I. Kinh Thánh là gì?
Tên nầy chỉ về một bộ sách thánh gồm có Cựu Ước và Tân Ước mà Hội Thánh Ðấng Christ đều công nhận và dùng. Các tôn giáo khác như Zoroastre, Hindouisme, Bouddhisme, Islamisme, mỗi một tôn giáo có bộ sách thánh riêng của mình, có khi gọi là "Kinh". Người Do-thái chỉ công nhận Cựu Ước là Kinh Thánh, Tín đồ Ðấng Christ thêm Tân Ước nữa. Kinh Thánh là những sách chép các sự khải thị của Ðức Chúa Trời về Ngài và ý chỉ Ngài cho loài người trong các đời và thời đại kế tiếp nhau (Ê-phê-sô 1:8-10; 3:5-9; Cô-lô-se 1:25-26; Hê-bơ-rơ 1:1-2), đến nỗi sự khải thị tóm kết bằng sự giáng sanh và công việc của con Ngài và chức vụ của Ðức Thánh Linh. Bởi đó, Kinh Thánh khác hẳn với các bộ Kinh khác trong thế gian. Các Kinh đó không có sự duy nhứt, chỉ thu lại những tài liệu khác nhau, không có trật tự, không có một ý đại khái được mở mang. Ấy vì không có sự khải thị của Chúa vẫn hành động để đạt đến mục đích theo thứ tự từ lúc bắt đầu cho đến cuối cùng. Trái lại, Kinh Thánh là một bộ sách có sự khải thị của Chúa, và tỏ ra mục đích Ngài. Sự duy nhứt của Kinh Thánh, dầu có nhiều phần khác nhau, làm chứng thật như thế.
II. Các tên và ý nghĩa.--
Theo nguyên văn Hy-lạp, Kinh Thánh là Biblia (từ biblos tức là phần trong của vỏ cây papyrus), ý nghĩa vốn là "các sách" và chép như thế trong Ða-ni-ên 9:2 (Septante: Tà biblia tức là các sách). Trong Apocryphe, cũng chép là "các sách thánh". Trong Hội Thánh đầu tiên, ấy chỉ về Cựu Ước và trong thế kỷ thứ IV Jérôme gọi là Bibliothéca Divina. Có người tin rằng Jean Chrysostome trưởng lão tại thành Constantinople (398-404 S.C.), là người thứ nhứt dùng chữ "Tà biblia" đó để chỉ về "các sách thánh". Ðến thế kỷ XIII, thì "Tà biblia" (số nhiều) trở nên "biblia" (số một) tức là các sách thánh trở nên Kinh Thánh.
Tự nhiên trong Tân Ước không có một tên chỉ cả Tân Cựu Ước, vì lúc đó chỉ có Cựu Ước mà thôi. Song theo II Phi-e-rơ 3:16, dường như bắt đầu gồm lại các thơ tín Phao-lô trong danh từ Kinh Thánh. Dầu trong bản quốc ngữ có chép Chúa và các Sứ đồ dùng Kinh Thánh song ấy chỉ về Cựu Ước mà thôi. Theo Lu-ca 24:44 thấy người Do-thái chia Cựu Ước làm "luật pháp Môi-se, các sách tiên tri cùng các Thi Thiên"; theo Ma-thi-ơ 5:17 "luật pháp hay là lời tiên tri", và theo Giăng 10:34, I Cô-rinh-tô 14:21, v.v..., chỉ gọi là luật pháp. Cũng xem các tên khác dùng trong Rô-ma 3:2 so Công vụ các sứ đồ 7:38; Hê-bơ-rơ 5:12; I Phi-e-rơ 4:11.
III. Cách sắp đặt các sách thánh đã thu lại và được công nhận như thế, thì tự nhiên phải bắt buộc sắp đặt theo thứ tự. Vậy Cựu Ước theo bản tiếng Hê-bơ-rơ có ba phần:
1. Luật pháp, ấy gồm lại năm sách: Sáng thế ký, Xuất Ê-díp-tô ký, Lê-vi ký, Dân số ký và Phục truyền luật lệ ký, bao giờ cũng giữ địa vị chắc đã có từ lúc ban đầu vì là phần cổ nhứt có quyền hơn cả. Trong sự sắp đặt người Hê-bơ-rơ thường lấy chữ cái hoặc chữ quan hệ trong câu đầu để quyết định đầu đề của sách. Trong bản Septante, có ý chọn đầu đề chỉ về đề mục của mỗi sách.
2. Phần thứ nhì sắp đặt lối khác như sau nầy:
a) Sách cũ: Giô-suê, Các quan xét; I, II Sa-mu-ên ; I,II Các vua.
b) Sách sau: Tiên tri lớn, Ê-sai, Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên; tiên tri nhỏ: mười hai sách. Những đầu đề theo bản Hê-bơ-rơ hiệp với Kinh Thánh quốc ngữ.
3. Sau đến một số sách mà người Do-thái gọi là Cethubim, gồm có các sách còn lại trong Cựu Ước Hê-bơ-rơ, sắp đặt theo trật tự sau nầy:
a) Thi Thiên, Châm Ngôn, Gióp.
b) Nhã Ca, Ru-tơ, Ca thương, Truyền đạo, Ê-xơ-tê, năm cuốn.
c) Ða-ni-ên, E-xơ-ra, Nê-hê-mi, I, II Sử ký.
Trong lịch sử, về lối sắp đặt các sách trong Tân Ước có khác nhau, song có lợi vì tỏ ra những sự khác nhau về cảm biết và tư tưởng. Bốn sách Tin lành và Công vụ các sứ đồ vẫn đứng đầu, cũng như sách Ngũ Kinh trong Cựu Ước. Sách Công vụ các sứ đồ đứng giữa, sau bốn sách Tin lành và trước những thơ tín, ấy là sự sắp đặt tự nhiên. Song sau đó nhiều sự khác nhau. Theo ba bản cổ là Alexandrinus, Vaticanus, và Ephraemi, thì đặt các thơ tín chung trước thơ tín của Phao-lô, ấy là sự đặc biệt Ðông Giáo hội. Trái lại theo Jérôme, Augustin và các người kế tiếp thì Tây Giáo hội đặt các thơ tín Phao-lô trước các thơ tín chung. Sách Khải Huyền vì có những tài liệu đặc biệt, nên giữ một địa vị riêng ở chót Tân Ước.
IV. Cách chia đoạn và câu.--
1. Về bản Hê-bơ-rơ Cựu Ước. Nếu không có một cách chia rõ rệt, thật khó hiểu lúc làm lễ thế nào dùng sách Cựu Ước được. Song theo những lời minh chứng trong Mác 12:26; Lu-ca 20:37; Rô-ma 11:2 và Công vụ các sứ đồ 8:32 đủ làm chứng trong đời Cựu Ước dân sự biết phân biệt vài phần Cựu Ước bởi những đầu đề lấy từ những đề mục trong phần đó. Cũng vậy, theo Lu-ca 4:17; Công vụ các sứ đồ 13:15; 15:21; II Cô-rinh-tô 3:14 biết có một số bài học nữa. Sách Talmud chia theo sau đây: trước hết luật pháp chia làm 54 Parshioth (tức phần) để có bài học cho mỗi ngày Sa-bát trong niên lịch của người Do-thái. Cũng lúc đó có chia những phần nhỏ hơn nữa. Về các sách tiên tri trước và sau thì không chia đều nhau và cũng dùng những danh từ khác nhau; tên mỗi phần là Haphtaroth.
Theo lời truyền khẩu, cách chia Kinh Thánh Hê-bơ-rơ rất có ảnh hưởng về lối sắp đặt như có ngày nay, là sự chia những phần lớn ra câu (tức Pésukim). Dường như những câu nầy không dùng cho đến chừng thế kỷ thứ IX S.C. khi các nhà thông thái Do-thái (Masoretes) sửa lại sách Talmud. Những việc quan hệ cần còn nói đến về sự chia Cựu Ước ra từng câu là: Stephens dùng theo khi xuất bản Vulgate mình năm 1555 S.C., và Frellon năm 1556 cũng vậy; sau dùng trong bản tiếng Anh, lần thứ nhứt, 1560 S.C. và trong bản Authorized Version, tiếng Anh, 1611 S.C..
2. Tân Ước chia ra thành từng đoạn là do Hugh de St. Cher thay cho những bản mà trước đã dùng; là trong những lần xuất bản Vulgate đầu tiên, sau Coverdale dùng trong Kinh Thánh tiếng Anh, vậy trở nên phổ thông. Về sự chia Tân Ước ra từng câu, vì không một mẫu mực làm đích, nên phải theo ý riêng của các nhà in và xuất bản. Vậy, nhờ hai ông Stephens dùng trong khi xuất bản Tân Ước Hy-lạp và Vulgate rồi sau ai nấy đều công nhận theo lối chia ra từng câu đó. Trong lời tiểu dẫn của sách Concordance mà Henry Stephens xuất bản 1594 có nói rõ về căn nguyên sự chia nầy. Cả công việc đó có làm xong trong khi đi đường từ Paris đến Lyons. Có nhiều người tưởng vì thế không được công nhận, song khi vừa thấy thì người ta thảy đều công nhận. Lần đầu xuất bản với sự chia câu đó là 1551 S.C.. Có dùng trong khi in Kinh Thánh Anh tại Genève, 1560 S.C. và từ đó trở đi, trừ ra một vài chỗ thay đổi nhỏ mọn ai nấy cũng chịu.
Chú ý.-- Cũng nên xem các bài "Cựu Ước" "Tân Ước" và Masorètes, với mấy bài theo sau có đầu đề Kinh Thánh.
Kinh Thánh, các bản cổ còn lại, Anciens Manuscrits.-- Vì Kinh Thánh không còn lại một nguyên bản nào, chỉ tìm được bản cổ sao mà thôi, nên các bản đó có giá trị như nguyên bản, mà được giữ rất cẩn thận trong những viện bảo tàng. Nên nhớ nguyên bản rất cổ của phần thứ nhứt Cựu Ước là chép độ 3.350 năm và phần cuối cùng Tân Ước chép xong độ 1.800 năm về trước. Chắc Chúa không cho để lại một tờ hoặc cuốn nào của nguyên bản, e lắm cớ vấp phạm cho người ta thờ lạy. Dưới đây xin nói đến mấy bản cổ sao rất danh tiếng còn lại.
1. Sinaiticus.-- Bản nầy của Tischendorf tìm ra trong nhà dòng Thánh Catherine trên núi Si-na-i, 1859. Ấy thuộc thế kỷ thứ IV. Dường như năm 1844, Tischendorf đến thăm nhà dòng đó, thấy có một cái giỏ đựng giấy cũ dùng để làm mồi lửa. Ông thấy một tờ của bản Septante, song người ta chỉ cho phép lấy đi 40 tờ. Mãi 15 năm sau, ông trở lại nhờ hoàng đế Nga giúp đỡ lấy được cả. Có Cựu Ước bằng tiếng Hy-lạp và cả Tân Ước viết rất cẩn thận trên da 100 linh dương. Hiện nay giữ tại viện bảo tàng Luân đôn. Có xuất bản làm bốn cuốn đúng như thế năm 1867. Có người nói ấy là bản cổ nhứt còn lại.
2. Vaticanus.-- bản nầy để tại thư viện tại thành La-mã, bởi Giáo hoàng Nicolas V, 1447-55. Ấy cũng thuộc thế kỷ IV. Có phần lớn Cựu Ước, chỉ thiếu 46 đoạn Sáng thế ký và Thi Thiên 105:-137: và Tân Ước đến thơ Hê-bơ-rơ 9:14 với một thơ sau và sách Apocryphe. Cuối sách Mác, chép 16:9-19 không có trong hai bản Hy-lạp rất cổ. Hết cả chép trên 700 tờ da bò con độ 30 cm. vuông đóng thành sách. Có xuất bản làm 5 cuốn, 1857, và đúng như sách thường năm 1867.
3. Alexandrinus.-- Bản nầy do Cyril, trưởng lão thành Constantinople, dâng cho Charles I, 1627. Ấy thuộc thế kỷ V. Có cả Cựu Ước bằng tiếng Hy-lạp, chỉ thiếu 10 tờ, và Tân Ước thiếu Ma-thi-ơ 1:-25:; Giăng 6:50-8:32; II Cô-rinh-tô 4:13-12:4. Hiện giữ ở bảo tàng tại Luân-đôn (Anh). Có xuất bản đúng như thể năm 1879, và như thường 1860 và 1864. Ấy là bản cổ thứ ba còn lại.
Còn ba bản khác viết cùng một lối chữ hoa tròn như ba bản kể trên là:
a) Éphraemi, tại thư viện Paris. Muốn tiết kiệm da, người ta tẩy đi và viết đè lên trên bài của Thánh Éphraem, một giáo phụ của Sy-ri. Song chữ viết trước còn lờ mờ, 200 năm trước đây, bởi một thứ thuốc làm rõ chữ người ta thấy có phần lớn Tân Cựu Ước.
b) Bazae, bản nầy chép tiếng Hy-lạp, và La-tinh đối ngang nhau, giữ trong trường đại học Cambridge nước Anh, Théodore de Bèze, bạn của Jean Calvin, tìm ra năm 1560 trong nhà dòng Thánh Irénée, tại Lyons. Có 4 sách Tin lành, Công vụ các sứ đồ, và mấy phần trong thơ tín Giăng. Dầu có thêm nhiều câu không có giá trị nhưng có lẽ trong những câu đó có lời phán và việc làm của Chúa như nói đến trong Giăng 21:25.
c) Claromontanus, thuộc thế kỷ VI, để tại Paris.
Khi sửa soạn bản "Authorized Version" tiếng Anh, chưa tìm được ba bản cổ nhứt; song có dùng khi sửa soạn "Revised Version". Ngoài những bản kể trên còn có độ 4.000 phần khác cũng dùng để so sánh mà biết đúng nguyên bản Tân Cựu Ước. Phần nhiều bản đồ nầy chép trên da chiên, dê, v.v, vì lúc đó chưa phát minh nghề in, hết cả đều viết tay và chưa đóng thành sách như ngày nay, nên phải cuốn hay xếp lại.
Kinh Thánh, các bản Cựu Ước và Tân Ước cổ, Version.--
Trong bài nầy, khi bàn luận về các bản Kinh Thánh thời cổ còn đến ngày nay, hoặc cả, hoặc một phần, thì theo thứ tự của các chữ cái (Alphabet).
I. Bản Arabique.--
1. Cựu Ước.
a) Từ bản Hê-bơ-rơ, Saadiah Haggaon, giáo sư đạo Do-thái trong thế kỷ X. Có dịch một phần (có người tưởng dịch hết) Cựu Ước ra tiếng A-rạp. Bản dịch Ngũ kinh người ta in tại Constaninople 1546 S.C..
b) Từ bản Peshito Syriaque. Ấy là nền tảng của bản Arabique in bằng hai thứ tiếng của các sách Các quan xét, Ru-tơ, Sa-mu-ên, Các-vua và Nê-hê-mi.
c) Từ bản Septante. Ấy là bản bằng hai thứ tiếng của những sách Cựu Ước còn lại không kể ở trên.
2. Tân Ước.
a) bản bốn sách Tin lành, editio princeps, từ thành La-mã, 1590-91.
b) Bản Erpen Arabique, là cả Tân Ước mà Erpen tại Leyden (Hà lan), xuất bản 1616, lấy từ bản thuộc thế kỷ XIII hay XIX S.C..
c) Bản Arabique từ Paris bằng hai thứ tiếng 1645.
d) bản Arabique Carshuni (tức bằng chữ Sy-ri), là Tân Ước bằng tiếng Syriaque và Arabique xuất bản tại La-mã, 1703 S.C..
II. Bản Arménienne.--
Trước thế kỷ V, người Arménien dùng chữ cái Syriaque; song khi đó Miesrob mới bày vẽ chữ Arménien. Khỏi ít lâu bắt đầu dịch các bản Syriaque ra tiếng Arménien. Miesrob cùng mấy bạn là Josèphe và Eznak bắt đầu dịch sách Châm Ngôn rồi dịch cả Cựu Ước; và vì không có bản Hy-lạp thì dùng bản Syriaque để dịch Tân Ước. Song năm 431, Josèphe và Eznak từ Công giáo hội nghị tại Ê-phê-sô có đem một bản tiếng Hy-lạp về, thì Miesrob với Issac, tổ phụ Hội Thánh Arménienne, bỏ việc trước đã làm để dùng bản Hy-lạp để dịch lần nữa. Vậy, nhờ giám mục Oscan hay Uscan của Hội Thánh Arménienne, Kinh Thánh Tân Cựu Ước bằng tiếng Arménienne mới in và xuất bản lần thứ nhứt tại Amsterdam, 1666 S.C..
III. Bản Chaldéenne.--
Ấy thường gọi là Targum, hoặc đúng hơn gọi là Bản Aramaique của Cựu Ước. Lần thứ nhứt trong Kinh Thánh khuyên "phải đọc sách Luật pháp trước cả Y-sơ-ra-ên... nào người nam, người nữ, nào con trẻ và khách lạ" trong ngày lễ Lều tạm, để dạy dỗ và tập theo, có chép trong Phục truyền luật lệ ký 31:10-13. Trong những việc đầu nhứt của E-xơ-ra khi lập lại tôn giáo ngày trước và sự thờ lạy Chúa chung là việc đọc "trước mặt hội chúng, người nam và nữ", sách luật pháp Môi-se mà Ðức Giê-hô-va đã truyền dạy cho Y-sơ-ra-ên (Nê-hê-mi 8:1-8). Theo lời truyền khẩu, E-xơ-ra với mấy người học giả danh tiếng đều lập một đoàn thể lo về tôn giáo và chính trị, gọi là Grande Synagogue hoặc Người thuộc Hội lớn để nhóm họp dân sự luôn trong ngày giờ nhứt định mà đọc chung các sách Thánh; ấy trở nên một thói quen đến nỗi sau ai nấy tin là chính Môi-se lập. Rồi sau, cũng đọc thêm các sách tiên tri (trong vài thành Ba-by-lôn có đọc thêm các sách Văn thơ nữa). Dầu có thể lập lại tôn giáo và xây Ðền thờ thứ hai cho một số ít người Do-thái bị đày về, theo lời truyền khẩu toàn là người hạ lưu, nghèo, dốt, v.v... để lập trên nơi hư nát của thành Si-ôn một dân chúng rất quan hệ và đứng rất lâu, nhưng có một điều không làm được, tức là lập lại như vốn có; là tiếng Hê-bơ-rơ.
Những người Do-thái từ Ba-by-lôn về xứ mình, không hay nói tiếng Hê-bơ-rơ nữa, nên không đọc các sách thánh được, vậy tự nhiên cần phải dịch ra bằng tiếng Chaldéenne hoặc Aramaique là tiếng ai nấy đều biết. Vả lại, dịch đúng cũng chưa đủ, nên cần phải thêm lời giải nghĩa những đoạn khó và tối nghĩa. Vậy, bản Cựu Ước dịch và thêm lời giải nghĩa được gọi là Targum. Về sau sanh ra một ban (người thuộc ban đó gọi là Meturgeman) có chức việc giải nghĩa sách Targum đó, nhưng bị bó buộc phải giải nghĩa theo những điều lệ định sẵn. Vì hay lợi dụng chức việc mà lấy tiền, những người Meturgeman không được dân sự kính trọng mấy. Sau mấy thế kỷ bởi miệng truyền lại, những cớ ép phải chép cả luật pháp theo truyền khẩu cũng ép phải biên những Targums với mấy phần Cựu Ước nữa. Vì sự thêm bớt lời Chúa bởi người không có tài hoặc không xứng đáng, nên phải bỏ Targums chỉ bởi miệng truyền lại, kẻ cầm quyền quá lẽ.
Trước khi nói về Targums, cần phải nói về Midrash mà Targums là một phần. Sau khi người Do-thái từ Ba-by-lôn về, nơi trung tâm của mọi việc họ về phần trí khôn và tôn giáo là các sách thánh công nhận mà Sofeim tức những thầy thuộc về Grande Synagogue đã thu lại. Về chính phủ và tôn giáo, những thầy nầy nhờ Ngũ kinh Môi-se cầm quyền chính về luật pháp. Trước hết các thầy đó phải cắt nghĩa đúng những sự Ngũ kinh Môi-se cấm hoặc bảo, ấy vì có luật khó hiểu và dân sự đã quên trong thời kỳ làm phu tù. Thứ nhì, theo những sự cần mới trong thời dân sự đang mở mang, các thầy đó cũng lập những luật không có chép hoặc không nói đến trong Ngũ kinh. Lối giải nghĩa các Sách Thánh đó được gọi là darash. Trong khoảng độ một ngàn năm từ khi bị phu tù, số sách giải nghĩa đó thêm càng ngày càng hơn đến nỗi hằng hà sa số, được gọi chung một tên là Midrash tức "giải nghĩa". Ấy cũng chia làm hai phần: Halachah nghĩa là chỉ đường phải đi là luật có quyền bó buộc; và Haggadah nghĩa là chỉ về những cách ngôn và truyền khẩu, là những tưởng tượng như từ Lời Chúa. Haggadah không có cầm quyền chút gì. Hillel, Akiba và Simon B. Gamaliel là những người thứ nhứt thu lại những luật của Halachah, là gồm lại những luật nào dự phần về chính trị, luật pháp, tôn giáo, và mọi việc thường hằng ngày của đời sống người Do-thái, cá nhơn hoặc dân tộc; mặc dầu là dự phần rất nhỏ mọn và không quan hệ của luật pháp Chúa đối với người. Song việc đó nhờ Jehudah Hannasi trong thế kỷ thứ II S.C. mới thành công, và gọi là Mishna.
1. Những Targums vốn nhờ miệng truyền lại. Targum chép thứ nhứt là của Onkelous về Ngũ kinh, bắt đầu chép trong thế kỷ thứ II S.C. và mới được thành công như hiện nay hết thế kỷ thứ III S.C.. Targum chép nầy không được thay vì Targum trước, trái lại bị cấm đọc chung. Ấy có chép bằng tiếng Chaldée hơi giống lối văn của E-xơ-ra và Ða-ni-ên, và theo nguyên ý rất đúng và rõ để người thường có thể hiểu được. Targums sau liên lạc với Kinh Thánh.
2. Targum về các sách tiên tri, tức Giô-suê, Các quan xét, Sa-mu-ên, Các-vua, Ê-sai, Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên và 12 sách tiên tri nhỏ, được gọi là Targum của Jonathan Ben Uzziel. Targum nầy chắc làm xong độ vào giữa Targum của Onkelos và các Targums theo sau, về phần giải nghĩa và mở mang, vì không đúng ý bằng Targum trước nhứt và không có sự tưởng tượng bằng các Targums sau.
3. và 4. Targum của Jonathan Ben Uzziel và của Jerushalmi về Ngũ kinh. Hai Targums kể trên của Onkelos và Jonathan về Ngũ kinh và các sách tiên tri Cựu Ước có dùng nhiều tại Ba-by-lôn giữa thế kỷ III và IV S.C. nên được gọi là Targums của Ba-by-lôn. Còn có một số Targums khác, dầu không chép cẩn thận như hai Targums trước và có giữ nhiều sự tưởng tượng của người Meturgeman hơn, song có chép và dùng tại chính xứ Giu-đa. Hiện nay chỉ có phần về Ngũ kinh, mấy sách khác và mấy tờ còn lại; phần về các sách khác của Cựu Ước phải nhờ sự trưng dẫn mà được biết.
5. Những Targums của "Josèphe, người mù" về những sách Văn thơ Cựu Ước. Dầu nhiều người tin thật là Josèphe soạn, nhưng nếu thật vậy chắc Targums đó như có ngày nay còn lại không phải bởi chính tay người hay môn đồ người, vì không phải thuộc thế kỷ thứ IV. Có người tưởng chép ra độ 1.000 năm S.C..
IV. Bản Égyptienne.-- Có ba thứ:
1. Bằng tiếng Memphitique của miền Trung du xứ Ai-cập và người ta tưởng có từ thế kỷ II. Phần nhiều rất đúng và như các tổ phụ Hội Thánh Alexandrie thường dùng. Dầu ngày nay, các tín đồ Ðấng Christ thường dùng Kinh Thánh bằng tiếng A-rạp, nhưng hay đọc chung Kinh Thánh bằng tiếng Coptique nầy. Cựu Ước của bản nầy dịch từ bản Septante.
2. Bằng tiếng Thébaide của miền Thượng du xứ Ai-cập làm sau bản kể trên và không chép đúng bằng.
3. Bằng một thổ ngữ khác, còn một ít bản gọi là Ammonian có tìm giữa người bản viết tay Bogian và được dịch năm 1789 S.C..
V. Bản Éthiopique.-- vào thế kỷ IV có hai người là Frumentius và Aedesius, người thành Ty-rơ, bị bắt làm nô lệ cống hiến cho vua Éthiopie. Nhờ hai người đó, đạo tin lành bắt đầu được truyền cho dân Éthiopique. Bản Éthiopique có ngày nay là bằng một thổ ngữ cổ Axum. Bởi đó, người ta tưởng là thuộc về thời kỳ các nhà truyền đạo đầu tiên; song khi xét đặc sắc chung của bản thì không có lý, và chính người Á tin là thuộc một thời kỳ sau. Cả Tân Cựu Ước cũng dịch từ tiếng Hy-lạp. Ðến năm 1513, Potken xuất bản các Thi Thiên bằng tiếng Éthiopie tại La-mã; và năm 1548-49 có ba người Á xuất bản cả Tân Ước in tại La-mã. Dillmann bắt đầu năm 1853 dịch cả Cựu Ước.
VI. Bản Gothique.-- Ấy nhờ Ulphilas, trong nửa phần sau thế kỷ thứ IV dịch ra chắc từ tiếng Hy-lạp. Ulphilas là giám mục Hội Thánh giống Goths phía Tây, vốn ở miền cửa sông Vistule, sau ở phía Ðông nam Âu châu. Bản nầy gồm cả Kinh Thánh trừ ra các sách Sa-mu-ên và Các vua. Ulphilas không dịch bốn sách đó vì sợ gây thêm tinh thần chiến tranh, và thờ hình tượng của người Goths. Ðến nửa phần sau thế kỷ thứ XVI mới biết tại thư viện trong nhà dòng Werden thuộc miền Westphalie ở bên Ðức có bản nầy còn lại. Nhưng chỉ có 188 tờ còn lại trong số 320 mà phần nhiều là gần hết Tân Ước với một ít Cựu Ước Bản nầy có giá trị lắm: vì bằng tiếng Gothique rất hay, làm kỷ niệm về việc truyền đạo đầu tiên cho dân Goths, và có thể so sánh với các bản cổ khác để biết chắc chắn những chữ dùng trong Kinh Thánh là đúng như vốn có.
VII. Bản Hy-lạp của Cựu Ước.--
1. Septante.-- Bản Hy-lạp nầy dịch từ Kinh Thánh tiếng Hê-bơ-rơ là cũ hơn các bản khác như thế là rất danh tiếng. Bản nầy được gọi là Septante (LXX), vì có bảy mươi người dịch trong đời Ptolémée Philadelphe, 285-247 T.C.. Clément ở Alexandrie và Eusèbe nhờ Aristobule, một thầy tế lễ Giu-đa trong đời Ptolémée Philometor, mà biết rằng: dầu trước mấy phần sử ký Hê-bơ-rơ đã dịch ra Hy-lạp, nhưng trong đời Ptolémée Philadelphe có Demetrius Phalereus coi sóc việc dịch cả luật pháp Hê-bơ-rơ ra Hy-lạp. Trong một thơ của Aristeas một quan hầu trong triều Ptolémée Philadelphe gởi cho anh em mình có nói đến truyện nầy. Dầu ngày nay, có học giả chứng thơ đó không thật, song sử gia Josèphe cũng nói đến nữa. Josèphe thuật lại rằng Demetrius Phalereus, người trông nom thư viện của Ptolémée Philadelphe muốn thêm vào số 200.000 bộ sách đã có một bản luật pháp Hê-bơ-rơ, vì nguyên văn Hê-bơ-rơ không hiểu được nên phải dịch ra tiếng Hy-lạp. Vua bằng lòng, xin Éléazar, thầy cả thượng phẩm tại Giê-ru-sa-lem, cử 72 người già và có tài thông dịch, mỗi chi phái 6 người để dịch. Hết thảy đến thành Alexandrie đem theo luật pháp Chúa chép bằng chữ vàng trên các cuốn bằng da. Họ được tiếp đãi tử tế, ở một nhà bình tịnh trên đảo Pharos, trong hải cảng Alexandrie, và trong 72 người dịch và chép lại cả luật pháp Chúa bằng tiếng Hy-lạp. Những truyền khẩu nầy về nguyên gốc bản Septante có giá trị lớn, dầu không thể nhờ những tiểu tiết và lối nói về cách làm việc cũng khó hiểu.
Vậy, bản Septante thật được dịch tại xứ Ai-cập: cả Ngũ kinh trong đời Ptolémée Philadelphe, sau dần dần đến các sách khác, và cả Cựu Ước dịch xong chừng 150 T.C.. Vào lối 132 T.C.., Jêsus, con của Sirach, có nói đến bản tiếng Hy-lạp về luật pháp, các tiên tri và các sách khác. Chắc có sửa bản nầy trong đời họ Macchabées. Xem lối văn khác nhau và cách dịch thì biết bản nầy có nhiều người dịch, và phẩm giá không đều nhau vì có chỗ hỏng. Ngũ kinh, trừ ra mấy khúc văn thơ như Sáng thế ký 49:; Phục truyền luật lệ ký 32:; 33:, là phần tốt nhứt và toàn thể cũng tốt dầu không dịch từng chữ. Những người dịch Châm Ngôn và Gióp giỏi lối văn Hy-lạp, song không thạo tiếng Hê-bơ-rơ; nên giữ theo nguyên bản một cách thái quá. Khi dịch Châm Ngôn thì theo 1 bản khác với bản Massore ngày nay. Ý nghĩa chung của các Thi Thiên được dịch cách rõ. Các sách tiên tri dịch kém. Sách Giê-rê-mi chắc nhờ một bản khác với bản Massore ngày nay. Sách A-mốt và Ê-xê-chi-ên dịch khá và Ê-sai kém. Vì Ða-ni-ên dịch xoàng nhứt nên các tín đồ đầu tiên từ đời Érénée và Hippolyte thay bản dịch của Théodotion.
Ðấng Christ cùng các môn đồ có dùng bản Septante luôn; có khi nhắc đúng từng chữ một, song có khi không dùng mà dịch ngay từ nguyên bản Hê-bơ-rơ. Có chừng 350 câu trích từ Cựu Ước trong bốn sách Tin lành, sách Công vụ các sứ đồ và các thơ tín, trong số đó chừng 50 khác với bản Septante, Khi Phi-líp gặp hoạn quan Ê-thi-ô-bi thì người nầy đang đọc bản Septante (Công vụ các sứ đồ 8:30-33).
Có ba lần sửa lại quan hệ bản Septante; một lần độ 236 S.C., và hai lần trước 311 S.C.. Ấy là bởi Origène ở Pha-lê-tin, Lucien ở Tiểu A-si và Constantinople, và Hésychius ở Ai-cập. Bản thủ thơ Vaticanus của Septante được công nhận rất rõ và hiệp rất đúng với nguyên văn, và chắc nhờ bản Septante của Origène sắp đặt Héxapla mình bằng 6 (sáu) cột so sánh nguyên văn Hê-bơ-rơ với bốn tiếng khác. Bản Septante mà Lucien sửa lại đã tìm ra và Lagarde đã xuất bản. Lucien là một trưởng lão Hội Thánh An-ti-ốt, tuận đạo tại Nicomédia 311 S.C.. Lucien so văn Hy-lạp với văn Hê-bơ-rơ ấy dầu tốt nhưng lại khác với văn trong bản Massore, và xuất bản một bản Septante sửa lại. Hésychius là giám mục Hội Thánh Ai-cập tuận đạo độ 310 S.C.. Bản Septante ông sửa lại mất rồi.
2. Bản Hy-lạp khác.-- Sau Giê-ru-sa-lem bị phá 70 S.C., người Do-thái không ưa bản Septante nữa: một phần vì tín đồ của Ðấng Christ dùng để tỏ ra Chúa Jêsus là Ðấng Mê-si, một phần vì thấy lối văn kém phong nhã. Vậy, trong thế kỷ thứ II, theo các sách thánh đã công nhận của Cựu Ước, người Do-thái dịch ra ba bản.
a) Bản dịch của Aquila, sanh truởng ở Pontus và theo đạo Do-thái. Aquila sống trong đời hoàng đế Adrien, và quyết định dịch từng chữ bản Kinh Thánh Hê-bơ-rơ để cạnh tranh với bản Septante mà tín đồ Ðấng Christ dùng truyền đạo. Bản người dịch theo từng chữ quá đỗi đến nỗi có chỗ cả người Hê-bơ-rơ và người Hy-lạp cũng không hiểu nổi.
b) Théodotion là một người theo đạo Do-thái ở Ê-phê-sô theo lời Irénée và theo Eusèbe cũng là người thuộc phái Ébion, tức tin Ðấng Mê-si mà chối thần tánh của Ðấng Christ người sống trước 160 S.C. vì Justin Martyr có nói đến. Khi sửa lại bản Septante, người dùng cả nguyên văn Hê-bơ-rơ và bản dịch của Aquila.
c) Bản dịch lịch sử của Symmachus, là người Sa-ma-ri theo phái Ébion, song hay dùng nhiều chữ để dịch một tiếng.
Có ba bản khác, vì tác giả vô danh nên gọi là bản Septante thứ 5-7, vốn là nhờ lối sắp đặt Héxapla của Origène. Origène sắp đặt văn Hê-bơ-rơ và bốn bản khác tiếng làm sáu cột ngang nhau để so sánh. Trong cột một người dành riêng cho bản Hê-bơ-rơ; cột hai, tiếng Hê-bơ-rơ theo chữ Hy-lạp; cột ba, bản dịch của Aquila; cột tư, của Symmachus; cột năm, bản Septante; cột sáu, bản Septante sửa lại của Théodotion. Vì cớ sắp đặt thế nên gọi là Héxapla. Trong cột năm có bản Septante, Origène có đánh dấu riêng những chữ không có trong bản Hê-bơ-rơ. Người chữa văn Hy-lạp khi thấy cần phải thêm chữ thiếu vì có trong bản Hê-bơ-rơ. Người thêm dấu để chỉ các chỗ đó, ông dịch các tên theo cách đọc Hê-bơ-rơ. Dầu bản nguyên của Origène đã mất, song còn giữ được vài khúc mà các giáo phụ có trích. Cột cho bản Septante xuất bản riêng và nhiều người dùng đến... Paul, giám mục Hội Thánh Tella đã dịch bản đó bằng tiếng Syriaque, 617-18 S.C.. Không may Origène sửa bản Septante theo văn Hê-bơ-rơ trong thời ông, ấy vì các nhà học giả mong ước được biết bản Hy-lạp như các người dịch đầu tiên tại Alexandrie, v.v..., để giúp mình biết rõ hơn nguyên văn Hê-bơ-rơ. Vả lại, những dấu mà Origène dùng để chỉ các chỗ sửa và thêm vào Septante và các chỗ Septante không tìm được trong nguyên văn Hê-bơ-rơ, những người chép lại có khi vô ý bỏ sót lại.
Còn có một bản khác nữa gọi là Vénéto-Hy-lạp thuộc thế kỷ XIV S.C. nay để trong thư viện Thánh Mác tại thành Venise. Bản nầy còn có những sách Ngũ kinh, Châm Ngôn, Truyền đạo, Nhã Ca, Ru-tơ, Ca Thương, và Ða-ni-ên. Cách sách đó, trừ ra Ngũ kinh được xuất bản tại Strasbourg, 1784 và Ngũ kinh tại Erlangen, 1790-91.
VIII. Bản La-tinh.--
1. Bản La-tinh cổ hoặc bản Bắc Phi.-- Gần hết thế kỷ II S.C. có bản La-tinh thông dụng ở Bắc-phi. Tertullien, chết độ 220 S.C., Cyprien và Augustin đều dùng. Sách Cựu Ước không dịch ngay từ bản Hê-bơ-rơ song nhờ bản Hy-lạp.
2. Bản Itala hoặc bản Italien.-- Augustin làm chứng ai biết đủ tiếng Hy-lạp cũng dịch Tân Ước ra tiếng La-tinh. Bản Tân Cựu Ước Bắc Phi dùng tiếng ở các tỉnh nhỏ nên trái tai những người nói tiếng La-tinh ở tại kinh thành La-mã. Vậy, trong thế kỷ IV, có sửa bản đó ở Ý-đại-lợi nên gọi là bản Itala.
3. Bản Vulgate.-- Bản Itala có sửa lại mấy lần đến nỗi cuối cùng lẫn lộn. Vậy, năm 383 S.C., một giáo phụ là Jérôme hoặc Hiéronymus (329-420), người rất mực học thức trong thời mình, có tánh chăm về đạo đức và sự tinh kính, vì lời xin của Damasus, giám mục Hội Thánh tại La-mã, bắt đầu sửa lại Tân Ước bằng tiếng La-tinh. Người so các sách Tin lành với nguyên văn Hy-lạp, bỏ những chỗ trước sai lầm thêm vào và sửa những chỗ không đúng. Người cũng sửa hai lần bản Thi Thiên bằng La-tinh cổ nhờ sự so sánh với bản Septante. Ngày nay hai bản nầy gọi là bản Thi Thiên La-mã và Gaule vì có dùng tại hai nơi nầy.
Năm 387, Jérôme dọn chỗ ở mình trong một nhà dòng tại Bết-lê-hem để sửa lại cả Cựu Ước La-tinh. Trước ông nhờ bản Héxapla của Origène mà sửa, song sau nhờ nguyên văn Hê-bơ-rơ so với các bản Hy-lạp thứ nhứt bản Symmachus mà dịch một bản riêng của mình. Lúc thanh niên, Jérôme đã học tiếng Hê-bơ-rơ sau ở Bết-lê-hem có học thêm nơi mấy giáo sư Giu-đa. Năm 392, Jérôme xuất bản các sách Sa-mu-ên và Các Vua với một lời tựa cắt nghĩa thế nào các sách thánh được công nhận vào Cựu Ước. Năm 405, Jérôme xuất bản cả Cựu Ước dịch bởi mình. Dầu Jérôme có dịch vội hai sách Apocryphe là Tobie và Judith nhưng chính người cũng không muốn cho một Apocryphe nào vào Kinh Thánh. Người trong đời Jérôme lạm dụng hơn là biết ơn việc người đã làm. Chính Jérôme có tánh khó nên đáp lại bằng sự khinh dể mà sự học thức thường có đối với sự ngu dốt. Song việc ông đã làm không phải chỉ cho một đời, vậy qua các đời được biết ơn càng ngày càng hơn. Bản Vulgate của ông dịch trở nên Kinh Thánh dùng cho cả Tây Giáo hội trong thời trung cổ; và sau dầu dịch bằng các thổ ngữ, nhưng nay vẫn còn Kinh Thánh của Giáo hội La-mã.
Ðộ 802, hoàng đế Charlemagne nhờ Alcuin sửa lại bản Vulgate. Khỏi ít lâu sau khi phát minh nghề in, năm 1455 có in cuốn sách thứ nhứt là bản Vulgate tiếng La-tinh nầy. Ngày 8 tháng IV 1546, Giáo hội nghị tại Trente tỏ ý muốn sửa lại. Nhưng các nhà học giả không chú ý về việc sửa nầy. Song đến khi Giáo hoàng Sixtus V lên ngôi, là người có tánh cương quyết, thúc giục thì mới bắt đầu, và chính người cũng dự phần nữa. Vậy, bản sửa được xuất bản trong 1590. Một bản sửa khác nhờ Giáo hoàng Clément VIII cũng xuất bản 1592; dầu tốt hơn bản trước, nhưng không thế cho vì nay cả hai bản còn dùng. Heyse và Tischendorf có nhờ bản của Clément với nhiều bản cổ gọi là Codex Amiatinus mà sửa soạn Cựu Ước, và Tischendort nhờ Codex Amiatiuns sửa soạn Tân Ước. Kinh Thánh Vulgate đã có một ảnh hưởng rất lớn trong sự quyết định dùng các danh từ về thần đạo, và nhứt là của Tây Giáo hội. Thí dụ: chữa Sacramentum tức lễ, Justificatio tức được xưng công nghĩa, và Sanctificatio tức là sự nên thánh.
IX. Bản Samaritain về Ngũ kinh.-- Người Sa-ma-ri hay dùng một bản sửa bản Hê-bơ-rơ đã được công nhận về Luật Môi-se, viết bằng tiếng Hê-bơ-rơ cổ, thường gọi là chữ Sa-ma-ri. Nguyên gốc bản Samaritain nhiều cuộc bàn cãi. Ðây chỉ tỏ ra hai ý hay dùng, nhứt là:
1. Bản nầy là bởi người chi phái để lại lúc người Sa-ma-ri kế tiếp mình. Ấy vì cớ:
a) Không lẽ nào người Sa-ma-ri chịu nhận lấy luật mình từ tay người Giu-đa sau khi làm phu tù, vì từ trước vẫn có sự ghen ghét giữa hai dân đó.
b) Bản luật người Sa-ma-ri công nhận chỉ có Ngũ kinh chung với bản Hê-bơ-rơ công nhận. Nếu tiếp bản đó lúc các sách Văn thơ và tiên tri trong tay người Giu-đa, chắc đã nhận hết.
2. Bản nầy là nhờ Ma-na-se, sau là thầy cả thượng phẩm, đem vào lúc lập nơi Thánh riêng của xứ Sa-ma-ri trên núi Ga-ri-xim độ 332 T.C., cũng viết bằng tiếng Hê-bơ-rơ cổ thường gọi là chữ Sa-ma-ri.
Bản Samaritain có nhiều chỗ khác hẳn với bản Hê-bơ-rơ.
1. Nhiều khúc và lời trong bản Hê-bơ-rơ có sự gì trái ý người Sa-ma-ri về lịch sử, hoặc về danh từ dùng cho Ðấng Tạo hóa, thì họ sửa chữa lại. Vậy, trong bản Sa-ma-ri không chép người nào, trước nước lụt, sanh con đầu lòng sau 150 tuổi. Song, nếu cần thì bớt 100 tuổi trước, và thêm sau khi sanh con đầu lòng. Có sự sửa đổi quan hệ trong Xuất Ê-díp-tô ký 12:40, bản quốc ngữ đọc là: "Vả, thì kiều ngụ của dân Y-sơ-ra-ên (và các tổ phụ ở xứ Ca-na-an) tại xứ Ai-cập được 430 năm". Câu ở trong vòng đơn là câu thêm về sau vào bản Samaritain. Sáng thế ký 2:2 cũng đổi: "Ngày thứ bảy, Ðức Chúa Trời làm xong các công việc Ngài đã làm" đọc là "Ngày thứ sáu Ðức Chúa Trời...", e rằng sự yên nghỉ ngày Sa-bát của Chúa không được trọn vẹn.
2. Vì tây vị thần học người Sa-ma-ri về sự giải nghĩa và sự thờ phượng riêng trong xứ, nên có nhiều chỗ thay đổi lại. Bởi đó, trong bản Hê-bơ-rơ, chữ Élohim bốn lần chia với động từ về đa số, song trong bản Samaritain thì hiệp với động từ về đơn số (Sáng thế ký 20:13; 31:53; 35:7; Xuất Ê-díp-tô ký 22:9). Vả lại, chỗ nào chép Ðức Chúa Trời có hình giống người hoặc có tâm tính loài người đều xóa bỏ hết. Cuối cùng, sự thay đổi rất cố ý và luôn luôn đổi câu: "Chúa sẽ chọn một nơi" ra "Chúa đã chọn" một nơi tức là núi Ga-ri-xim ấy chỉ về núi Ga-ri-xim thay cho Ê-banh chép ở trong Phục truyền luật lệ ký 27:4. Trong Xuất Ê-díp-tô ký cũng như trong Phục truyền luật lệ ký, bản Samaritain sau 10 điều răn, còn xen ngay một câu lấy ở Phục truyền luật lệ ký 27:2-7; và 11:30, song đổi tên "Ê-banh" ra "Ga-ri-xim" (xem Phục truyền luật lệ ký 27:4) và thêm "hướng phía Si-chem" (hết câu Phục truyền luật lệ ký 11:30).
Ðây tóm tắt về các sách người Sa-ma-ri:
1. Chronicon Samaritain, ấy vốn là sách Giô-suê mà người Sa-ma-ri thêm, bớt có ý đi quá về mặt lịch sử dân Sa-ma-ri, nên mạo gọi là "sách Giô-suê của người Sa-ma-ri". Năm 1584, những người Sa-ma-ti kiều ngụ tại Caire gởi bản nầy cho Scaliger. Năm 1848, Juynboll tại Layden khảo xét bản nầy, nhờ sự tìm tòi thấy bản đó làm ra như có ngày nay là nhờ ba bản Arabique và một bản Hê-bơ-rơ cổ làm tài liệu. Lịch sử chép từ đời Giô-suê cho đến chừng 350 S.C. và nguyên là viết tay dịch ra tiếng Arabique.
2. Từ bản kể trên, có thêm sách sử ký khác viết chừng thế kỷ XIV bởi Abu'l Fatah, bản nầy gồm cả lịch sử của người Giu-đa và người Sa-ma-ri từ A-đam đến 1355 và 1397 S.C.. Về lịch sử không có giá trị gì và từ sách Talmud mấy chuyện truyền khẩu.
3. Có một bản lịch sử khác về lịch sử và gia phổ của các tổ phụ từ A-đam đến Môi-se, nói là của chính Môi-se viết.
4. Chỉ có vài sách khác của người Sa-ma-ri còn lại, phần nhiều bằng tiếng Arabique, ấy vì hoàng đế Commodus đã phá phần rất nhiều bản của người Sa-ma-ri bằng tiếng Hê-bơ-rơ cổ.
X. Bản Slavonique.-- Chừng năm 862 S.C., có ước ao hoặc xin các giáo sư Hội Thánh đến xứ Moravie, nên năm sau có Cyrillus và Méthodius hai anh em từ Tê-sa-lô-ni-ca đến truyền đạo tại đó. Người ta nói Cyrillus phát minh vần chữ cái tiếng Slave và bắt đầu dịch Kinh Thánh bằng tiếng đó. Dường như Cyrillus qua đời tại La-mã năm 868, còn Méthodius cứ làm giám mục Hội Thánh xứ đó và dịch tiếp Kinh Thánh của anh mình, dầu không biết hai người thật đã làm được bao nhiêu. Sách Cựu Ước là từ bản Septante. Bản thảo cổ nhứt về bản dịch nầy là các sách Tin lành viết bằng vần chữ cái của Cyrillus, năm 1056. Lần đầu tiên in các sách Tin lành tại Walléchia năm 1512, và in lần nữa tại Wilna năm 1575, và 1581 cả Kinh Thánh in tại Ostroy. Vì bản nầy sửa soạn từ thế kỷ IX nên có chỗ dịch từ tiếng La-tinh.
XI. Bản Siriaque.--
1. Bản Syriaque cổ của Tân Ước.-- Bà Levis có tìm bản của bốn sách Tin lành trong nhà dòng thánh Catherine trên núi Si-na-i năm 1892, và Cureton trong một nhà dòng ở sa mạc Nitrian cũng tìm được nhiều phần khác năm 1841-43.
2. Bản Peshito.-- Peshito có nghĩa là đơn sơ hoặc Vugate. Sách Cựu Ước được dịch ngay từ tiếng Hê-bơ-rơ, lần thứ nhứt chắc dịch cho những người ngoại bang theo đạo Do-thái, và dịch trong thế kỷ I S.C. Tân Ước là một bản sửa lại của bản Syriaque cổ để hiệp với bản Hy-lạp hơn là có lối văn tốt hơn. Dường như, bản Peshito nầy được thông dụng trong thế kỷ II. Vì cớ thật lịch sự nên được gọi là hoàng hậu của các bản cổ.
3. Bản Philoxenian của Tân Ước.-- Ấy được gọi như thế vì được dịch ra vào năm 508, bởi Philoxenus, giám mục tại Hierapolis ở xứ Tiểu A-si.
4. Bản Jérusalem.-- Bản nầy được gọi thế vì dường như tiếng Syriaque đó giống tiếng Talmud tại Giê-ru-sa-lem, v.v.... Các bản viết tay của bản nầy bây giờ giữ tại bảo tàng Vatican, người ta tưởng đã viết ra năm 1031 S.C.. Các bản đó chỉ về các ngày lễ và có nhiều phần của bốn sách Tin lành thiếu. Vậy, chỉ có giá trị để so sánh với các bản khác. Theo ý Adler, bản nầy vốn được dịch từ thế kỷ IV đến thế kỷ VI.