Nó vốn là chỗ của người Ga-ba-ôn ở (Giô-suê 9:17; 15:9, 10, 60), và thuộc về chi phái Giu-đa ở về biên giới Bên-gia-min (Giô-suê 18:14), cách thành Giê-ru-sa-lem hơn 16 cây số. Hòm giao ước của Chúa để tại thành nầy 20 năm cho tới tận ngày vua Ða-vít rước về Giê-ru-sa-lem (I Sa-mu-ên 6:19-7:2; II Sa-mu-ên 6:2). Có vài người trong vòng dân bị bắt làm phu tù sau trở về (Nê-hê-mi 7:29); và trong E-xơ-ra 2:25 gọi là Ki-ri-át A-rim. Trong Giô-suê 15:60; 18:14, gọi là Ki-ri-át Ba-anh; 15:9, 11 gọi là Ba-la trong II Sa-mu-ên 6:2 gọi là Ba-lê, trong I Sử ký 13:6, Ba-a-la.
Ki-ri-át Giê-a-rim. Kirjiath Jéarim (Thành rừng cây).
Nó vốn là chỗ của người Ga-ba-ôn ở (Giô-suê 9:17; 15:9, 10, 60), và thuộc về chi phái Giu-đa ở về biên giới Bên-gia-min (Giô-suê 18:14), cách thành Giê-ru-sa-lem hơn 16 cây số. Hòm giao ước của Chúa để tại thành nầy 20 năm cho tới tận ngày vua Ða-vít rước về Giê-ru-sa-lem (I Sa-mu-ên 6:19-7:2; II Sa-mu-ên 6:2). Có vài người trong vòng dân bị bắt làm phu tù sau trở về (Nê-hê-mi 7:29); và trong E-xơ-ra 2:25 gọi là Ki-ri-át A-rim. Trong Giô-suê 15:60; 18:14, gọi là Ki-ri-át Ba-anh; 15:9, 11 gọi là Ba-la trong II Sa-mu-ên 6:2 gọi là Ba-lê, trong I Sử ký 13:6, Ba-a-la.