Lịch sử. Histoire Biblique (theo Kinh Thánh).

        


      Lịch sử theo Kinh Thánh là những biến động chép ở đó để làm nền tảng cho phần đạo lý của Kinh Thánh (so Mác 10:2-9; Rô-ma 15:4; I Cô-rinh-tô 10:11). Có thể chia làm bốn:
       I. Chép về cuộc tạo thành vũ trụ.-- Bày tỏ sự can thiệp Ðức Chúa Trời với thế gian, và dẫn lịch sử loài người vào (Sáng thế ký 1:1-2:3). Cũng xem bài "Dựng nên trời đất" và bài "Sa-bát". Lẽ đạo lớn là Ðức Chúa Trời tức Ðấng Tạo Hóa và Chúa muôn vật. Ấy trái với phái vô thần (athéisme) và phái duy vật (matérialisme). Vì tỏ ra Ðức Chúa Trời có ngôi vị và toàn năng, nên Ngài tỏ mình ra cách siêu phàm trong lịch sử loài người như vậy là phải lẽ.
       II. Tóm tắt lịch sử loài người, tỏ ra sự can thiệp Ðức Chúa Trời với người, và dẫn lịch sử tuyển dân vào (Sáng thế ký 2:4-11:26). Những biến động trong cuộc nầy hầu hết được người ta chứng kiến nên có thể truyền lại. Từ nước lụt chia cuộc nầy làm hai phần, tức mười đời trước nước lụt kể từ đời A-đam đến hết đời Nô-ê; và mười đời từ Sem đến hết đời Áp-ra-ham (5:; 11:10-26). Trước nước lụt chép Chúa lập giao ước với A-đam, song loài người bội ước không vâng phục, cứ sa vào tội nên bị hình phạt bằng cơn nước lụt, chỉ gia đình Nô-ê được cứu. Sau nước lụt Chúa lập giao ước mới không điều kiện với Nô-ê, cũng ban mạng lịnh mới; loài người thêm nhiều, tự lập không chịu nhờ Chúa nên tháp Ba-bên bị Chúa phạt làm lộn xộn tiếng nói và tan lạc. Có chép gia phổ dòng Sết và Sem đến Áp-ra-ham, tỏ rõ nguyên gốc chung với các chi họ trên thế gian.
       Những sự kể trên xảy ra trong khu vực hai sông Hi-đê-ke (Tigre) và Ơ-phơ-rát, nay là Mê-sô-bô-ta-mi (Sáng thế ký 2:14; 8:4; 10:10; 11:2, 28). Từ nơi trung ương đó, loài người tản lạc khắp bốn phương, nhứt là về hướng Ðông và Tây Nam vì không bị phong tỏa bởi các núi lớn. Gần hết cuộc nầy, dân ở trên thế gian lan rộng từ Lý-hải (Mer Caspienne), núi Ê-lam và vịnh Ba-tư về phía Ðông, đến các cù lao Hy-lạp và bờ đối ngang Ðịa Trung Hải về phía Tây, và từ miền lân cận Hắc hải (mer Noire) về phía Bắc đến biển A-ra-bi phía Nam.
       Thời gian từ A-đam cho đến Áp-ra-ham tính rất ít là 1.946 năm, song có thể lâu hơn nhiều. Xem bài Niên hiệu. Thời kỳ nầy tuyệt nhiên không có phép lạ; Chúa có hiện ra dầu hiếm lắm (Sáng thế ký 3:8, v.v...), song rất là quan hệ trong lịch sử khải thị.
       Trong cuộc nầy, loài người tấn bộ trên đường văn minh. Chúa dựng nên người có tài năng, và truyền cho quản trị muôn vật. Loài người tiến từ địa vị không y phục, qua kỳ mặc áo lá và da (2:25; 3:7, 21), đến mặc vải dệt ra; từ thực phẩm là hoa quả tự mọc lên đến ăn thổ sản được bởi sự cày cấy và chăn nuôi (1:29; 4:2); từ những cơ sở không chắc đến các lều trại dời đây đó, các nhà lâu bền (4:17, 20), và các thành thị xây bằng gạch (11:3-4); từ gia đình đến các chi phái và lập nước (10:10); từ không dụng cụ đến chế ra các đồ dùng bằng kim khi và các nhạc khí (4:21-22). Trong cuộc nầy, chỉ một tiếng đơn sơ trở nên các thổ ngữ và tiếng khác nhau (10:5; 11:1, 6, 9). Người nhận biết bổn phận mình phải đồng đi với Ðức Chúa Trời, sống một đời thánh khiết (3:2, 3, 10; 4:7; 5:22; 6:9); phân biệt thú vật tinh sạch với không tinh sạch (7:2; 8:20); lập bàn thờ thờ phượng Chúa bởi của lễ có huyết và không huyết (4:3-4; 8:20); và cầu nguyện xưng Ðức Chúa Trời là Ðức Giê-hô-va (4:26). Song sự thờ lạy Chúa có suy đồi (6:2, 5), và sự thờ hình tượng càng lan rộng (Giô-suê 24:2). Xem các bài: Sáng thế ký, Ê-đen, A-đam, Sa-tan, Con rắn, A-bên, Ca-in, Hê-nóc, Nước lụt, Nô-ê, Ba-bên.
       III. Lịch sử tuyển dân, tỏ ra cách Ðức Chúa Trời đối xử với dân đó, và sửa soạn cho Ðấng Christ giáng thế. Từ Sáng thế ký 11:27 đến hết Cựu Ước. Cuộc nầy khác hẳn với cuộc trước vì nơi trung tâm từ trũng sông Tigre và Ơ-phơ-rát dời đến xứ Ca-na-an sau là Pha-lê-tin. Thời hạn cuộc nầy bắt đầu từ Áp-ra-ham sanh ra đến Chúa giáng thế, theo Ussher tính là 1.996 năm, song chưa chắc đã đúng.
       Khởi đầu cuộc nầy và mấy lần sau, trừ lối Chúa thường tỏ mình ra cho người tiên tri, Ngài cũng hiển hiện (théophanie). Cuộc nầy gồm ba trong bốn kỳ phép lạ lớn: khi Chúa giải phóng tuyển dân khỏi xứ Ai-cập và cho kiều ngụ ở xứ Ca-na-an nhờ Môi-se và Giô-suê dẫn dắt; khi có phấn đấu đến chết giữa sự thờ Ðức Giê-hô-va và Ba-anh trong thời Ê-li và Ê-li-sê; và khi tuyển dân làm phu tù tại xứ Ba-by-lôn: Ba kỳ phép lạ nầy cách quãng nhau hằng mấy thế kỷ, và trong các khoảng đó, rất hiếm phép lạ. 
       Cuộc lịch sử nầy có thể chia ra theo các bước tấn tới bề ngoài của tuyển dân Ngài.
       1. Một họ hàng trong xứ  Ca-na-an biệt lập với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Các tổ  phụ vừa làm thầy tế lễ vừa có trách nhiệm cai trị. Cứ xem bài Áp-ra-ham, Chiêm  Bao, Hiện Thấy, Théophanie, Mên-chi-xê-đéc, Y-sác, Gia-cốp.
             2. Một dân gồm 12 chi phái làm tôi mọi ở xứ Ai-cập lâu năm. Cứ xem bài Ê-díp-tô,  Phép lạ, Xuất Ê-díp-tô ký, Ma-ra, Ma-na, Chim cút, Rê-phi-đim.
             3. Một dân tộc được độc lập tại núi Si-na-i. Khi nhận giao ước Chúa và lấy luật pháp  làm điều lệ, Y-sơ-ra-ên trở nên một dân tộc. Ðức Giê-hô-va là Vua, từ đó Ngài ở  trong Ðền Tạm giữa dân sự, tỏ ý chỉ Ngài cho tiên tri và thầy tế lễ; và bởi những điều  luật Ngài tỏ ra, những án Ngài tuyên bố, và những người Ngài cắt cử, thì Ngài thi  hành quyền lập pháp, tư pháp và hành chính. Nay dân tộc là:
       a) Mười hai chi phái có tình anh em liên lạc với nhau, nhờ luật lệ Chúa đã lập và có  một nơi thánh chung (Xuất Ê-díp-tô ký 19:-I Sa-mu-ên 7:). Thầy tế lễ thượng phẩm là  tộc trưởng, có tiên tri và thỉnh thoảng những kẻ dắt dẫn giúp đỡ như Môi-se, v.v....  Xem bài Si-na-i, Théocratie, Hội mạc, Trại quân, Lê-vi ký.
       Bỏ núi Si-na-i, dân Y-sơ-ra-ên đến ngụ tại Ca-đe; vì thiếu đức tin quanh quẩn trong  đồng vắng 38 năm nữa. Xem bài Dân số ký, Ðồng vắng, Cô-rê. Họ đi vòng quanh xứ  Ê-đôm và qua sông Giô-đanh ở đầu trũngạ t-nôn. Sau họ xâm chiếm miền Ðông sông  Giô-đanh. Xem bài Si-hôn. Óc. Trại quân họ đóng ở trũng sông Giô-đanh. Xem bài  Si-tim, Ba-la-am, Ba-anh Phê-ô, Ma-đi-an, Phục truyền luật lệ ký. Khi Môi-se chết,  Y-sơ-ra-ên qua sông Giô-đanh, chiếm lấy xứ Ca-na-an. Giô-suê qua đời tại xứ đó, và  từng hồi có 15 người kế tiếp, dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên chống với kẻ thù và cai trị dân  mình. Xem bài Giô-suê, Ca-na-an, Si-lô, Các quan xét, I Sa-mu-ên, II Sa-mu-ên. Trong  kỳ các quan xét có lực lượng hiệp một hành động giữa dân sự, dường như quốc gia  thành lập và đôi khi tỏ sức mạnh song có khi dân sự bị chia rẽ bởi lòng ghen tương và  ích kỷ. Dầu vậy, cũng có mấy gương sáng về tin kính, song đi đôi có cảnh tượng một  dân sự dễ bị cám dỗ thờ hình tượng. Ngay lúc bắt đầu cuộc nầy, tại Ca-đe dân sự tỏ ra  thiếu đức tin; sau Cô-rê cùng phe mình phản loạn nghịch cùng chức tế lễ của A-rôn  và quyền chính trị tối cao của Môi-se, vậy tỏ ra các chi phái ghen ghét nhau; và dân  sự sa vào chước cám dỗ của Ba-an Phê-ô tỏ ra sẵn sàng sa vào tội thờ hình tượng. Hai  nhược điểm về chính trị trong cuộc nầy là Giô-suê kết ước cùng Ga-ba-ôn, và Y-sơ-ra-ên không chiếm cứ thành Giê-ru-sa-lem. Những sự sai lầm và khuyết điểm đó có  kết quả lâu dài trong lịch sử Y-sơ-ra-ên.
       b) Một nước quân chủ gồm 12 chi phái. Dầu yếu đuối như kể trên, nhưng vì các dân  tộc  xung quanh ngăm đe, nên Y-sơ-ra-ên thấy rất cần tổ chức, lập một chính phủ  mạnh, và một người chỉ huy quân đội. Sa-mu-ên đã già yếu, dân không nhờ Chúa liệu  sẵn, song đòi một vua riêng cho mình thay cho các quan xét mà trước  Chúa thường  dấy lên. Sau-lơ làm vua thứ nhứt, song từ khi sanh lòng kiêu ngạo và cướp quyền thầy  tế lễ và tiên tri, thì Chúa cất nước khỏi nhà người. Vì Sau-lơ cố ý trái với mạng lịnh  Chúa, Ngài chối bỏ người và chọn Ða-vít làm vua. Xem I, II Sa-mu-ên, Sau-lơ, Ða-vít.  Sau bảy năm dấy loạn, mười chi phái mới hiệp lại dưới quyền Ða-vít, chiếm lấy Giê-ru-sa-lem khỏi tay người Giê-bu-sít và lập làm kinh đô tôn giáo và chính phủ, bởi sự  chiếm lấy địa giới lan rộng ra cho đến phía Ðông bắc Ða-mách, và cũng cử người cai  trị xứ Ê-đôm. Xem bài Giê-ru-sa-lem. Sa-lô-môn kế vị Ða-vít, xây cất Ðền thờ và  trang hoàng Giê-ru-sa-lem đẹp hơn và thêm đồn lũy, và làm nổi danh Y-sơ-ra-ên. Sa-lô-môn đánh thuế nặng, dân sự phẩn uất. Khi Rô-bô-am lên kế vị, đánh thuế càng  nặng hơn nên mười hai chi phái dấy loạn cùng nhà Ða-vít. Xem bài Sa-lô-môn, Rô-bô-am và Y-sơ-ra-ên.
       c) Một nước quân chủ gồm phần lớn là chi phái Giu-đa, ấy vì mười chi phái dấy loạn  lập một nước bội đạo ở phía Bắc. Xem bài Y-sơ-ra-ên để biết duyên cớ. Nước Giu-đa  mạnh hơn: vì có vật chất giàu, có Kinh đô, có chính phủ tổ chức, và có sự thờ phượng  mà dân sự đã quen. Về đạo đức cũng mạnh hơn: vì có cảm biết giữ dòng vua chính,  có ảnh hưởng về sự thờ thật, có ý trung thành với Ðức Giê-hô-va, và có dòng vua tin  kính hơn. Cũng có Ðức Giê-hô-va coi sóc, là đã bảo tồn sự hiểu biết và sự thờ phượng  Ngài giữa loài người, và bởi thế đang dọn đường cho Ðấng Mê-si.
       Trong cuộc nầy, lịch sử tôn giáo nước Giu-đa tỏ ra có sự suy đồi trong đời Rô-bô-am  (I Các vua 14:22); trong đời A-bi-giam, con trai người (15:3); trong đời Giô-ram và A-cha-xia nữa (II Các vua 8:27). Duyên cớ là vì Sa-lô-môn đem sự bội đạo vào xứ lúc  cưới những vợ ngoại bang là người thờ lạy hình tượng. Như mẹ của Rô-bô-am là một  người Am-môn mà Sa-lô-môn xây một nơi cao thờ thần Minh-côm. Giô-ram là rể A-háp và Giê-sa-bên. Mỗi cuộc suy tàn đó lại có một cuộc cải lương theo sau: thứ nhứt  nhằm đời vua Giô-ách. Giô-ách sau cũng lìa bỏ Chúa, nên cần một cuộc phục hưng  nữa; song vì cớ ảnh hưởng xấu của vua A-cha lại có cuộc thờ hình tượng.
       Bấy giờ, người A-sy-ri bắt đầu xâm lấn trên người Hê-bơ-rơ. Vì nước chia rẽ, đã bại  hoại về đạo, nên không thể phòng giữ được; và trong đời A-háp, người A-sy-ri, bắt  đầu tiến quân vào xứ đến nỗi lật đổ nước phía Bắc. Xem bài Y-sơ-ra-ên, Sa-ma-ri,  Sa-gôn.
       d) Chỉ nước quân chủ Giu-đa còn đứng. Nay đến nước phía Nam cũng bị người A-sy-ri  tiến đánh, và sau đó có người Ba-by-lôn tiếp đánh. Xem bài Ê-xê-chia, San-chê-ríp,  Ma-na-se, Nê-bu-cát-nết-sa. Dầu có tiên tri lớn như Ê-sai, Giê-rê-mi và Mi-chê hành  chức để dẫn dân sự biết lẽ thật, nhưng dân sự cứ suy đồi về đạo. Trừ Ê-xê-chia và  Giô-si-a, các vua không bền đỗ trung tín với Ðức Giê-hô-va, và dân sự cũng vậy. Có  một phe trước trong đời A-cha đắc thắng cứ thờ hình tượng. Vì đã ăn sâu vào tâm trí  dân sự, nên sự  cải cách của mấy vua về sự thờ hình tượng chỉ bề ngoài, tạm thời thôi.  Người thờ tượng ngoại bang cũng nhập vào xứ nữa. Vậy, quốc dân trôi đến sự bại  vong. Trong khoảng 20 năm, đạo binh Nê-bu-cát-nết-sa mấy lần xông vào Giê-ru-sa-lem và bắt người Do-thái qua Ba-by-lôn làm phu tù, và Giê-ru-sa-lem bị chiếm rồi  thiêu chừng 587 T.C.. Vì không biết giữ những phần tử của sức mạnh quốc gia và cứ ở  dưới bóng Ðấng Chí Cao, nên dân Hê-bơ-rơ đã sa ngã vậy. Xem bài Giu-đa.
       4. Một dân chịu bắt phục. 
       a) Do-thái trong kỳ làm phu tù tại Ba-by-lôn. Xem bài Phu Tù.
       b) Do-thái trong xứ Pha-lê-tin. Năm thứ nhứt trong đời trị vì của Si-ru tại Ba-by-lôn,  538 T.C., vua ra chiếu chỉ cho phép người Do-thái trở về xứ Pha-lê-tin lập lại Ðền  thờ. Có 43.000 người cùng về với Xô-rô-ba-bên.
             (a) Bấy giờ xứ Giu-đa là một tỉnh thuộc đế quốc Ba-tư một nhược tỉnh "Bên kia sông",  và trải qua 200 năm như vậy. Hai lần Ba-tư chiều lòng dân Do-thái mà cắt cử tổng  đốc đồng xứ. Xem bài Xô-rô-ba-bên và Nê-hê-mi. Phần lớn thời kỳ nầy, quan chức  Ba-tư "Bên kia sông" sắp đặt các việc công dân, cử người cai trị dân Do-thái, song để  thầy tế lễ thượng phẩm cai trị trong địa phương đến nỗi lần lần được coi như là lãnh tụ  của tôn giáo và chính trị.
       Khi từ phu tù về, tức thì người Do-thái đặt móng Ðền thờ. Hai tiên tri A-ghê và Xa-cha-ri giục lòng, mặc dầu có sự ngăn trở và phản kháng. Ðền thờ cất xong năm 515  T.C. Nê-hê-mi được phép vuaạ t-ta-xét-xe năm 445 T.C. trông nom việc xây vách  thành Giê-ru-sa-lem. Xem bài Giê-ru-sa-lem. Ðồng thời, E-xơ-ra, thầy tế lễ, cũng ở  trong thành, sốt sắng khuyên dạy luật Ngài, để cho tôn giáo được dấy lên và trong  sạch. Xem bài E-xơ-ra và Kinh Thánh Công nhận. Năm 365 T.C. có hai anh em tranh  cạnh nhau về chức vị thầy tế lễ thượng phẩm, đến nỗi người nọ giết người kia trong  địa giới Ðền thờ. Bởi đó, Bagoses thống lãnh đạo binhạ t-ta-xét-xe Mnemon vào Ðền  thờ. Năm 334 T.C. Alexandre ở Ma-xê-đoan, vượt qua Hellespont (Dardanelels) đánh  đuổi các quan chức Ba-tư, cứ tiến quân và năm sau thắng trận, hoàng đế Ba-tư là Ða-ri-út Codomannus ở Issus, một đường hẹp gần góc Ðông Bắc Ðịa Trung Hải, đặt xứ  Sy-ri dưới chơn, mà vào thành Giê-ru-sa-lem. Sau một cuộc xâm lấn hầu tiếp tục, mở  rộng bờ cõi phía Ðông đến Punjab (Ấn Ðộ), Alexandre băng tại thành Ba-by-lôn 323  T.C.. Xem bài Alexandre.
             (b) Xứ Giu-đê phục Ai-cập. Khi Alexandre băng, xứ Pha-lê-tin sa vào tay người Sy-ri,  song Ptolémée Soter chiếm lấy năm 320 T.C., và dòng Ptolémée cứ giữ đến năm 198  T.C.. Năm đó, vì cớ sự ức hiếp người Giu-đa trốn đến cầu cứu Antiochus Lớn: Xem  bài Ptolémée. Trong 122 năm đó, đầu phục xứ Ai-cập, nhưng có thầy tế lễ thượng  phẩm cai trị. Vào thời nầy Kinh Thánh Cựu Ước Hê-bơ-rơ được dịch ra tiếng Hy-lạp  tại thành Alexandre, xứ Ai-cập. Xem bài Kinh Thánh, Các bản cổ.
             (c) Xứ Giu-đê phục Sy-ri. Antiochus Lớn chiếm Pha-lê-tin khỏi tay người Ai-cập, năm  198 T.C.. Người Sy-ri chẳng những giúp phe Hy-lạp giữa dân Do-thái thử làm cho dân  đó đồng hóa với người Hy-lạp, song  cũng cố ép dân Do-thái thờ hình tượng. Một số  dân Do-thái tin kính, không chịu sự ức hiếp của người Sy-ri, nên theo họ Macchabées  nổi loạn năm 166 T.C.. Xem bài Antiochus.
       Nhờ họ Macchabées, dòng thầy tế lễ kiêm chức vua, có một thời dân Do-thái độc lập.  Xem bài Macchabées. Thời đó từ 166 T.C., cho đến khi hoàng đế La-mã, Pompée,  chiếm lấy Giê-ru-sa-lem năm 63 T.C.; song họ Macchabées được phép giữ ngôi cho  đến 40 T.C. là năm Hê-rốt Lớn được Nghị viện La-mã cử làm  vua xứ Giu-đê. Hê-rốt  thật bắt đầu trị vì khi thành Giê-ru-sa-lem bị chiếm 37 T.C.. Trong thời nầy, người  Pha-ri-si và Sa-đu-sê trở nên hai phái có tiếng, có ảnh hưởng lớn về chính trị và tôn  giáo. Xem bài Pha-ri-si, Sa-đu-sê, Tòa Công luận.
             (d) Xứ Giu-đê phục La-mã. Trong cuộc nầy, đế quốc La-mã cử những người cai trị xứ  Giu-đê; trước là Hê-rốt Lớn, kế đến A-chê-la-u, và sau các quan tổng đốc, trừ 41-44  S.C. khi Hê-rốtạ c-ríp-ba I làm vua chư hầu. Xem bài Giu-đê, Hê-rốt, Tổng đốc.  Chính thể nhu nhược của những quan chức đó xui giục dân phẩn khích và nổi loạn.  Vậy, từ 66 đến 70 S.C. vẫn có chiến tranh gay go cho đến Giê-ru-sa-lem bị phá. Dân  Do-thái còn sót lại ở xứ Pha-lê-tin không có phép đến kinh thành nữa, và quốc gia  không còn.  Trong khi người Do-thái còn đang là một nước dưới quyền đế quốc La-mã  trong đời Hê-rốt làm vua, Jêsus ở Na-xa-rét sanh ra tại Bết-lê-hem và một cuộc mới  trong lịch sử Kinh Thánh bắt đầu.
       IV. Lịch sử lập Hội Thánh Ðấng Christ.--
       1. Ðấng Christ bởi gương sáng, sự dạy dỗ về việc cứu chuộc lập Hội Thánh để hết  thảy mọi dân tộc thế gian được cứu. Xem bài Jêsus, Tin Lành, Sứ đồ.
       2. Hội Thánh giữa dân Do-thái. Ðấng Christ phục sanh, trước khi lên trời lập Hội  Thánh. Mười ngày sau, đến ngày Lễ Ngũ Tuần, Thánh Linh đã hứa được ban xuống,  và công việc Hội Thánh khai trương bởi bài giảng của Phi-e-rơ, thêm số tín đồ, và lễ  Báp-têm. Xem bài Lễ Ngũ Tuần, Thánh Linh, Lưỡi, Báp-têm, Hội Thánh. Trong vài  năm sau, có lẽ 6 năm, Hội Thánh gặp sự khó vì tín đồ yếu đuối và sự bắt bớ, nhưng  tấn tới về phần tinh khiết và thêm số tín đồ. Xem bài A-na-nia, Chấp sự, Ê-tiên. Khi  Ê-tiên tử vì đạo, sự bắt bớ làm tín đồ tan lạc, và khởi sự truyền Tin lành cho người  Do-thái trong xứ Pha-lê-tin và Sy-ri. Vậy, Tin lành tràn đến xứ Sa-ma-ri và các thành  trên bờ Ðịa Trung Hải từ Ga-xa đến Sê-sa-rê. Xem bài Phi-líp. Sau-lơ đi lên đường về  thành Ða-mách để bắt bớ tín đồ Do-thái tại đó, song trở lại đạo, Chúa dùng người làm  Sứ đồ cho dân ngoại. Sự hiện thấy của Phi-e-rơ tại Giốp-bê, Cọt-nây trở lại đạo và  chịu báp-têm bằng Ðức Thánh Linh, hai điều đó mở mắt Hội Thánh về lẽ thật: Ðức  Thánh Linh ban cho hết thảy các tín đồ bất cứ người Do-thái hay người Hy-lạp. Xem  bài Cọt-nây. Tại An-ti-ốt, những tín đồ Do-thái bị đuổi từ Giê-ru-sa-lem bởi sự bắt bớ  lúc Ê-tiên chết, bắt đầu giảng về Jêsus cho người Hy-lạp nữa (Công vụ các sứ đồ  11:20), vàbây giờ tín đồ Ðấng Christ được gọi là Cơ-rê-tiên, không phải tín giáo Do-thái nữa. Khi ấy Hội Thánh nhận trách nhiệm giảng đạo cho dân ngoại, biết lẽ thật:  trước mặt Chúa ai nấy như nhau, thì một người được lập lên để giảng cho người ngoại;  vậy việc đầu tiên của Hội Thánh đã bắt đầu rồi.
             3. Hội Thánh giữa người Do-thái và người ngoại. Phao-lô và Ba-na-ba được Ðức  Thánh Linh sai đi khởi sự truyền đạo cho người Do-thái và người ngoại ở xứ Tiểu A-si. Hội nghị thành Giê-ru-sa-lem quyết định lập sự tự do cho tín đồ ngoại bang không  cần phải chịu cắt bì và theo luật lệ Môi-se, chỉ ép phải làm mấy việc bổn phận đạo  đức, cần nói rõ vì cớ quan niệm công chứng. Các quyền lợi tín đồ ngoại bang vì thế  được chắc chắn. Trong cuộc lưu hành truyền đạo thứ hai, Phao-lô ở Trô ách được Ðức  Thánh Linh gọi đến Âu Châu, từ thành Phi-líp đến thành La-mã. Xem bài Phao-lô,  Giăng, Phi-e-rơ.
       Mục đích Kinh Thánh trước nhứt không chú trọng việc chép cả lịch sử loài người,  song chỉ chép đủ để làm nền tảng cho đạo lý Chúa. Công việc các nhà khảo cổ trong  thế kỷ vừa qua và nay đã tìm nhiều di tích trong xứ thánh, Ba-by-lôn, Ai-cập, v.v...,  đều làm chứng lịch sử chép trong Kinh Thánh là đúng. Xem bài Niên hiệu.

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.