Là con thứ hai trong 3 con của Lê-vi (Sáng thế ký 46:11), là tổ thầy tế lễ của A-rôn (Xuất Ê-díp-tô ký 6:16-20). Về tiểu sử của Kê-hát, không chép gì, trừ ra nói người xuống xứ Ai-cập với Lê-vi và Gia-cốp (Sáng thế ký 46:11), chị em là Giô-kê-bết (Xuất Ê-díp-tô ký 6:20), và hưởng thọ 113 tuổi (Xuất Ê-díp-tô ký 6:18). Kê-hát là tổ phụ của các thầy tế lễ Y-sơ-ra-ên.
Khi người Y-sơ-ra-ên ở đồng vắng, họ Kê-hát đóng trại ở phía Nam hội mạc, canh giữ hòm giao ước và những vật thánh. Khi đi trận, họ khiêng những vật thánh (Dân số ký 3:19-32; 4:4-15). Sau khi vào Ca-na-an, họ Kê-hát được chia làm 23 thành (Giô-suê 21:4; 23-26). Ðời vua Ða-vít, họ Kê-hát coi việc hát xướng trong đền thờ (I Sử ký 6:61-70; 15:5-10). Khi vua Giô-sa-phát chiến tranh ở Ên-ghê-đi, họ Kê-hát cất tiếng ngợi khen Chúa (II Sử ký 20:19). Ðời vua Ê-xê-chia, họ Kê-hát giúp việc làm sạch Ðền thờ Chúa (II Sử ký 29:12).