lễ Giao Ước Mới, có "cái màn bị xé ra", mà dân Y-sơ-ra-ên đã chẳng có (Ma-thi-ơ 27:51; Hê-bơ-rơ 10:19-20). Vậy, nhờ huyết của Ngài, chúng ta được vào nơi Ngài ở, là nơi chí thánh, để thờ phượng và được phước (Hê-bơ-rơ 4:14-16; 10:19-22).
       Việc chuộc tội bởi Ðấng Christ như đã bày tỏ trong các của lễ làm hình bóng trong Cựu Ước, thì có ý nghĩa cốt yếu như sau nầy:
             (1) Thế cho của lễ chịu chết thay cho người dâng của lễ.
             (2) Luật pháp chẳng bị khinh bỏ, nhưng được tôn kính mỗi lần giết con sinh của lễ lại thi hành án phạt do luật pháp.
             (3) Mỗi con vật dùng làm của lễ làm hình bóng về sự vô tội của Ðấng đã mang tội lỗi chúng ta, con vật dùng làm của lễ phải không có tì vít nào.
             (4) Kết quả của việc chuộc tội bởi Ðấng Christ đã được chỉ bóng:
             a) Trong lời hứa "tội sẽ được tha"; và
             b) Trong của lễ thù ân, tín đồ được giao thông với Ðức Chúa Trời, đó là ơn riêng rất quí cho thánh đồ.
       6. Luận về thái độ của Ðấng Christ đối với thời đại nầy (Lu-ca 24:51).-- Ðây Chúa tỏ ra thời đại nầy là thởi đại ân điển, Chúa đã lên trời và ban ơn phước thuộc linh cho tín đồ. Trong thời đại dân Giu-đa, dân sự vâng phục Chúa thì được phần thưởng bằng on phước vật chất (Phục truyền luật lệ ký 28:1-15). Trong thời đại nước Chúa, ơn phước thuộc linh liên lạc với ơn phước vật chất.
       7. Luận về ý nghĩa Ðấng Christ chịu báp-têm (Ma-thi-ơ 3:15).-- Chẳng có chỗ nào cắt nghĩa rõ ràng tại sao một Ðấng vô tội, còn quyết xin chịu phép báp-têm, là lễ có nghĩa xưng tội (câu 6) và ăn năn tội (câu 11). Có thể giải thích rằng:
             (1) Bấy giờ Ðức Chúa Jêsus sắp được xức dầu bằng Ðức Thánh Linh (câu 16) để được phong ba chức, tức là Tiên tri, Thầy tế lễ và Vua. Trong ban Lê-vi (Xuất Ê-díp-tô ký 29:4-7), thầy tế lễ thượng phẩm trước hết phải tắm rồi mới được xức dầu. Ngài được xức dầu một lần đủ cả, dầu chức vụ Thầy tế lễ của Ðấng Christ chỉ bắt đầu khi Ngài "dâng chính mình không tì vít cho Ðức Chúa Trời" (Hê-bơ-rơ 9:14), và sự tỏ ra Ngài cách trọn vẹn là Thầy tế lễ và Vua theo ban Mên-chi-xê-đéc, phải chờ đợi nước Chúa đến (Sáng thế ký 14:18).
             (2) Nhưng lễ báp-têm của Giăng thật là tiếng Ðức Chúa Trời phán với dân Y-sơ-ra-ên, và một có phần dân ấy đã tin, đã vâng lời (câu 5). Dự phần trong lễ báp-têm với phần dân đã tin ấy Ðấng theo xác thịt là người Y-sơ-ra-ên đã "làm cho trọn mọi sự công bình".
       8. Luận về Ðấng Christ hiệp một với môn đồ (Ê-phê-sô 1:3).-- "Ở các nơi trên trời" -- theo nguyên văn nên dịch là: "những sự thuộc về trời". Trong Giăng 3:12, tiếng Hy-lạp dùng cùng một chữ như ở đây, nhưng tại đó đã thêm "việc". Trong cả hai chỗ, tiếng Hy-lạp chỉ về "sự thuộc về trời" -- trái với "sự thuộc về đất". Trong thơ Ê-phê-sô dùng "nơi" là sai nghĩa nhiều. "Những việc thuộc về trời" có thể giải nghĩa là phạm vị từng trải thuộc linh của tín đồ đồng hóa với Ðấng Christ: trong cõi thiên nhiên (II Phi-e-rơ 1:4); trong sự sống (Cô-lô-se 3:4; I Giăng 5:12), trong những sự giao thiệp (Giăng 20:17; Hê-bơ-rơ 2:11); trong sự hầu việc (Giăng 17:18; Ma-thi-ơ 28:20); trong sự khốn khổ (Phi-líp 1:29; 3:10; Cô-lô-se 1:24); trong gia tài (Rô-ma 8:16-17); trong sự vinh hiển đời sau (I Phi-e-rơ 2:9; Khải Huyền 1:6; 5:10). Tín đồ là người thuộc về trời, là khách lạ và kẻ lữ hành trên đất (Hê-bơ-rơ 3:1; I Phi-e-rơ 2:11).
       9. Luận về Ðấng Christ như một cái chồi (Ê-sai 4:2).-- Chồi của Ðức Giê-hô-va, tức là một danh hiệu của Ðấng Christ dùng theo bốn cách:
             (1) Chồi của Ðức Giê-hô-va (Ê-sai 4:2), tức là bổn tánh của Ðấng Christ, như đã tỏ ra trong tên "Em-ma-nu-ên" (Ê-sai 7:14) sẽ lại được bày tỏ ra cách trọn vẹn cho dân Y-sơ-ra-ên lúc họ đã trở về và hối cải sau khi Ngài đã tái lâm trong vinh quang Chúa (Ma-thi-ơ 25:31).
             (2) "Một nhánh của sự công bình cho Ða-vít" (Ê-sai 11:1; Giê-rê-mi 23:5; 33:15), tức là Ðấng Mê-si, "theo xác thịt thì bởi dòng dõi vua Ða-vít sanh ra" (Rô-ma 1:3), được tỏ ra trong sự vinh hiển Ngài trên đất nầy như là Vua trên các vua, Chúa trên các chúa.
             (3) Ðầy tớ của Ðức Giê-hô-va là "Chồi móng" (Xa-cha-ri 3:8), sự hèn hạ và vâng phục cho đến chết của Ðấng Mê-si theo Ê-sai 52:13-15; 53:1-12; Phi-líp 2:5-8.
             (4) "Nầy có một người tên là Chồi móng" (Xa-cha-ri 6:12-13), tức là bổn tánh Ngài như là Con Người, là "A-đam sau hết", là "Người thứ hai" (I Cô-rinh-tô 15:45-47), cai trị như Thầy tế lễ và Vua trên cả đất, trong phạm vi đã ban cho A-đam thứ nhứt như đã bị A-đam thứ nhứt làm mất đi. Ma-thi-ơ là sách Tin lành luận về "Nhánh của Ða-vít"; Mác luận về "Ðầy tớ của Giê-hô-va là Chồi móng"; Lu-ca luận về "một người tên là Chồi móng"; Giăng luận về "Chồi của Ðức Giê-hô-va".
       10. Luận về Ðấng Christ và Tân phụ.-- tức là Hội Thánh.
       Nhã Ca 2:2. Tân phụ.-- Các câu mà vợ mới dùng để mô tả Chồng mới, so sánh với câu Chồng mới dùng về vợ, thì là thường quá. Chồng nói vợ mới là "như bông huệ ở giữa gai gốc"; nhưng vợ chỉ so sánh Chồng là "như cây bình bát ở giữa những cây rừng".
       Nhã Ca 5:2.-- Vợ mới thỏa lòng vì chơn của mình được rửa sạch, đang khi Chồng cứ làm việc cho kẻ khác. Hãy xem Lu-ca 6:12; 14:21-23. Vợ mới không phải ở trong địa vị tội lỗi, nhưng ở trong địa vị không sốt sắng hầu việc Chúa. Vợ mới chỉ suy nghĩ về các đức tánh và các sự trọn lành mình nhờ Ðức Thánh Linh mà có trong Ðấng Christ (I Cô-rinh-tô 12:4-11; Ga-la-ti 5:22-23). Ðó là thần bí chủ nghĩa đã quên bỏ phận sự là nên chiến đấu vì đạo Chúa. Chơn vợ được rửa sạch, tay nhỏ giọt một dược; như Chồng đã đi mất rồi, và nay vợ phải đi tìm Chồng.
       Ê-phê-sô 5:32.-- Câu 30 và 31 đã trích trong Sáng thế ký 2:23-24, nên rõ ràng Phao-lô không có ý rằng Hội Thánh chỉ là thân thể của Ðấng Christ mà thôi. Ê-va đã được lấy ra từ thân thể A-đam, thật là "xương bởi xương" và "thịt bởi thịt" của A-đam; dầu vậy, Ê-va cũng là vợ người, liên hiệp với A-đam, "hai người cùng nên một thịt" (Ma-thi-ơ 19:5-6); vậy thì Ê-va làm hình bóng về Hội Thánh và Vợ Mới của Ðấng Christ (xem II Cô-rinh-tô 11:2-3). Các đờn bà làm bóng vợ mới là Ê-va (Sáng thế ký 2:23-24); Rê-be-ca (Sáng thế ký 24:1-7); Ách-nát (Sáng thế ký 41:45); Sê-phô-ra (Xuất Ê-díp-tô ký 2:21). Hãy xem Ô-sê 2:1-23.
       11. Luận về sự quan hệ của Ðấng Christ với các giao ước (Hê-bơ-rơ 8:8).-- Tóm tắt lại, Giao Ước Mới là:
             (1) "Tốt hơn" (câu 6) Giao Ước của Môi-se, không về tinh thần, nhưng về hiệu lực (Hê-bơ-rơ 7:19; Rô-ma 8:3-4).
             (2) Lập trên lời hứa "tốt hơn". Trong giao ước Môi-se; Ðức Chúa Trời phán rằng: "Nếu các ngươi vâng lời" (Xuất Ê-díp-tô ký 19:5); Trong Giao Ước Mới, Ngài phán rằng: "Ta sẽ" (Hê-bơ-rơ 8:10, 12).
             (3) Dưới Giao Ước, Môi-se, dân sự vâng lời vì sợ (Hê-bơ-rơ 2:2; 12:25-27; dưới Giao Ước Mới, tín đồ vâng lời vì có lòng và trí tình nguyện mà vâng lời (câu 10).
             (4) Nhờ Giao Ước Mới chính Chúa tự khải thị cho lòng mỗi tín đồ (câu 11).
             (5) Ðược quên bỏ hết tội lỗi (câu 12; Hê-bơ-rơ 10:17; so sánh Hê-bơ-rơ 10:3).
             (6) Ðược sự cứu chuộc trọn vẹn (Ma-thi-ơ 26:27-28; I Cô-rinh-tô 11:25; Hê-bơ-rơ 9:11, 12, 18-23).
             (7) Khiến cho dân Y-sơ-ra-ên được vĩnh cửu, sẽ trở lại cùng Chúa trong đời tương lai và được phước hạnh (Giê-rê-mi 31:31-40; cũng xem II Sa-mu-ên 7:8-17). Giao Ước Mới là giao ước thứ tám, vậy nó chỉ bóng về sự sống lại và sự hoàn toàn đời đời.
       Tám giao ước tóm tắt lại như sau:
       (1) Giao ước vườn Ê-đen (Sáng thế ký 1:26-28), Sắp đặt sự sanh hoạt của loài người khi chưa phạm tội.
             (2) Giao ước với A-đam (Sáng thế ký 3:14-19) sắp đặt sự sanh hoạt của loài người sau khi đã phạm tội, cũng hứa sẽ có một Ðấng cứu chuộc.
             (3) Giao ước với Nô-ê (Sáng thế ký 9:1) lập quyền quản trị của loài người.
             (4) Giao ước với Áp-ra-ham (Sáng thế ký 15:18) lập nước Y-sơ-ra-ên, và xác định, cũng thêm ý vào lời hứa về sự cứu chuộc đã phán truyền cho A-đam.
             (5) Giao ước với Môi-se (Xuất Ê-díp-tô ký 19:25) lên án cho mọi người, "vì mọi người đều đã phạm tội".
             (6) Giao ước Pha-lê-tin (Phục truyền luật lệ ký 28:-30:) hứa rằng dân Y-sơ-ra-ên sẽ được về đất nước mình và trở lại cùng Chúa.
             (7) Giao ước với Ða-vít (II Sa-mu-ên 7:8-17) xác chứng rằng gia tộc Ða-vít sẽ vĩnh cửu (được ứng nghiệm trong Ðấng Christ Ma-thi-ơ 1:1; Lu-ca 1:31-33; Rô-ma 1:3), lại xác chứng rằng nhà Ða-vít sẽ cứ cai trị dân Y-sơ-ra-ên và cả thế gian mãi mãi; ấy sẽ được ứng nghiệm trong Ðấng Christ và bởi Ðấng Christ (II Sa-mu-ên 7:8-17; Xa-cha-ri 12:8; Lu-ca 1:31-33; Công vụ các sứ đồ 15:14-17; I Cô-rinh-tô 15:24).
             (8) Giao ước Mới, đã thành lập trên việc Ðấng Christ dâng mình làm của lễ, và đảm bảo cho mọi người tin được hạnh phước đời đời dưới giao ước Áp-ra-ham (Ga-la-ti 3:13-29). Giao ước nầy không bắt buộc điều kiện gì cả, lại là chung kết và không thể thay đổi, vì Chúa không gán trách nhiệm nào cho loài người.
       Sự quan hệ của Ðấng Christ với tám giao ước là như sau nầy:
             (1) Ðối với giao ước Ê-đen, Ðấng Christ theo tư cách "Người thứ hai" và "A-đam sau hết" (I Cô-rinh-tô 15:45-47), nên chiếm địa vị đứng đầu muôn vật mà A-đam thứ nhứt đã mất (Cô-lô-se 2:10; Hê-bơ-rơ 2:7-8).
             (2) Ngài là "Dòng dõi người nữ" theo giao ước A-đam (Sáng thế ký 3:15; Giăng 12:31; I Giăng 3:8; Ga-la-ti 4:4; Khải Huyền 20:10), và làm trọn các điều kiện, bắt làm công việc khó nhọc (Mác 6:3) và bắt vâng phục.
             (3) Vì Ngài là con cháu có danh tiếng hơn hết của Sem, nên lời hứa cho Sem theo như giao ước Nô-ê đã được ứng nghiệm một cách tuyệt đích trong Ngài (Sáng thế ký 9:1; Cô-lô-se 2:9)
             (4) Ngài là "Người dòng dõi đến,là người mà lời hứa đã hứa cho" theo giao ước Áp-ra-ham, Ngài là Con Trai của Áp-ra-ham, đã vâng phục cho đến chết (Sáng thế ký 22:18; Ga-la-ti 3:16; Phi-líp 2:8).
             (5) Ngài sống một đời vô tội dưới giao ước Môi-se, và chịu sự rủa sả của giao ước ấy thay cho chúng ta (Ga-la-ti 3:10-13).
             (6) Ngài sống một đời vâng phục, như một người Do-thái ở dưới giao ước Pha-lê-tin. Ngài cũng sẽ làm trọn các lới hứa ban phước theo giao ước ấy (Phục truyền luật lệ ký 28:-30:1-9).
             (7) Ngài là "Dòng dõi" "kẻ kế tự" và "Vua" theo giao ước Ða-vít (Ma-thi-ơ 1:1; Lu-ca 1:31-33).  (8) Của lễ Ngài dâng là nền tảng của giao ước mới (Ma-thi-ơ 26:28, I Cô-rinh-tô 11:25).
       12. Luận về Ðấng Christ bị đóng đinh trên thập tự giá đã thử nghiệm người đời (Lu-ca 23-35).-- Ðức Chúa Jêsus bị đóng đinh ở trên Thập tự giá là hòn đá thử nghiệm bày tỏ thế giới là thể nào -- "Dân chúng đứng đó mà ngó" một cách hững hờ ngu ngốc, các nhà cầm quyền "nhạo cười": họ muốn có tôn giáo nhưng lại không chịu có một Ðấng Christ, là Ðức Chúa Trời; bị đóng đinh vì cớ tội lỗi của họ; những kẻ hung ác trong vòng họ thì giỡn cợt; kẻ cảm biết mình có tội lỗi thì cầu nguyện; kẻ tham lam ngồi xuống trước cây thập tự và bắt thăm một cách bần tiện. Thập tự giá là "sự phán xét thế gian nầy" (Giăng 12:31).
       13. Luận về thần tánh của Ðấng Christ (Thi Thiên 110:1; Giăng 20:28).-- Sự hệ trọng của Thi Thiên 110 đã được chứng tỏ bởi địa vị chủ yếu của Thi Thiên đó trong Kinh Thánh Tân Ước.
             (1) Thi Thiên nầy quả quyết rằng Ðức Chúa Jêsus có thần tánh và bởi đó đáp lại những kẻ chối bỏ ý nghĩa đầy đủ của phẩm tước Ngài trong Tân Ước tức là "Chúa" (câu 1; Ma-thi-ơ 22:41-45; Mác 12:35-37 -- Lu-ca 20:41-44; Công vụ các sứ đồ 2:34-35; Hê-bơ-rơ 1:13; 10:12-13).
             (2) Thi Thiên nầy báo cáo chức Thầy Tế lễ đời đời của Ðấng Mê-si, đó là một lời tuyên bố trọng nhứt của Kinh Thánh (câu 4; Sáng thế ký 14:18; Hê-bơ-rơ 5:6; 7:1-28; I Ti-mô-thê 2:5-6; Giăng 14:6).
             (3) Theo phương diện lịch sử Thi Thiên nầy thoạt đầu nói đến sự thăng thiên của Ðức Chúa Jêsus Christ (câu 1; Giăng 20:17; Công vụ các sứ đồ 7:56; Khải Huyền 3:21);
             (4) Theo phương diện tiên tri, Thi Thiên nầy luận trước về:
                   a) Thời kỳ Ðấng Christ hiện ra như Cái Roi của Sức lực Ðức Giê-hô-va, như Ðấng giải cứu đến từ Si-ôn (Rô-ma 11:25-27) và như Ðấng làm cho Y-sơ-ra-ên hối cải (câu 3; Giô-ên 2:27; Xa-cha-ri 13:9; xem Phục truyền luật lệ ký 30:1-9).
                   b) Sự phán xét của các nước ngoại bang trước khi lập nước (câu 5-6; Giô-ên 3:9-17; Xa-cha-ri 14:1-4; Khải Huyền 19:11-21).
       Thần tánh của Ðức Chúa Jêsus Christ được bày tỏ trong Kinh Thánh:
             (1) Bởi những lời ngụ ý và nói tiên tri rõ ràng trong Cựu Ước.
                   a) Những nhà tin rằng Ðức Chúa Trời có hiện ra thì ngụ ý nói rằng Ðức Chúa Trời bằng hình người và bởi đó thi hành chức vụ đối với loài người (Sáng thế ký 16:7-13; 18:2-23; nhứt là câu 17; 32; 28; Ô-sê 12:3-5; Xuất Ê-díp-tô ký 3:2-14).
                   b) Có lời tuyên bố rõ ràng rằng Ðấng Mê-si là con Ðức Chúa Trời (Thi Thiên 2:2-9), là Ðức Chúa Trời (Thi Thiên 45:6-7 với Hê-bơ-rơ 1:8-9; Thi Thiên 110:1 với Ma-thi-ơ 22:44; Công-vụ các sứ-đồ 2:34 và Hê-bơ-rơ 1:13; Thi Thiên 110:4 với Hê-bơ-rơ 5:6; 6:20; 7:17-21; Xa-cha-ri 6:13).
                   c) Có dự ngôn rằng sự sanh ra bởi nữ đồng trinh là phương pháp để Ðức Chúa Trời có thể làm "Em-ma-nu-ên" nghĩa là Ðức Chúa Trời ở cùng chúng ta (Ê-sai 7:13-14 với Ma-thi-ơ 1:22-23).
                   d) Ðấng Mê-si rõ ràng có các danh hiệu của Ðức Chúa Trời (Ê-sai 9:6-7).
                   đ) Trong một lời tiên tri về sự chết của Ngài, Ngài được xưng là "Bạn hữu của Ðức Giê-hô-va" (Xa-cha-ri 13:7 với Ma-thi-ơ 26:31).
                   e) Có lời tuyên bố rằng Ngài hằng có đời đời (Mi-chê 5:2 với Ma-thi-ơ 2:6; Giăng 7:42).
             (2) Chính Ðấng Christ cũng chứng quyết thần tánh của Ngài:
                   a) Ngài ứng dụng cho mình danh hiệuTự HữU HằNG HữUcủa Ðức Giê-hô-va (Giăng 8:24, 56-58 -- theo nguyên văn những chữ "Ta là Ðấng đó và Ðã có Ta" là " Tự HữU HằNG HữU ", cho nên người Do-thái hiểu rõ Ðấng Christ quả quyết Ngài hoàn toàn là Ðức Chúa Trời. Cũng xem (Giăng 10:33; 18:4-6).
                   b) Ngài tự nhận là Chúa trong Cựu Ước (Ma-thi-ơ 22:42-45; xem Sáng thế ký 15:2).
                   c) Ngài tuyên bố rằng Ngài là một với Ðức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 28:19; Mác 14:62; Giăng 10:30 câu 31-32 tỏ ra rằng dân Do-thái hiểu Ngài tuyên bố như thế; Giăng 14:8-9; 17:5).
                   d) Ngài thi hành cái đặc quyền tối cao của Ðức Chúa Trời (Mác 2:5-7; Lu-ca 7:48-50).
                   đ) Ngài tuyên bố mình là Ðấng vô sở bất tại (Ma-thi-ơ 18:20; Giăng 3:13); vô sở bất tri (Giăng 11:11-14, khi ấy Ðức Chúa Jêsus ở cách xa mười lăm dặm; Mác 11:6-8); vô sở bất năng (Ma-thi-ơ 28:18; Lu-ca 7:14; Giăng 5:21-23; 6:19); cầm quyền trong cõi thiên nhiên và có quyền phép để sáng tạo (Lu-ca 9:16-17; Giăng 2:9; 10:28).
                   e) Ngài chịu để người ta thờ lạy mình (Ma-thi-ơ 14:33; 28:9; Giăng 20:28-29).
             (3) Các tác giả Tân Ước dùng các phẩm tước của Ðức Chúa Trời để chỉ về Ðấng Christ (Giăng 1:1; 20:28; Công vụ các sứ đồ 20:28; Rô-ma 1:4; 9:5; II Tê-sa-lô-ni-ca 1:12; I Ti-mô-thê 3:16; Tít 2:13; Hê-bơ-rơ 1:8; I Giăng 5:20).
             (4) Các tác giả Tân Ước kể rằng Ðấng Christ có những sự toàn vẹn và những đặc tánh của Ðức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 11:28; 18:20; 28:20; Giăng 1:2; 2:23-25; 3:13; 5:17; 21:17; Hê-bơ-rơ 1:3, 11, 12; 13:8; Khải Huyền 1:8, 17, 18; 2:23; 11:17; 22:13).
             (5) Các tác giả Tân Ước kể rằng Ðấng Christ làm những công việc của Ðức Chúa Trời (Giăng 1:3, 10; Cô-lô-se 1:16-17; Hê-bơ-rơ 1:3).
             (6) Các tác giả Tân Ước dạy rằng phải hết lòng, hết ý thờ phượng Ðấng Christ (Công vụ các sứ đồ 7:59-60; I Cô-rinh-tô 1:2; II Cô-rinh-tô 13:14; Phi-líp 2:9-10; Hê-bơ-rơ 1:6; Khải Huyền 1:5; 6:12-13).
             (7) Sự thánh khiết và sự sống lại của Ðấng Christ làm chứng rằng Ngài là Ðức Chúa Trời (Giăng 8:46; Rô-ma 1:4).
       14. Luận về Mên-chi-xê-đéc làm hình bóng về chức Thầy Tế lễ Thượng phẩm của Ðấng Christ.
       Sáng thế ký 14:18.-- Mên-chi-xê-đéc làm hình bóng về Ðấng Christ, là Vua và Thầy Tế lễ (Hê-bơ-rơ 7:). Hình bóng nầy cũng chỉ về công việc tế lễ của Ðấng Christ sau khi Ngài sống lại rồi, vì Mên-chi-xê-đéc chỉ đem tặng bánh và rượu, là vật kỷ niệm cuộc tế lễ. "Theo ban Mên-chi-xê-đéc" (Hê-bơ-rơ 6:20) thì có ý chỉ về quyền đế vương và sự lâu dài vô cùng của chức Thầy Tế lễ Thượng phẩm của Ðấng Christ (Hê-bơ-rơ 7:23-24). Chức tế lễ theo ban A-rôn thường phải ngừng lại vì cớ sự chết. Ðấng Christ là Thầy Tế lễ theo ban Mên-chi-xê-đéc ấy nghĩa là Vua Công bình, Vua bình an (Ê-sai 11:4-9; Hê-bơ-rơ 7:2), và chức Thầy Tế lễ của Ngài vô cùng tận. Còn ban tế lễ A-rôn thì làm hình bóng về công việc của Ðấng Christ theo chức Thầy Tế lễ.
       Hê-bơ-rơ 5:6.-- Mên-chi-xê-đéc là một hình bóng xứng hiệp về Ðấng Christ làm Thầy Tế lễ Thượng phẩm, vì:
             (1) Ông vừa làm thầy tế lễ, vừa làm vua (Sáng thế ký 14:18 với Xa-cha-ri 6:12-13).
             (2) Tên ông nghĩa là: "Vua của tôi là công bình" (xem Ê-sai 11:5), và ông làm vua ở Sa-lem nghĩa là: "Bình an" (xem Ê-sai 11:6-9); không có chép về ngày ông sanh ra (Giăng 1:1), hoặc ngày ông qua đời (Rô-ma 6:9; Hê-bơ-rơ 7:23-25).
             (3) Ông cũng chẳng do loài người lập lên làm thầy tế lễ thượng phẩm (Thi Thiên 110:4). Nhưng sự khác nhau giữa chức tế lễ của Mên-chi-xê-đéc và chức tế lễ của A-rôn chỉ là khác về người, ban (hoặc sự phong chức), và kỳ hạn. Trong công việc thì Ðấng Christ theo khuôn mẫu của A-rôn, A-rôn là hình bóng còn Ðấng Christ là thực trạng (Hê-bơ-rơ 8:1-6; 9:1-28).
       15. Luận về Ðấng Christ được phong làm vua.--
       Ða-ni-ên 7:13.-- cảnh tượng nầy giống như cảnh tượng ở Khải Huyền 5:6-10. Ở các sách Khải Huyền, lời chúc tụng của "các vua và các thầy tế lễ" (xem Khải Huyền 5:10) cuối cùng có mấy chữ: "những người ấy sẽ trị vì trên mặt đất". Ðoạn 6 sách Khải Huyền mở đường cho sự "khuấy khỏa" ở Thi Thiên 2:5, sự khuấy khỏa ấy sẽ dẫn đến sự lập Vua trên núi Si-ôn (Thi Thiên 2:6; Khải Huyền 20:4). Sự hiện thấy (Ða-ni-ên 7:9-14) đảo ngược thứ tự các biến động khi sẽ được ứng nghiệm. Câu 13 mô tả cảnh tượng ở trên trời(xem Khải Huyền 5:6-10). Khi được ứng nghiệm cảnh tượng ở trên trời sẽ đi trước các biến động mà Ða-ni-ên thấy ở câu 9-12. Thứ tự theo lịch sử sẽ là:
             (1) Con Người thụ phong cai trị nước (Ða-ni-ên 7:13-14; Khải Huyền 5:6-10).
             (2) Sự "khuấy khỏa" ở Thi Thiên 2:5 mà Ma-thi-ơ 24:21-22 và Khải Huyền 6:-18: đã mô tả một cách đầy đủ.
             (3) Con người tái lâm vinh hiển để "đập vỡ" như Ða-ni-ên 2:45 đã chép (Ða-ni-ên 7:9-11; Khải Huyền 19:11-21).
             (4) Sự phán xét các nước và lập nước của Ðấng Christ (Ða-ni-ên 7:10, 26, 27; Ma-thi-ơ 25:31-46; Khải Huyền 20:1-6).
       Khải Huyền 5:7.-- Sự hiện thấy ở đây giống như sự hiện thấy ở Ða-ni-ên 7:13-14. Duy sách Khải Huyền có thêm điều mà Ða-ni-ên không biết, tức là các vua và các thầy tế lễ trong Hội Thánh sẽ được chung quyền với "Con Người", tức là "Chiên Con đã bị giết", khi Ngài "trị vì trên mặt đất" (Khải Huyền 5:9-10)
       16. Luận về Ðấng Christ là Ðấng Cứu chuộc thuộc trong thân tộc (Ê-sai 59:20).-- Theo nguyên văn Hê-bơ-rơ , chữ "Ðấng Cứu chuộc" là gaal, nghĩa là "người đứng chuộc thuộc trong thân tộc". Thật là một hình bóng tuyệt hay về Ðấng Christ.
             (1) Người trong thân tộc phải chuộc lại người và sản nghiệp (Lê-vi ký 25:25, 48).
             (2) Ðấng Cứu chuộc phải là một người trong thân tộc (Lê-vi ký 25:48-49; Ru-tơ 3:12-13; Ga-la-ti 4:4; Hê-bơ-rơ 2:14-15).
             (3) Ðấng Cứu chuộc phải đủ tài sức để cứu chuộc (Ru-tơ 4:4-6; Giê-rê-mi 50:34; Giăng 10:11, 18).
             (4) Sự chuộc lại là do người trong thân tộc trả hết giá theo lẽ công bình (Lê-vi ký 25:27; I Phi-e-rơ 1:18-19; Ga-la-ti 3:13; xem Xuất Ê-díp-tô ký 14:30; Rô-ma 3:24).
       17. Luận về Ðấng Christ là Ngôi Lời (Giăng 1:1).-- Ngôi lời theo nguyên văn Hy-lạp là Logos. Logos nghĩa là:
             (1) Một ý tưởng hoặc một khái niệm;
             (2) Sự bày tỏ hoặc phát huy cái ý tưởng đó. Vậy, chữ Logos chỉ về Ðấng Christ thì có ý nghĩa phước hạnh đặc biệt, vì:
                   a) "Trong Ngài đã giấu kín mọi sự quí báu về khôn ngoan, thông sáng" của Ðức Chúa Trời (I Cô-rinh-tô 1:24; Ê-phê-sô 3:11; Cô-lô-se 2:2-3); và
                   b) Từ đời đời, nhưng nhứt là khi Ngài đã thành nhục thể, Ngài bày tỏ hoặc phát huy Thân vị của Ðức Chúa Trời và là "ý tưởng" của Ðức Chúa Trời (Giăng 1:3-5, 9, 14-18; 14:9-11; Cô-lô-se 2:9). Ðức Chúa Trời được bày tỏ bởi thân vị, tư cách và công việc của Ðấng Christ.
       18. Luận về Ðấng Christ đối với Kinh Thánh Tân Ước (Giăng 16:12).-- Tại đây Ðấng Christ nhận trước rằng Tân Ước là chơn chánh:
       (1) Ngài tuyên bố tỏ tường rằng có "nhiều chuyện" mà Ngài chưa bày tỏ (câu 12).
       (2) Ngài hứa rằng sự khải thị nầy sẽ được đầy đủ ("mọi lẽ thật") sau khi Ðức Thánh Linh đến, và sự khải thị thêm đó sẽ bao gồm những lời tiên tri mới (câu 13).
       (3) Ngài chọn một số người để nhận và làm chứng về những sự khải thị thêm đó (Ma-thi-ơ 28:19; Giăng 15:27; 16:13; Công vụ các sứ đồ 1:8; 9:15-17).
       (4) Khi những người ấy vì Ngài mà nói bởi Ðức Thánh Linh, thì Ngài ban cho lời của họ cũng có quyền phép như lời của Ngài vậy (Ma-thi-ơ 10:14-15; Lu-ca 10:16; Giăng 13:20; xem I Cô-rinh-tô 14:37).
       19. Luận về Ðấng Christ hiện nay đương ngự trên ngôi của Cha Ngài (Khải Huyền 3:21).-- Câu nầy tương hiệp với Lu-ca 1:32-33; Ma-thi-ơ 19:28; Công vụ các sứ đồ 2:30, 34, 35; 15:14-16. Câu nầy quả quyết rằng Ðấng Christ hiện nay không ngự trên chính ngôi Ngài. Giao ước Ða-vít cùng những lời mà Ðức Chúa Trời hứa về nước của Ðấng Mê-si (hứa bởi miệng các Ðấng tiên tri và thiên sứ Gáp-ri-ên) đều chưa được ứng nghiệm.
       20. Luận về lòng yêu thương của Ðấng Christ đối với Hội Thánh (Ê-phê-sô 5:25).-- Vì lòng yêu thương, Ðấng Christ làm việc cho Hội Thánh theo ba thời kỳ: quá khứ, hiện tại và tương lai.
             (1) Vì cớ yêu thương Ngài phó mình để cứu chuộc Hội Thánh (câu 25).
             (2) Vì cớ yêu thương Ngài đương khiến Hội Thánh nên thánh (câu 26).
             (3) Như để thưởng cho sự hy sinh và công việc yêu thương của Ngài, Ngài sẽ hiến Hội Thánh cho chính mình Ngài, trọn vẹn, không vết, tức là "một hạt châu quí giá" (câu 27; Ma-thi-ơ 13:46).
       21. Luận về sự quan hệ của Ðấng Christ với luật pháp của Môi-se (Ma-thi-ơ 5:17).-- Có thể tóm tắt sự quan hệ của Ðấng Christ với luật pháp Môi-se như sau nầy:
             (1) Ngài đã sanh ra dưới luật pháp (Ga-la-ti 4:4).
             (2) Ngài sống một đời hoàn toàn vâng phục luật pháp (Giăng 8:46; Ma-thi-ơ 17:5; I Phi-e-rơ 2:21-23).
             (3) Ngài là Ðấng giảng dạy luật pháp cho dân Do-thái; Ngài tẩy luật pháp sạch hết những lời ngụy biện của các thầy thông giáo và hết sức mạnh của luật pháp trong sự nghiêm nhặt chẳng chút thương xót đối với những kẻ tự nhận là vâng giữ luật pháp (Lu-ca 10:25-37); nhưng Ngài cũng làm cho vững chắc những lời hứa với các tổ phụ dưới giao ước Môi-se (Rô-ma 15:8).
             (4) Ngài làm ứng nghiệm các hình bóng của luật pháp bởi đời sống thánh khiết và sự chết hy sinh của Ngài (Hê-bơ-rơ 9:11-26).
             (5) Ngài thay loài người mà chịu sự rủa sả của luật pháp hầu cho mọi kẻ tin có thể hưởng phước do giao ước Áp-ra-ham (Ga-la-ti 3:13-14).
             (6) Bởi sự cứu chuộc của Ngài, Ngài đem mọi kẻ tin từ địa vị tôi tớ đến địa vị làm con (Ga-la-ti 4:1-7).
             (7) Bởi huyết của Ngài, Ngài là trung bảo cho Giao Ước Mới tức là giao ước vững chắc và ân điển, mọi kẻ tin đều thuộc trong giao ước đó (Rô-ma 5:2; Hê-bơ-rơ 8:6-13); như vậy Ngài thiết lập "luật pháp của Ðấng Christ" (Ga-la-ti 6:2) để nhờ Ðức Thánh Linh ngự trong tín đồ mà khiến họ có thể được tôn cao hơn.
       22. Luận về Ðấng Christ sống lại vì sự xưng công bình của chúng ta (Rô-ma 4:25).-- Ðấng Christ đã chết vì tội lỗi của chúng ta (I Phi-e-rơ 2:24; II Cô-rinh-tô 5:21) -- Ngài sống lại và được cất lên bên hữu Ðức Chúa Trời, "để bây giờ vì chúng ta hiện ra trước mặt Ðức Chúa Trời" (Hê-bơ-rơ 9:24), đó là bằng cớ rằng tội lỗi chúng ta đã được bôi xóa, công việc Ngài làm cho chúng ta được Ðức Chúa Trời ưng nhận và chúng ta nhờ Ngài chịu khổ vì mình mà được xưng công bình trọn vẹn.
       23. Luật tóm tắt về Ngài là Vầng Ðá.-
       Xuất Ê-díp-tô ký 17:6.-- Vầng đá là hình bóng về sự sống bởi ân điển và do Ðức Thánh Linh lưu ra:
             (1) Ðấng Christ là Vần Ðá (I Cô-rinh-tô 10:4).
             (2) Dân chúng hoàn toàn không xứng đáng gì (Xuất Ê-díp-tô ký 17:2; Ê-phê-sô 2:1-6).
             (3) Các đặc sắc của sự sống do ân điển:
                   a) Nhưng không (Giăng 4:10; Rô-ma 6:23; Ê-phê-sô 2:8).
                   b) Dự dật (Rô-ma 5:20; Thi Thiên 105:41; Giăng 3:1, 16).
                   c) Gần bên mình (Rô-ma 10:8).
                   d) Dân chúng chỉ phải nhận lấy (Ê-sai 55:1). Vầng đá bị đập chỉ về một phương diện của sự chết Ðấng Christ: phương diện của sự chết Ðấng Christ: phương diện nầy hướng về sự đổ tràn Ðức Thánh Linh xuống (sự đổ tràn Ðức Thánh Linh là hiệu quả của công việc cứu chuộc đã thành tựu), hơn là hướng về tội lỗi của chúng ta. Ðó là phương diện tích cực của Giăng 3:16 -- "Không bị hư mất" chỉ về huyết đền tội, "mà được chỉ về sự sống mà Chúa ban cho".
       I Phi-e-rơ 2:8.-- Ðấng Christ bị đóng đinh trên thập tự giá là Vầng Ðá:
             (1) Bị đánh, hầu cho Thánh Linh sự sống có thể từ Ngài lưu ra cho mọi người uống (Xuất Ê-díp-tô ký 17:6; I Cô-rinh-tô 10:4; Giăng 4:13-14; 7:37-39).
             (2) Cho Hội Thánh, Ngài là Nền và Ðá góc nhà (Ê-phê-sô 2:20).
             (3) Cho người Do-thái, Ngài là "Hòn Ðá ngăn trở" khi ngự đến lần thứ nhứt (Rô-ma 9:32-33; I Cô-rinh-tô 1:23).
             (4) Ðối với người Y-sơ-ra-ên, Ngài là "Ðá Chết" khi ngự đến lần thứ hai (Xa-cha-ri 4:7).
             (5) Ðối với quyền cai trị thế gian của dân ngoại, Ngài là "Hòn đá chẳng phải bởi tay đục ra" (Ða-ni-ên 2:34) đánh cho tan nát.
             (6) Theo mưu định của Ðức Chúa Trời, thì sau khi hủy phá quyền cai trị thế gian của dân ngoại, thì "Hòn đá chẳng phải bởi tay đục ra" phải to lớn lên và "đầy khắp đất" (Ða-ni-ên 2:34-35).
             (7) Ðối với kẻ chẳng tin là Hòn Ðá đoán xét nghiền nát (Ma-thi-ơ 21:44).
       24. Luận tiên tri về sự tái lâm của Ðấng Christ (Xa-cha-ri 12:1).-- Sách Xa-cha-ri, đoạn 12 đến đoạn 14, họp thành một lời tiên tri tổng đề mục là: "Chúa tái lâm và lập nước". Thứ tự là:
             (1) Vây thành Giê-ru-sa-lem trước khi đánh trận Ha-ma-ghê-đôn (câu 1-3).
             (2) Chính trận Ha-ma-ghê-đôn (câu 4-9).
             (3) "Kỳ mưa cuối mùa" (Xa-cha-ri 10:1), tức là Ðức Thánh Linh đổ xuống, và chính Ðấng Christ tỏ mình ra cho nhà Ða-vít và dân sót lại của Giê-ru-sa-lem, chẳng những như Ðấng Giải cứu vinh hiển, như cũng như Ðấng mà Y-sơ-ra-ên đã đâm và chối bỏ lâu lắm (câu 10).
             (4) Sự buồn rầu theo ý Ðức Chúa Trời nối liền với sự Ðấng Christ tỏ mình đó (câu 11-14).
             (5) Suối tẩy sạch bấy giờ thật "mở ra" cho dân Y-sơ-ra-ên (Xa-cha-ri 13:1).
       25. Luận tóm tắt về của tế lễ của Ðấng Christ (Hê-bơ-rơ 10:18).--
             (1) Ðoạn đầu tiên luận về của tế lễ là Sáng thế ký 3:21, "áo dài bằng da" chắc do những con thú bị giết mà có. Thí dụ rõ ràng thứ nhứt về của tế lễ ở Sáng thế ký 4:4, có Hê-bơ-rơ 11:4 cắt nghĩa. Sự công bình của A-bên là kết quả do của tế lễ ông dâng, chớ không do tâm tánh ông đâu.
             (2) Trước khi ban bố luật pháp, thì người gia trưởng là thầy tế lễ của gia tộc. Bởi luật pháp, một ban thầy tế lễ được thiết lập để riêng được quyền dâng của tế lễ. Những của tế lễ ấy là hình bóng bày tỏ tội phạm và sự cần dùng của kẻ dâng của tế lễ, đối với Ðức Chúa Trời; các của tế lễ ấy đều chỉ về Ðấng Christ và được ứng nghiệm trong Ngài.
             (3) Theo như các hình bóng và sự giải nghĩa của Tân Ước, thì của tế lễ Ðấng Christ cốt là phạt tội (Ga-la-ti 3:13; II Cô-rinh-tô 5:21); thay thế (Lê-vi ký 1:4; Ê-sai 53:5-6; II Cô-rinh-tô 5:21; I Phi-e-rơ 2:24); tình nguyện (Sáng thế ký 22:9; Giăng 10:18); cứu chuộc (Ga-la-ti 3:13; Ê-phê-sô 1:7; I Cô-rinh-tô 6:20); đền tội (Rô-ma 3:25); phục hòa (II Cô-rinh-tô 5:18-19; Cô-lô-se 1:21-22); linh nghiệm (Giăng 12:32-33; Rô-ma 5:9-10; II Cô-rinh-tô 5:21; Ê-phê-sô 2:13; Hê-bơ-rơ 9:11, 12, 26; 10:10-17; I Giăng 1:7; Khải Huyền 1:5); và Khải thị (Giăng 3:16; I Giăng 4:9-10).
       26. Luận về Ðấng Christ làm công việc của Ðấng chăn chiên (Giăng 10:7).-- Công việc chăn chiên của Chúa có ba phương diện:
             (1) Là "Người chăn hiền lành", phó sự sống mình vì chiên (Giăng 10:11), và bởi đó Ngài là "cửa" nếu ai do đó "mà vào, thì sẽ được cứu rỗi" (Giăng 10:9). Sự nầy xứng hiệp với Thi Thiên 22.
             (2) Ngài là "Ðấng chăn chiên lớn ra khỏi từ kẻ chết" (Hê-bơ-rơ 13:20), để chăn nuôi chiên và làm cho chiên nên trọn vẹn. Sự nầy xứng hiệp với Thi Thiên 23.
             (3) Ngài là "Ðấng làm đầu các kẻ chăn chiên" sẽ tái lâm vinh hiển để thưởng mão miện cho những người chăn chiên trung tín (I Phi-e-rơ 5:4). Sự nầy xứng hiệp với Thi Thiên 24.
       27. Luận về Ðấng Christ là Con Người (Ma-thi-ơ 8:20).-- Chúa dùng danh hiệu nầy để chỉ về Ngài chừng 80 lần, ấy là danh hiệu của Ngài theo tư cách đại biểu của loài người, đúng như ý nghĩa của I Cô-rinh-tô 15:45-47. Ấy cũng như "Con Ða-vít" là danh hiệu của Ngài theo tư cách người Do-thái, và "Con Ðức Chúa Trời" là danh hiệu của Ngài theo thần tánh. Chúa chúng ta luôn luôn dùng danh hiệu "Con người" để tỏ ra rằng chức vụ Ngài (Ma-thi-ơ 11:19; Lu-ca 19:10), sự chết và sự sống lại của Ngài (Ma-thi-ơ 12:40; 20:18; 26:2), và sự tái lâm của Ngài (Ma-thi-ơ 24:37-44; Lu-ca 12:40), có phạm vi và kết quả vượt quá giới hạn của dân Do-thái. Cũng trong danh hiệu ấy mà sự xét đoán thế gian đã giao cho Ngài (Giăng 5:22, 27). Danh hiệu ấy cũng tỏ ra Ngài làm ứng nghiệm những lời tiên tri Cựu Ước nói về ơn phước do một Người sẽ đến (Sáng thế ký 1:26; 3:15; 12:3; Thi Thiên 8:4; 80:17; Ê-sai 7:14; 9:6-7; 32:2; Xa-cha-ri 13:7).
       28. Luận về Ðấng Christ là Hòn Ðá (Ma-thi-ơ 21:44).-- Ðấng Christ được tỏ ra là Hòn Ðá theo ba phương diện:
             (1) Ðối với dân Y-sơ-ra-ên, Ðấng Christ là "hòn đá vấp ngã, vầng đá vướng mắc", vì Ngài không hiện đến như một vua oai nghi, nhưng như một tôi tớ (Ê-sai 8:14-15; Rô-ma 9:32-33; I Cô-rinh-tô 1:23; I Phi-e-rơ 2:8).
             (2) Ðối với Hội Thánh, Ðấng Christ là Ðá nền tảng, là Ðá góc nhà (I Cô-rinh-tô 3:11; Ê-phê-sô 2:20-22; I Phi-e-rơ 2:4-5).
             (3) Ðối với các thế lực dân ngoại trên thế giới, Ngài là hòn đá đập phá và hủy diệt (Ða-ni-ên 2:34). Dân Y-sơ-ra-ên vấp ngã phải Ðấng Christ; Hội Thánh được xây dựng trên Ðấng Christ; các thế lực của dân ngoại sẽ bị hủy phá tan tành bởi Ðấng Christ.
       29. Luận về Ðấng Christ bị cám dỗ (Ma-thi-ơ 4:1).-- Ta có thể hiểu sự cám dỗ Ðấng Christ là "A-đam sau hết" (I Cô-rinh-tô 15-45), một cách rõ ràng hơn nếu đem so sánh với sự cám dỗ "người thứ nhứt là A-đam". A-đam bị cám dỗ trong địa vị làm chủ muôn vật, địa vị ấy chỉ có một sự hạn chế là biết điều thiện và điều ác (Sáng thế ký 1:26; 2:16-17). Do người nữ A-đam bị cám dỗ muốn thêm sự biết đó vào quyền quản trị của mình. Vì sa ngã, nên A-đam mất hết mọi sự nhưng Ðấng Christ đã đứng vào địa vị một Tôi tớ hèn hạ, chỉ hành động theo lòng phục tùng Cha (Phi-líp 2:5-8; Giăng 5:19; 6:57; 8:28, 54), hầu cho Ngài có thể cứu chuộc nhơn loại sa ngã và vũ trụ bị rủa sả (Sáng thế ký 3:17-19; Rô-ma 8:19-23). Mục đích duy nhứt của Sa-tan trong ba lần cám dỗ Ðấng Christ, ấy là dụ Ngài hành động theo ý riêng chớ không theo ý Cha Ngài. Hai sự cám dỗ đầu là chúa đời nầy thách đố Ðấng Christ tỏ ra Ngài thật là Con Ðức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 4:3, 6). Sự cám dỗ thứ ba là kẻ đã cướp quyền cai trị thế gian nầy tỏ ý nhường quyền ấy cho Ðấng Christ (quyền ấy vốn thật thuộc về Ðấng Christ theo tư cách Con người Ða-vít) miễn là Ngài nhận lấy quyền bính theo nguyên tắc thế gian của Sa-tan (xem Giăng 18:36; Khải Huyền 13:8). Ðấng Christ thắng Sa-tan bởi một phương pháp mà môn đồ hèn hạ hơn hết của Ngài cũng dùng được: ấy là khéo dùng lời của Ðức Chúa Trời (câu 4-7). Trong sự cám dỗ thứ hai, Sa-tan cũng dùng Kinh Thánh, nhưng câu Kinh Thánh ấy lại là một lời hứa chỉ có giá trị cho kẻ nào đi đường vâng phục.
       30. Luận về mối quan hệ của Ðấng Christ với các dân ngoại (Ê-sai 42:6).-- Các Ðấng tiên tri tỏ ra có ba mối quan hệ giữa các dân ngoại và Ðấng Christ.
             (1) Là Sự Sáng, Ngài đem sự cứu rỗi cho các dân ngoại (Lu-ca 2:32; Công vụ các sứ đồ 13:47-48).
             (2) Là "Rễ Y-sai", Ngài sẽ cai trị các dân ngoại trong nước Ngài (Ê-sai 11:10; Rô-ma 15:12), Ngài cứu các dân ngoại đó là đặc điểm của thời kỳ hiện tại (Rô-ma 11:17-24; Ê-phê-sô 2:11-12). Ngài sẽ cai trị các dân ngoại trong thời kỳ lập nước, tức là sau thời kỳ hiện tại.
             (3) Những người ngoại bang có đức tin trong thời kỳ hiện tại sẽ cùng với những người Do-thái có đức tin họp thành "Hội Thánh là thân thể của Ðấng Christ" (Ê-phê-sô 1:23; Xem Ê-phê-sô 3:6).
       31. Luận về ý nghĩa của danh hiệu Ðấng Christ (Ma-thi-ơ 1:16).-- Christ do chữ Hy-lạp "Christos", nghĩa là chịu xức dầu. "Christos" là dịch chữ Hê-bơ-rơ "Ðấng Mê-si" (Ða-ni-ên 9:25-26). Christ là danh hiệu chánh thức của Chúa, cũng như Jêsus là danh hiệu nhơn tánh của Ngài (Lu-ca 1:31; 2:21). Danh hiệu hoặc phẩm tước "Christ" liên lạc Ngài với mọi lời tiên tri trong Cựu Ước về một Tiên tri (Phục truyền luật lệ ký 18:15-19; Xa-cha-ri 12:8), Thầy Tế lễ (Thi Thiên 110:4) và Vua (II Sa-mu-ên 7:7-10). Như ba chức nầy đều chịu xức dầu (I Các vua 19:16; Xuất Ê-díp-tô ký 29:7; I Sa-mu-ên 16:13) cũng vậy, Ðức Chúa Jêsus chịu xức dầu bằng Ðức Thánh Linh (Ma-thi-ơ 3:16; Mác 1:10-11; Lu-ca 3:21-22; Giăng 1:32-33), và bởi đó chính thức trở nên "Ðấng Christ".
       32. Luận về Ðấng Christ hóa hình (Ma-thi-ơ 17:2).-- Cảnh tượng hóa hình là mọi phần tử được tỏ ra của nước tương lai thu nhỏ lại:
             (1) Chúa không hèn hạ, nhưng vinh hiển (câu 2).
             (2) Môi-se được vinh hiển, làm đại biểu cho những người được cứu chuộc đã trải qua sự chết mà vào nước Chúa (Ma-thi-ơ 13:43; Xem Lu-ca 9:30-31).
             (3) Ê-li được vinh hiển, làm đại biểu cho những người được cứu chuộc đã biến hóa mà vào nước Chúa (I Cô-rinh-tô 15:50-53; I Tê-sa-lô-ni-ca 4:14-17).
             (4) Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng không được biến hóa, làm đại biểu (lúc đó thôi) cho dân Y-sơ-ra-ên còn trong xác thịt sẽ ở trong nước tương lai (Ê-xê-chi-ên 37:21-27).
             (5) Ðám đông ở dưới chơn núi (câu 14) làm đại biểu cho các nước sẽ được nhập nước Chúa sau khi nước ấy đã lập với dân Y-sơ-ra-ên (Ê-sai 11:10-12, v.v.).

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.