Luật pháp Môi-se. Loi de Moise (trên chữ i có hai dấu chấm).

       


      Luật pháp trong Kinh Thánh thật bắt dầu khi Chúa phán dạy trong vườn Ê-đen cho A-đam: "Chớ hề ăn đến cây biết điều thiện và điều ác, vì một mai ngươi ăn chắc sẽ chết" (Sáng thế ký 2:17). Song luật pháp Môi-se, Chúa ban cho Môi-se tại núi Si-na-i như có chép trong Xuất Ê-díp-tô ký, Lê-vi ký, Dân số ký và Phục truyền luật lệ ký. Phần luật pháp đạo đức là mười điều răn, từ miệng Chúa phán dạy: cả dân Y-sơ-ra-ên dưới núi; bấy giờ có "sấm vang chớp nhoáng, một áng mây mịt mịt, tiếng kèn thổi vang đồng... khắp núi Si-na-i đều ra khói vì Ðức Chúa Trời ở trong lửa giáng lâm nơi đó, đòi Môi-se lên", v.v... (Xuất Ê-díp-tô ký 19:). Vậy, ban đầu luật pháp của Môi-se là miệng phán, sau lần lần dùng bút ghi chép mà thành ra văn. Vì năm sách đầu trong Kinh Thánh chép nhiều về luật pháp nên gọi là năm sách luật pháp.
       I. Can thiệp với thời dĩ vãng.--
             a) Ðể hiểu biết chính đáng luật pháp Môi-se, phải nhớ luật pháp hoàn toàn nhờ giao ước Chúa đã lập 430 năm trước với Áp-ra-ham, nên rập theo giao ước đó (Ga-la-ti 3:17-24). Giao ước đó gồm "lời hứa" thuộc linh về Ðấng Mê-si, là lời hứa cho người Do-thái như là đại biểu cả loài người. Cũng gồm lời hứa vật chất đặc biệt ban riêng cho dân Do-thái như là một dân tộc. Vậy, luật pháp cũng thế, có hai tính cách đi đôi với nhau: điều răn và lễ nghi.
             b) Luật pháp can thiệp với lời hứa thì rõ lắm. Sự tin Ðức Chúa Trời là Ðấng cứu chuộc nhân loại, và hy vọng Ðức Chúa Trời sẽ tỏ ra trong ngôi vị của Ðấng Mê-si, thì buộc phải tin Quyền phép Thiêng liêng là trổi hơn hết cả mọi sự phản đối của xác thịt và trong người có một phần tử thuộc linh có thể nhờ sự thông công với Thánh Linh từ trên cao mà cai trị đời sống. Song ấy cũng gồm ý người phải được cứu chuộc khỏi một Quyền Ác phản đối, đang ở trong mỗi người và trong cả thế gian.
             c) Nên chú ý về thời kỳ trong sử ký mà luật pháp Môi-se được ban cho. Ấy vì lúc đó tỏ ra và chỉ định Y-sơ-ra-ên từ địa vị chi phái qua địa vị dân tộc, và bắt đầu giữ phần nhứt định về ảnh hưởng và công việc trong sử ký thế gian.
             d) Nhưng, dầu về ý kiến chung luật pháp Môi-se là mới, song có lẽ không phải hết cả tài liệu là mới. Chắc trước lập luật pháp, trong khi Y-sơ-ra-ên còn đang mở mang cần phải có những mạng lịnh và khải thị từng hồi, từng lúc để cho Y-sơ-ra-ên biết vâng phục. Vậy, khi nào hiệp với những mục đích của luật Giu-đa, chắc có thể tìm dấu tích của thói tục Pha-lê-tin và luật Ai-cập trong luật pháp Môi-se.
       đ) Liên lạc chặt chẽ với ý trên, có khi luật pháp được sửa đổi để hiệp với tình hình và cảnh ngộ người Y-sơ-ra-ên, như Chúa Jêsus nói đến trong việc để vợ ngăn trở điều răn được trọn (Ma-thi-ơ 19:7-8). Nên nói, có khi luật pháp thà sửa đổi theo những thói quen đang làm hơn là thật Chúa bảo làm; vả lại, vì cớ có khi không rõ luật pháp vốn có thể nào, thì sanh ra ý sai lầm trái với luật đó nữa. Cũng nên chú ý: mỗi phần luật pháp Môi-se được bày tỏ quan hệ bao nhiêu, thì hiệp với cuộc mở mang của Y-sơ-ra-ên bấy nhiêu. Vậy, phần lễ nghi của luật pháp được chép rất rõ và từng việc; phần đạo đức và phần định tội quyết định rất rõ và nghiêm nhặt; và phần công dân (civil) khi can thiệp với cá nhân thì sắp đặt giữ trật tự. Vì ba phần đó được lập bởi sự mở mang qua rồi của dân, nên có cần để nhứt định và mở mang phương kế của Y-sơ-ra-ên. Song so sánh với các phần khác, phần luật pháp về chính trị và lập hiến không hoàn toàn: Vì chỉ lập ít nguyên lý quan hệ để sau được mở mang. Song ý phần đó cho phép những quyền trong chính phủ hơn là chỉ định và giữ lối hành động của phần luật đó.
             e) Cũng nên nhận xét lối luật pháp dần dần tỏ ra cho Y-sơ-ra-ên. Trong Xuất Ê-díp-tô ký 20:-23: liên lạc trực tiếp với sự khải thị tại núi Si-na-i, Chúa cho Môi-se chép cách long trọng những điều cốt yếu trong luật pháp, và dân sự công nhận đó. Trong Xuất Ê-díp-tô ký 25:-31: cũng có một đại cương như thế về phần lệ tiết của luật pháp Môi-se. Nhờ hai đại cương đó thì luật pháp Môi-se dần dần thêm lên tùy theo những sự cần dùng trong các đời. Vậy, lần thứ nhứt, luật pháp được chép hơi đầy đủ là trong sách Phục truyền luật lệ ký. Song lúc đó chưa hết. Các tiên tri còn sau có việc bổn phận sửa đổi và giải nghĩa những điều đặc biệt trong luật pháp (Ê-xê-chi-ên 18:) để tỏ càng rõ hơn những nguyên tắc của luật pháp.
       II. Phân tích.--
       Ðể phân tích tài liệu của luật pháp thì chia ra như sau:
1. Luật Công Dân
       A. Về người.
             a) Cha và con.-- Quyền người cha được coi là thánh: rủa sả hay đánh (Xuất Ê-díp-tô ký 21:15, 17; Lê-vi ký 20:9), hoặc cứng đầu, cố ý không vâng lời, ấy là những tội xử tử. Song quyền nhứt định sống hay chết dường như không ở nơi cha, chỉ hội chúng có thôi (Phục truyền luật lệ ký 21:18-21). Quyền con trưởng nam được hưởng một phần cơ nghiệp gấp đôi không có thể bị cất đi vì cớ tây vị (Phục truyền luật lệ ký 21:15-17). Con gái có thể hưởng cơ nghiệp miễn là không có con trai (Dân số ký 27:6-8 so 36:), và con gái đó gả cho một người đồng chi phái. Con gái chưa cưới gả phải hoàn toàn phục cha mình (Dân số ký 30:3-5).
             b) Chồng và vợ.-- Quyền của chồng là lớn đến nỗi trước luật pháp, người vợ không có quyền riêng, hay là tự tiện hứa nguyện dầu ở trước mặt Chúa cũng vậy (Dân số ký 30:6-15). Một bà góa hay là bị để thì được độc lập, không phải phục quyền cha lần nữa (Dân số ký 30:9). Có phép ly dị (vì không tinh sạch), song phải làm cách trọng thể và không hề đổi (Phục truyền luật lệ ký 24:1-4). Phép hôn phối với người bà con kia bị cấm (Lê-vi ký 18:). Vợ là tôi mọi, hoặc mua hoặc bị bắt, không phải coi là của bị bán được; nếu bị bạc đãi thì bởi đó được tự do (Xuất Ê-díp-tô ký 21:7-9; Phục truyền luật lệ ký 21:10-14). Phạm đến danh giá một người vợ trinh tiết, phải phạt nộp tiền và không được phép ly dị; trái lại nếu người vợ đã phạm sự ô uế trước khi cưới, phải phạt xử tử (Phục truyền luật lệ ký 22:13-21). Ðể sanh dòng, nối danh (loi lévirat) một người vợ góa có quyền đòi nếu người em chồng không chịu, thì bị xấu hổ ấy cốt để bảo tồn một họ (Phục truyền luật lệ ký 25:5-10).
             c) Chủ và tôi mọi.-- Quyền chủ bị hạn chế, đánh chết tôi mọi liền theo tay, chủ bị phạt (Xuất Ê-díp-tô ký 21:20); và làm tổn thương thì tôi mọi được tự do ra không (Xuất Ê-díp-tô ký 21:26-27). Vào năm Sa-bát các tôi mọi Hê-bơ-rơ được thả và được chu cấp mọi điều cần (vợ con cũng được thả, nếu đã cùng đến với tôi mọi đó hầu việc chủ) trừ ra tôi mọi tình nguyện làm trọn đời vậy (Xuất Ê-díp-tô ký 21:1-6; Phục truyền luật lệ ký 15:12-18). Bất cứ thể nào, vào năm hân hỉ tôi mọi với vợ con được thả (Lê-vi ký 25:10). Nếu bán cho một khách ngoại bang kiều ngụ, thì lúc nào cũng có thể chuộc được bằng một giá thuận hiệp với thời gian kể đến năm hân hỉ (Lê-vi ký 25:47-54). Có phép giữ các tôi mọi ngoại bang và hưởng như một cơ nghiệp mãi (Lê-vi ký 25:45-46); và các tôi mọi từ ngoại quốc trốn đến thì không được nộp lại cho chủ (Phục truyền luật lệ ký 23:15).
             d) Khách lạ.-- Dường như không bao giờ có phép trước luật pháp hoặc binh vực mình, bởi thế phải che chở và đối đãi tử tế với họ như là bổn phận thánh (Xuất Ê-díp-tô ký 22:21; Lê-vi ký 19:33-34).
       B. Về vật.
             a) Luật về Ðất và Tài sản.-- Cả đất thuộc quyền sở hữu một mình Ðức Chúa Trời, và người có đất chỉ là người thuê của Ngài (Lê-vi ký 25:23). Ðến năm hân hỉ đất đã bán lại trở về nguyên chủ, và giá bán là tính theo đó; có thể chuộc lại bất cứ lúc nào (Lê-vi ký 25:23-27). Một nhà đã bán có thể chuộc lại hạn trong một năm, nếu hết hạn không chuộc thì hoàn toàn về tay người mua (Lê-vi ký 25:29-30). Song những nhà của người Lê-vi hoặc nhà nào trong các làng không có vách tường bọc lấy, bất cứ lúc nào đều có thể chuộc được như cách chuộc đất vậy. Những ruộng đất thuộc về thành người Lê-vi không được bán (25:31-34). Ðất hoặc các nhà đã biệt ra thánh, phần mười hoặc súc vật đầu lòng không sạch đều có thể được chuộc thêm một phần năm giá, tính bởi thầy tế lễ theo thời hạn đến năm hân hỉ. Nếu nguyên chủ bởi lời hứa nguyện dâng cho Chúa, đến năm hân hỉ không chuộc thì được kể là thánh mãi mãi và dâng cho các thầy tế lễ. Nếu chỉ bởi một người có đất thì đến năm hân hỉ sẽ trở về nguyên chủ (Lê-vi ký 27:14-34). Cơ nghiệp để lại theo trật tự sau nầy: con trai, con gái, anh em, chú bác bên nội, đến các người thân thích khác.
             b) Luật về tiền nợ.-- Ðối với người Y-sơ-ra-ên, hết cả mọi món nợ đến năm thứ VII (Sa-bát) thì được giải thích. Kẻ nào vâng lời thì có hứa ban phước cho; và có lời rủa sả trên người nào từ chối không cho mượn (Phục truyền luật lệ ký 15:1-11). Cho vay nặng lãi (về phần người Y-sơ-ra-ên) thì không được (Xuất Ê-díp-tô ký 22:25-27; Phục truyền luật lệ ký 23:19-20). Của cầm không được đòi lãi nặng hoặc vô phép (Phục truyền luật lệ ký 24:6, 10-13, 17, 18).
             c) Luật về Thuế.--
             1) Tiền nộp khi điểm số (một nửa siếc-lơ) dùng vào việc hội mạc (Xuất Ê-díp-tô ký 30:12-16). Hết cả của cướp tại trận phải chia đôi về nửa phần thuộc chiến sĩ phải trích ra một phần năm trăm về nửa phần thuộc dân sự, phải trích ra một phần năm mươi làm "của lễ giơ lên" cho Ðức Giê-hô-va.
             2) Phần mười.-- Phải nộp một phần mười thổ sản để trợ cấp người Lê-vi (Dân số ký 18:20-24). Phải trích một phần mười về thuế đó làm của lễ giơ lên để trợ cấp các thầy tế lễ (Dân số ký 18:24-32). Phải dâng phần mười thứ hai cho những ngày lễ và bố thí, hoặc ở nơi thánh, hoặc cứ ba năm ở nhà (Phục truyền luật lệ ký 14:22-28). Bông trái ngũ cốc đầu mùa, rượu và dầu (ít nhất một phần sáu mươi, thường lệ là một phần bốn mươi cho các thầy tế lễ) dâng tại thành Giê-ru-sa-lem, với một lời tuyên bố nghiêm trang mình phục thuận Ðức Chúa Trời là Vua dân Y-sơ-ra-ên (Phục truyền luật lệ ký 26:1-15; Dân số ký 18:12-13). Súc vật tinh sạch đầu lòng; tiền chuộc (năm siếc-lơ) người; và loài vật không sạch dâng cho thầy tế lễ sau khi đã dâng làm của lễ (Dân số ký 18:15-18).
             3) Luật cho người nghèo.-- Mót ở trong ruộng hoặc vườn, là ơn luật ban cho người nghèo (Lê-vi ký 19:9-10; Phục truyền luật lệ ký 24:19-22). Coi như lỗi nhẹ, khi ăn tại chỗ ngay luật cho phép (Phục truyền luật lệ ký 23:24-25). Phần mười thứ hai để bố thí như nói trên. Công giá trả từng ngày (Phục truyền luật lệ ký 24:15).
             4) Trợ cấp các thầy tế lễ (Dân số ký 18:8-32).-- Phần mười của thuế dâng cho người Lê-vi. Của lễ giơ lên và đưa qua đưa lại cũng vậy. Của lễ chay và chuộc tội phải ăn cách nghiêm trang trong nơi thánh mà thôi. Trái đầu mùa và tiền chuộc. Giá mọi đồ vật biệt riêng ra thánh, trừ ra dùng đặc biệt cho việc thánh. Việc một người làm hoặc gia đình người đó, được chuộc năm mươi siếc-lơ cho đàn ông, ba mươi cho đàn bà, hai mươi cho con trai và mười cho con gái.
2. Luật Ðịnh Tội.
       A. Xúc phạm đến Ðức Chúa Trời (bởi cách phản bội).
       Ðiều răn thứ nhứt: Biết có tà thần (Xuất Ê-díp-tô ký 22:20), như Mô-lóc (Lê-vi ký 20:1-5), và cách chung mọi đời thờ hình tượng (Phục truyền luật lệ ký 13:; 17:2-5).
       Ðiều răn thứ hai: Bùa ếm và tiên tri giả (Xuất Ê-díp-tô ký 22:18; Phục truyền luật lệ ký 18:9-22; Lê-vi ký 19:31).
       Ðiều răn thứ ba: Phạm thượng (Lê-vi ký 24:15-16).
       Ðiều răn thứ tư: Phạm ngày Sa-bát (Dân số ký 15:32-36).
       Hình phạt các tội đó là ném đá cho chết, và các thành thờ hình tượng bị tận diệt.
       B. Xúc phạm đến người.
       Ðiều răn thứ năm: Không vâng phục hoặc rủa sả hay đánh cha mẹ (Xuất Ê-díp-tô ký 21:15, 17; Lê-vi ký 20:9; Phục truyền luật lệ ký 21:18-21) phải bị phạt ném đá chết, cả hội chúng xử và khép án; không vâng phục các thầy tế lễ như quan án hoặc Ðấng Ðoán xét Chí Cao. So I Các vua 21:10-14 (Na-bốt); II Sử ký 24:21 (Xa-cha-ri).
       Ðiều răn thứ sáu:
             1) Giết người, phải phạt xử tử, không thể nhờ nơi thánh, đình lại, bồi thường mà khỏi được (Xuất Ê-díp-tô ký 21:12, 14; Phục truyền luật lệ ký 19:11-13). Giết tôi mọi, ngay dưới ngọn roi, phải phạt (Xuất Ê-díp-tô ký 21:20-21).
             2) Chết gây nên bởi sự chểnh mảng phải phạt xử tử (Xuất Ê-díp-tô ký 21:28-30).
             3) Vô ý giết người, phải chạy trốn vào một nơi ẩn náu cho đến thầy tế lễ thượng phẩm qua đời, để khỏi kẻ báo thù huyết (Dân số ký 35:9-28; Phục truyền luật lệ ký 4:41-43; 19:4-10).
             4) Một vụ án mạng không biết thủ phạm, những trưởng lão thành rất cần phải chối cách tỏ tường và dâng của lễ (Phục truyền luật lệ ký 21:1-9).
             5) Tội đánh trọng thương, phải phạt báo phục hình hoặc đền sự tai hại (Xuất Ê-díp-tô ký 21:18, 19, 22-25; Lê-vi ký 24:19-20).
       Ðiều răn thứ bảy:
             1) Tà dâm, cả hai người can phạm đều phải phạt xử tử; kẻ lăng nhục một người đờn bà mới cưới hay cưới gả, phải phạt xử tử (Phục truyền luật lệ ký 22:13-27).
             2) Hòa dụ và nằm với gái đồng trinh chưa hứa gả, phải bồi thường tức là phải cưới người đó, nộp tiền sánh lễ (50 siếc-lơ) và không có phép ly dị; nếu cha nàng từ chối không gả thì phải nộp hoàn toàn sính lễ (Xuất Ê-díp-tô ký 22:16-17; Phục truyền luật lệ ký 22:28-29).
             3) Hôn phối trái luật (loạn dâm, v.v...) phải phạt hoặc chết hoặc phải tuyệt tự (Lê-vi ký 20:).
       Ðiều răn thứ tám:
             1) Trộm cắp, phải phạt bồi thường gấp bốn hoặc gấp đôi; người ăn trộm ban đêm có thể bị giết (Xuất Ê-díp-tô ký 22:1-4).
             2) Làm hư hại vật gì mượn phải thường lại (Xuất Ê-díp-tô ký 22:5-15).
             3) Làm bại hoại sự công bình bởi của hối lộ hoặc ngăm đe, v.v..., nhứt là hà hiếp khách ngoại bang, đều bị cấm tuyệt (Xuất Ê-díp-tô ký 23:1-9, v.v...).
             4) Bắt cóc phải phạt xử tử (Phục truyền luật lệ ký 24:7).
       Ðiều răn thứ chín:
       Làm chứng dối, phải phạt báo phục hình (Xuất Ê-díp-tô ký 23:1-3; Phục truyền luật lệ ký 19:16-21). Nói vu cho một người vợ trinh tiết, phải phạt tiền và mất quyền ly dị (Phục truyền luật lệ ký 22:13-19).
       Ðiều răn thứ mười:
       Dầu trước luật pháp không thấy phạt gì, song trong lịch sử Y-sơ-ra-ên chép tội tham lam bị phạt như trong Giô-suê 7:25 bị phạt ném đá chết. Cũng xem II Các vua 5:22-27, phạt phung.
       Cũng xem bài Mười Ðiều răn.
3. Luật Tư Pháp Và Lập Hiến.
       A. Quyền xử án.
             a) Quan án địa phương, thường là người Lê-vi thì rất thạo luật pháp, được cử ra xét các việc thường, có lẽ cử bởi dân sự hiệp với sự ưng chuẩn quyền cao cả (như Môi-se trong đồng vắng) Xuất Ê-díp-tô ký 18:25; Phục truyền luật lệ ký 1:15-18; được cử thế suốt cả xứ (Phục truyền luật lệ ký 16:18).
             b) Chống án đến các thầy tế lễ, tại nơi thánh, hoặc đến quan xét, những lời tuyên án đó là cuối cùng và phải chịu, nếu không phạt chết. Xem Phục truyền luật lệ ký 17:8-13 so chống án đốn Môi-se (Xuất Ê-díp-tô ký 18:26).
             c) Ít nhứt phải có hai người chứng trong các tội đáng xử tử (Dân số ký 35:30; Phục truyền luật lệ ký 17:6-7).
             d) Sự hình phạt (ngoại trừ mạng lịnh đặc biệt), chỉ thuộc cá nhơn, chớ không lây đến cả gia đình (Phục truyền luật lệ ký 24:16). Ðánh đòn có phép song hạn chế (Phục truyền luật lệ ký 25:1-3), vậy để tránh sự phạm đến cơ thể người.
       Hết thảy những điều kể trong khúc trên có thể bãi bỏ:
       1. Bởi quyền xử án của vua (xem I Sa-mu-ên 22:11-19, Sau-lơ; II Sa-mu-ên 12:1-5; 14:4-11; I Các vua 3:16-28), rộng đến nỗi có thể cất chức thầy tế lễ thượng phẩm (I Sa-mu-ên 22:17-18; I Các vua 2:26-27). Trong II Sa-mu-ên 15:2-6 thấy có khi khó làm vậy nên vua phải cử đại biểu thay quyền mình.
       2. Bởi sự cắt cử bảy mươi người có quyền phán xét của tôn giáo (Dân số ký 11:24-30). Ðời sau có Hội Công luận ở địa phương số hội viên là 23, lập trong mỗi thành, và có hai hội đó ở Giê-ru-sa-lem với Hội Công luận Lớn cùng 70 hội viên, ngoài ra còn có chủ tọa cần phải là thầy tế lễ thượng phẩm có quyền kiểm soát cả vua và thầy tế lễ thượng phẩm. Những hội viên là các thầy tế lễ, thầy thông giáo (người Lê-vi), và trưởng lão của các chi phái khác. Giô-sa-phát cắt cử một hội Công luận như thế (II Sử ký 19:8-11).
       B. Quyền của vua.
       Quyền của vua hạn chế bởi luật pháp như đã chép và được vua công nhận cách tỏ tường; và cấm trực tiếp chế độ độc đoán (Phục truyền luật lệ ký 17:14-20; so I Sa-mu-ên 10:25). Dầu vậy vua có quyền đánh thuế (một phần mười); bắt người hầu việc mình (I Sa-mu-ên 8:10-18); khai chiến (I Sa-mu-ên 11:) v.v.... Có chứng cớ vua có khi lập giao ước với dân mình (II Sa-mu-ên 5:3; so II Các vua 11:17); dân sự oán trách Rô-bô-am không phải là lạ (I Các vua 12:1-6).
       Các quan trưởng của hội chúng. Các trưởng lão của mười hai chi phái (Giô-suê 9:15) dường như có quyền hành động cho dân sự (so I Sử ký 27:16-22), và đời sau "các quan trưởng Do-thái" dường như có quyền kiểm soát cả vua và thầy tế lễ (Xem Giê-rê-mi 26:10-24; 38:4-5, v.v...).
       C. Hoa lợi của vua.
             1) Thu một phần mười sản vật.
             2) Ðất thuộc vua (I Sử ký 27:26-29). Tịch thâu đất kẻ có tội (I Các vua 21:15).
             3) Quyền sai khiến dân làm việc (I Các vua 5:16-18), nhứt là các kẻ ngoại bang kiều ngụ (I Các vua 9:20-22; II Sử ký 2:16-17).
             4) Bầy chiên và đàn bò (I Sử ký 27:29-31).
             5) Của cống hiến từ các vua nước ngoài.
             6) Thương mãi, nhứt là trong đời Sa-lô-môn (I Các vua 10:22, 29,v.v...).
4. Luật Về Tôn Giáo Và Lễ Nghi.
       A. Luật dâng của lễ.
       Coi như là dấu và cách chỉ định để dân sự hiệp một với Ðức Chúa Trời, mà nhờ đó dân sự được thánh khiết.
             1. Các Của Lễ Thường.--
                   a) Cả Của lễ Thiêu (Lê-vi ký 1:) thuộc bầy chiên hoặc bò; phải dâng luôn (Xuất Ê-díp-tô ký 29:38-42); và lửa trên bàn thờ chẳng hề tắt (Lê-vi ký 6:8-13).
                   b) Của lễ chay (Lê-vi ký 2:; 6:14-23) bằng bột lọc, dầu, và nhũ hương, không pha men nhưng phải nêm muối.
                   c) Của lễ thù ân (Lê-vi ký 3:; 7:11-21), thuộc bầy chiên hoặc bò; hoặc của lễ tạ ơn, hoặc hứa nguyện, hoặc lạc hiến.
                   d) Của lễ chuộc tội, hoặc của lễ mắc lỗi (Lê-vi ký 4:; 5:; 6:) cho những tội không biết phạm (Lê-vi ký 4:), cho hứa nguyện sơ ý và thất hẹn, hoặc sự ô uế đã mắc lấy song trước không ngờ (Lê-vi ký 5:).
                   đ) Cho tội biết phạm (Lê-vi ký 6:1-7).
             2. Các của lễ Bất thường.--
                   a) Khi phong chức các thầy tế lễ (Lê-vi ký 8:; 9:).
                   b) Khi làm lễ tinh sạch cho đờn bà (Lê-vi ký 12:; 14:).
                   c) Khi làm lễ tinh sạch cho người phung (Lê-vi ký 13:).
                   d) Khi ngày Ðại lễ chuộc tội (Lê-vi ký 16:).
                   đ) Khi làm lễ trong các ngày lễ trọng (Lê-vi ký 23:).
       B. Luật về sự Thanh sạch.
       Là sự thanh sạch nhờ của lễ để hiệp một với Ðức Chúa Trời mà được.
       1) Sự Thanh sạch của Người.--
             a) Sự thánh khiết của cả dân, như "con cái Ðức Chúa Trời" (Xuất Ê-díp-tô ký 19:5-6; Lê-vi ký 11:-15:; 17:; 18:; Phục truyền luật lệ ký 14:1-21). Ấy được tỏ ra trong 5 điều: Dâng con đầu lòng (Xuất Ê-díp-tô ký 13:2, 12, 13; 22:29-30) v.v... và dâng các súc vật đầu lòng và trái đầu mùa (Phục truyền luật lệ ký 26:, v.v...); Phân biệt đồ ăn bởi thú vật sạch và không sạch (Lê-vi ký 11:; Phục truyền luật lệ ký 14:); lo liệu và sự được thanh sạch (Lê-vi ký 12:; 13:; 14:; 15:; Phục truyền luật lệ ký 23:1-14); Luật cấm làm hình đạng xấu đi (Lê-vi ký 19:27; Phục truyền luật lệ ký 14:1; so với Phục truyền luật lệ ký 25:3 nghịch với sự đánh đòn thái quá); Luật cấm các hôn phối trái phép và tà dâm (Lê-vi ký 18:; 20:).
             b) Sự thánh khiết của các thầy tế lễ và người Lê-vi.-- Ấy tỏ ra trong ba điều: Sự biệt riêng và phong chức (Lê-vi ký 8:; 9:; Xuất Ê-díp-tô ký 29:); tư cách đặc biệt xứng đáng và những sự hạn chế (Lê-vi ký 21:; 22:1-9); những quyền lợi (Phục truyền luật lệ ký 18:1-6; Dân số ký 18:), và quyền phép (Phục truyền luật lệ ký 17:8-13).
       2) Sự thánh sạch các nơi và vật.--
             a) Ðền tạm với hòm giao ước, cái màn, các bàn thờ, thùng bằng đồng, các áo thầy tế lễ, v.v... (Xuất Ê-díp-tô ký 25:-28:; 30:).  
             b) Nơi thánh, nơi được chọn để dựng Ðền tạm (Phục truyền luật lệ ký 12:; 14:22-29), chỉ tại nơi đó có thể dâng các của lễ, phần mười, trái đầu mùa, v.v. để dâng hoặc ăn.
       3) Sự Thánh sạch của các kỳ lễ.--
             a) Ngày Sa-bát (Xuất Ê-díp-tô ký 20:9-11; 23:12, v.v.).
             b) Năm Sa-bát (Xuất Ê-díp-tô ký 23:10-11; Lê-vi ký 25:1-7, v.v.).
             c) Năm Hân hỉ (Lê-vi ký 25:8-16, v.v.).
             d) Lễ Vượt qua (Xuất Ê-díp-tô ký 12:3-27; Lê-vi ký 13:4-14).
             đ) Lễ các tuần lễ (Lễ Ngũ Tuần, Lê-vi ký 23:15, v.v.).
             e) Lễ Lều tạm (Lê-vi ký 23:33-43).
             g) Lễ Thổi kèn (Lê-vi ký 23:23-25).
             h) Ngày Ðại lễ Chuộc tội (Lê-vi ký 23:26-32).
       III. Về tính cách riêng của luật pháp.-
       Nguyên tắc chủ động cho toàn thể luật pháp Môi-se là Thần Quyền. Ấy vì dẫn mọi công việc và tư tưởng của loài người hiệp với ý muốn của Ðức Chúa Trời một cách trực tiếp và liền ngay. Bởi thế, không thể chỉ coi là một bộ luật, tức khuôn phép xử thế, lập trên lẽ thật đã từng biết và quyền đã công nhận, song cũng phải coi là một sự khải thị về bổn tánh Ðức Chúa Trời và cách Ngài giao thiệp với loài người. Song tính cách Thần Quyền của luật pháp cần phải nhờ lòng tin của Ðức Chúa Trời, không phải chỉ là Ðấng Tạo Hóa và Ðấng Nâng đỡ thế gian, song nhờ giao ước riêng cũng là Ðấng đứng đầu quốc dân Do-thái. Chúa thật là Vua được tỏ rõ là nền tảng của cả chính thể dân đó. Vì luật pháp Môi-se có Thần Quyền như thế, nên có thể giải đoán bốn điều sau nầy:
       a) Ý luật pháp đối với chính trị dân Ngài.-- Luật pháp Môi-se lập nền tảng của chính sách mình, nhứt, nhờ quyền độc nhứt của Ðức Chúa Trời, nhì, nhờ sự can thiệp của từng người với Ðức Chúa Trời và bởi Ðức Chúa Trời với đồng bào. Ấy là lẽ đạo thật rõ, vì dầu không trái với thuyết lý nào thường có, nhưng làm nền tảng cho hết cả.
       b) Quyền bao gồm của Luật pháp.-- Vì đến ngay từ Ðức Chúa Trời và dẫn trực tiếp đến Ngài nên tự nhiên có quyền cao cả độc nhứt vô hạn. Luật đó có quyền cao hơn những người cai trị vì họ chỉ là đại biểu Ðức Chúa Trời nên luật pháp không chịu để họ thi hành quyền độc đoán nào. Cũng thế, luật pháp có quyền cao cả trên người bị cai trị, không nhận bản quyền nào tự cá nhân nghịch cùng hoặc hạn chế luật pháp. Luật đó điều khiển cả đời sống của một người Y-sơ-ra-ên. Công việc người được thưởng hay bị phạt theo một cách rất cẩn thận và nghiêm nhặt; lại hiệp với mẫu mực không phải của công hiệu song của giá trị đạo đức thật. Sự thờ phượng Chúa của người cũng chỉ định và dạy bảo bởi một lễ nghi sắp đặt cẩn thận và hằng có.
       c) Những sự phạt tỏ ra quyền luật pháp.-- những sự phạt thưởng mà luật pháp nhờ để hành động đều do Thần quyền trực tiếp. Ðối với việc cá nhơn, thì thấy rằng những sự phạt thường từ người bề dưới, ít khi thấy từ người có chức cao cấp; cũng vậy, giữa Y-sơ-ra-ên những sự phạt thường từ tay người, và có khi từ sự sắp đặt của Chúa. Dễ hiểu, điều cốt yếu trên có can thiệp với vấn đề: Ngũ kinh tỏ ra sự sống đời sau không? Phạm vi của luật pháp bởi người lập không thể sánh với phạm vi luật pháp Chúa lập bởi Môi-se, vì cớ sự eo hẹp đó, sự phạt của luật pháp có khi trong đời nầy không đủ, nên còn phải nhờ đến sự báo ứng của sự công bình không dò được của Chúa sẽ hành động cách đặc biệt trong đời sau. Vậy dầu luật pháp Môi-se không chép trực tiếp về sự sống đời sau, nhưng xét ra có thể biết thật có.
       d) Tánh hạnh mà luật pháp dạy cho dân sự.-- Chắc công hiệu rất quan hệ về tính cách Thần quyền của luật pháp là đặc tánh của sự tốt lành mà luật pháp dạy cho dân sự. Luật pháp Môi-se bắt đầu dạy sự tin kính là mục đích thứ nhứt, để dạy rất rõ sự thánh sạch cần yếu cho những người, bởi sự hiệp một với Chúa, đã tìm lại được hi vọng của sự tốt lành thật; và coi sự công bình và tình yêu thương là công hiệu từ sự tin kính và sự thánh sạch kể trên không phải lập riêng. Sự khuyên không phải nhờ đến thể diện của người, song nhờ đến sự thông công bắt buộc phải có với Ðức Chúa Trời Thánh. Vậy, ý thứ nhứt phải phục tòng ý thứ nhì đó, và chừng nào giữ sự thông công với Chúa thì các bổn phận khác tự nhiên cứ giữ chỗ mình trong sự hòa hiệp đúng phép. Song trong sự thi hành luật pháp, ý riêng cá nhơn và quốc dân về sự thánh khiết dần dần chiếm phần thắng hơn sự giao thông với Chúa, bởi thế sanh đặc tánh dân Do-thái vậy. Dầu vậy, chắc luật pháp Môi-se cốt ý gìn giữ sự sống biệt riêng của dân đó theo ý định của Chúa.
       IV. Quan hệ với tương lai.-- Khi xem xét sự can thiệp luật pháp với tương lai, nên nhờ nguyên tắc chung ở trong Hê-bơ-rơ 7:19; "Luật pháp không làm trọn chi hết". Nguyên tắc nầy sẽ được ứng dụng trong ba thứ bậc khác nhau, như sau nầy: a) Lịch sử sau của dân Do-thái trước Ðấng Christ giáng thế. b) Lúc Chúa giáng thế. c) Thời đại truyền Tin Lành.
             a) Trong thời kỳ sau lập luật pháp là chìa khóa để hiểu lịch sử của dân Do-thái. Dầu có khi dân sự bất tuân luật và quên, nhưng luật còn là mẫu mực dân sự cố ý bỏ mà cũng luôn luôn quay về. Bởi vậy, nhờ luật pháp mới có mọi sự gì đặc biệt trong tính cách cá nhân và quốc dân Do-thái. Ảnh hưởng trực tiếp luật pháp có lẽ lớn nhứt trong các đời trước khi lập quốc và sau khi làm phu tù tại Ba-by-lôn. Công việc cuối cùng của Giô-suê là lấy luật pháp làm hiến pháp sau khi dân Y-sơ-ra-ên đã chiếm lấy xứ Ca-na-an mà ở (Giô-suê 24:24-27); và trong thời kỳ vô chính phủ của các Quan-xét, chỉ có luật pháp và Hội mạc mới là nơi trung tâm về sự hợp nhứt của quốc gia. Vì dân sự khó chịu như thế, thì đòi một vua lập nền quân chủ; cũng như có khi vì không nhịn nhục đủ thì chìm trong tội thờ hình tượng. Sau khi nước chia hai vua Giê-rô-bô-am và các người kế vị nước Y-sơ-ra-ên nhứt định từ bỏ nguyên tắc chủ động của luật pháp; ấy là khởi đầu suy đồi lần lần vào tội thờ hình tượng như người ngoại đạo. Trái lại, vì cớ bị phân chia, trong nước Do-thái thì giảm bớt sự sang trọng của vua, và tỏ ra rất cần một nguyên tắc để cho quyền lực cao hơn về phần vật chất của Y-sơ-ra-ên được dấy lên. Bởi đó, một lần nữa, luật pháp được thêm sự tôn trọng và ảnh hưởng. Sau khi Y-sơ-ra-ên từ phu tù về, luật pháp càng được thêm lên nữa.
       Vì mất quyền độc lập và không có tiên tri, cả hai dẫn người Do-thái phải quay về nhờ một mình luật pháp vì ấy bảo toàn quốc gia và cũng dẫn đến lẽ thật cách chắc chắn. Sức lực phấn đấu với dân Sy-ri trong đời họ Macchabée là bởi lòng ưa thích luật pháp chớ không phải chỉ lòng ái quốc mà thôi. Vì thắng hơn dân Sy-ri và vì người Lê-vi cầm quyền, thì dân Do-thái ưa luật pháp càng hơn. Vậy luật pháp trở nên một ảnh hưởng lớn nắn nên tánh nết người Do-thái. Phe Pha-ri-si lợi dụng lòng ưa đó để mở rộng ảnh hưởng luật pháp hơn, đến nỗi trở nên như sự thờ hình tượng. Có hai sức phản động với ảnh hưởng đó:
                   1. Phe Pha-ri-si được lập để dạy sự yêu kính và hầu việc Ðức Chúa Trời là cao trọng hơn và biệt lập khỏi luật pháp và sự hình phạt đó.
                   2. Phe Essenes thử dứt dây bó buộc của luật pháp chiếu lệ, và tỏ ra luật pháp dạy cách đầy đủ về sự tự do và tinh sạch.
             b) Về luật pháp can thiệp với Chúa giáng thế, Phao-lô chép luật pháp là đầy tớ dẫn con đến Giáo sư thật là Ðấng Christ (Ga-la-ti 3:24); và "Ðấng Christ là sự cuối cùng của luật pháp" (Rô-ma 10:4). Vì bổ trợ cho lời hứa Chúa, nên khi lời hứa được ứng nghiệm lúc Chúa giáng thế, luật pháp đã đạt tới mục đích rồi.
       Có cần luật pháp để gìn giữ đức tin về Thần quyền của dân Do-thái. Sự ngăn trở đầu nhứt của đức tin đó là dân sự khó thông hiểu sự hiện diện không thấy được của Ðức Chúa Trời và nhận biết sự thông công với Ðức Chúa Trời là Ðấng vô hạn, nhưng không chà nát và nuốt những vật thọ tạo hữu hạn. Song khi Ðức Chúa Trời giáng thế thật trở nên một người thấy được thì sự khó đó không còn nữa.
       Về mặt đạo đức, luật pháp tự mình tỏ ra là tạm thời và thiếu thốn. Luật pháp đã xưng rằng lẽ thật với sự tốt lành cầm quyền trên ý muốn người, và tự nhiên coi như trong người có thần để nhận biết quyền đó; song không làm gì thêm nữa. Vậy, luật pháp đã khám phá rằng có tội là trái với ý muốn của Ðức Chúa Trời và bổn tánh loài người buổi ban đầu; song cũng tỏ ra sự phản đối cực điểm về quyền của tội trong lòng người từ khi sa ngã (Rô-ma 7:7-25). Luật pháp can thiệp với Ðấng Christ về phương diện hi sinh và tế lễ, xem bài Của hi sinh và bài Lễ chuộc tội.
             c) Vấn đề thường luận đến là: Luật pháp Môi-se bó buộc hoặc còn tồn tại trong thời đại truyền đạo Tin Lành bao nhiêu? Trước Ðấng Christ, luật pháp cũng không nên bao giờ được nhìn nhận là một cách để được xưng công bình và cứu chuộc; từ khi Chúa giáng thế càng không nên coi như vậy. Vấn đề còn lại là: dầu không nhờ để được cứu, nhưng tín đồ Ðấng Christ còn bị bó buộc bởi luật pháp không? Chắc đủ rõ, quyền bó buộc trước của luật pháp đã tận cùng khi thời đại Giu-đa mãn. Suốt cả luật pháp vẫn can thiệp với giao ước Chúa lập cùng dân Do-thái, và với hiến pháp, thói tục và cảnh ngộ riêng của dân đó. Giao ước đó đã dự bị cho giao ước mới của tín đồ Ðấng Christ; những thói quen và cảnh ngộ đã qua rồi. Cho nên, bởi thế, sự bó buộc của luật pháp tự nhiên cũng đã qua rồi.
       Vậy, lời Chúa phán: "Ta đến, không phải để phá luật pháp, song để làm cho trọn", và "một chấm một nét trong luật pháp cũng không qua đi được" (Ma-thi-ơ 5:17-18), là nghĩa làm sao? Vả lại, vì lời đó Hội Thánh Ðấng Christ tôn trọng luật pháp, và luật pháp đó vẫn có ảnh hưởng lớn trên những vấn đề của tôn giáo Ðấng Christ, cắt nghĩa thế nào? Sự dường như mâu thuẫn đó được giải nghĩa bởi sự khác nhau giữa quyền ép buộc và quyền đạo đức của luật pháp. Vậy, cần phải chú ý khảo cứu mới phân biệt phần địa phương và tạm thời của luật pháp với phần phổ thông, và phần hình thức với phần cốt yếu của từng mạng lịnh.
       Tiến sĩ Scofield chú thích về luật pháp như sau nầy:
       Xuất Ê-díp-tô ký 18:19.-- Vì thấy Môi-se xét đoán dân sự thật khó nhọc quá nên đây Giê-trô khuyên Môi-se nên tổ chức việc xét đoán trong dân. Giê-hô-va không nhận biết sự tổ chức theo sự khôn ngoan thế gian nầy, song lập sự trật tự riêng Ngài thay thế cho. Xem Dân số ký 11:14-17.
       Xuất Ê-díp-tô ký 19:1.-- Tại núi Si-na-i, Y-sơ-ra-ên học những bài:
       1. Về sự thánh khiết của Ðức Giê-hô-va bởi các điều răn.
       2. Về tội lỗi và sự yếu đuối mình bởi khuyết điểm.
       3. Và về sự tốt lành Ngài bởi sắm sẵn chức tế lễ và của hi sinh.
       Tín đồ học bởi sự từng trải Rô-ma 7:7-24 điều Y-sơ-ra-ên đã học tại núi Si-na-i. Khi đọc phần Xuất Ê-díp-tô ký 19:-50: phải nhờ sự sáng của Rô-ma 3:19-26; 7:7-24; Ga-la-ti 4:1-3; Ga-la-ti 3:6-25 giải nghĩa sự can thiệp của luật pháp với giao ước Chúa lập cùng Áp-ra-ham:
             1. Luật pháp không thể hủy trọn giao ước đó.
             2. Luật pháp "đã đặt thêm" để làm cho người biết tội.
             3. Luật pháp là người dẫn con trẻ đến Ðấng Christ.
             4. Luật pháp chỉ là một qui củ "cho tới chừng nào người dòng dõi đến".
       Xuất Ê-díp-tô ký 19:3.-- Thật rất cần nhận xét:
             1. Ðức Giê-hô-va nhắc cho dân sự nhớ từ trước đến nay đã được hưởng ân điển tự do của Ngài.
             2. Luật pháp không phải ban bố để cho được sự sống, song là một phương pháp để Y-sơ-ra-ên có thể trở nên "cơ nghiệp riêng của Ngài" (Thi Thiên 135:4), và "một nước thầy tế lễ" (Xuất Ê-díp-tô ký 19:6).
       3. Luật pháp không bắt buộc cho đến khi ban bố và dân sự đã tình nguyện tiếp nhận. Ga-la-ti 5:1-4 cắt nghĩa rõ nguyên lý đó.
       Xuất Ê-díp-tô ký 19:5.-- So với I Phi-e-rơ 2:9; Khải Huyền 1:6; 5:10. Ðiều gì theo luật là một điều kiện, theo ân điển là điều ban cho mỗi tín đồ cách nhưng không. Chữ "nếu" (câu 5) là thể yếu của luật pháp theo phương cách Chúa giao thiệp với người, và là lý cớ cốt yếu "luật pháp không làm trọn chi hết" (Rô-ma 8:3; Hê-bơ-rơ 7:18-19). Giao ước với Áp-ra-ham (Sáng thế ký 15:18), và Giao Ước Mới (Hê-bơ-rơ 8:8-12) đều bảo lãnh sự cứu rỗi vì chỉ có một điều kiện tức là đức tin.
       Xuất Ê-díp-tô ký 19:8.-- Thời đại thứ năm là Luật pháp. Thời đại nầy hạn dài từ núi Si-na-i đến chỗ Sọ, tức từ Ê-díp-tô cho đến thập tự. Sử ký Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng và trong xứ Ca-na-an là một bài dài thuật những sự phạm luật pháp. Chúa dùng luật pháp thử dân sự cho đến khi họ bị đoán phạt làm phu tù, song chính thời đại luật pháp mới tận cùng nơi thập tự.
             1. Ðịa vị của Y-sơ-ra-ên lúc mới lập luật pháp (Xuất Ê-díp-tô ký 19:1-4).
             2. Trách nhiệm (Xuất Ê-díp-tô ký 19:5-6; Rô-ma 10:5).
             3. Khuyết điểm (II Các vua 17:7-17, 19; Công vụ các sứ đồ 2:22-23).
             4. Sự đoán phạt (II Các vua 17:1-6, 20; 25:1-11; Lu-ca 21:20-24).
       Xuất Ê-díp-tô ký 20:4.-- Có ba lần luật pháp được ban cho. Thứ nhứt, bằng lời phán trong Xuất Ê-díp-tô ký 20: 1-17. Ðây là luật pháp thuần túy, không có sắm sẵn chức tế lễ và của hy sinh để tha sự phạm phép, và theo sau có những sự "đoán phạt" (Xuất Ê-díp-tô ký 21:1-23:13) chép về các sự giao thiệp giữa người Hê-bơ-rơ với nhau; thêm vào đó (Xuất Ê-díp-tô ký 23:14-19) có chỉ dẫn phải giữ ba lễ trọng hằng năm, và những sự phải làm để chiếm lấy xứ Ca-na-an (Xuất Ê-díp-tô ký 23:20-33). Những lời nầy Môi-se thông cáo cho dân sự (Xuất Ê-díp-tô ký 24:3-8). Ngay lúc đó, nhờ các trưởng lão, dân sự được phép thông công với Ðức Chúa Trời (Xuất Ê-díp-tô ký 24:9-11). Thứ hai, Môi-se được gọi lên để nhận lãnh hai bảng luật bằng đá (Xuất Ê-díp-tô ký 24:12-18). Sự tích kế đó chia ra. Môi-se trên núi nhận các sự dạy dỗ đầy ơn về Ðền tạm, chức tế lễ, và của hy sinh (Xuất Ê-díp-tô ký 25:-31:). Trong lúc đó (Xuất Ê-díp-tô ký 32:) dân sự theo A-rôn dẫn dắt, phạm điều răn thứ nhứt. Môi-se trở về thấy vậy, đập hai bảng "bởi ngón tay Ðức Chúa Trời viết ra" (Xuất Ê-díp-tô ký 31:18; 32:16-19). Thứ ba, hai bảng thứ hai được làm lại, và Môi-se ghi chép luật pháp trong sự hiện diện của Ðức Giê-hô-va (Xuất Ê-díp-tô ký 34:1, 28, 29).
       Xuất Ê-díp-tô ký 32:10.-- Cả quang cảnh nầy tỏ sự khác nhau giữa luật pháp và ân điển. So sự cầu thay của Môi-se nầy với sự cầu thay của Ðấng Christ (Giăng 17:). Y-sơ-ra-ên là một dân tộc đang chờ đợi được ưng thuận (Xuất Ê-díp-tô ký 19:5-6); các tín đồ dưới ân điển là một gia đình đang chờ đợi sự vinh hiển (Giăng 20:17; Rô-ma 5:1-2). Tín đồ có một "Ðấng cầu thay ở bên hữu Ðức Chúa Cha", mà của lễ chuộc tội Ngài chẳng hề mất công hiệu (I Giăng 2:1-2), Môi-se nhờ một giao ước để xin (Xuất Ê-díp-tô ký 32:13); Ðấng Christ chỉ về một của lễ (Giăng 17:4).
       Giê-rê-mi 7:22.-- Nên chú ý về luật pháp được ban cho ba lần. Xem lời chú thích Xuất Ê-díp-tô ký 20:4. Mạng lịnh về của lễ thiêu và các của lễ không được ban cho dân sự cho đến khi đã phạm mười điều răn, luật của sự vâng lời.
       Ma-thi-ơ 5:7.-- Xem bài luận về sự quan hệ Ðấng Christ với Luật pháp.
       Rô-ma 3:31.-- Lúc xưng tội, tội nhơn làm chứng luật pháp được dùng phải lẽ và tôn trọng, và bởi đó nhận biết luật pháp lên án cách công bình. Ðấng Christ cũng làm chứng như thế cho luật pháp, vì đã thế tội nhơn chịu sự hình phạt của luật pháp, tức sự chết. Xem Ma-thi-ơ 5:17-18.
       Rô-ma 6:15.-- Sự quan thiệp cũ với luật và tội, và sự quan thiệp mới với Ðấng Christ và sự sống đều được thí dụ bởi sự kết quả của sự chết đang làm tôi mọi (6:16-23), và hôn nhơn (7:1-6).
       1. Sự làm tôi mọi cũ dường như cho luật, song vì luật không có quyền giải cứu, nên tội vẫn làm chủ thật trong bổn tánh người. Cuối cùng là sự chết. Luật không có thể cho sự sống, và "tội" (đây chỉ về người cũ) tự mình tới sự chết. Nhưng có một lối chết khác tức là sự cùng đóng đinh với Ðấng Christ, đã xen vào (5:6) để giải thoát người khỏi làm tôi mọi của tội (5:6-7) và luật (7:4, 6).
             2. Kết quả nầy của sự chết cũng được thí dụ bởi đờn bà góa. Sự chết buông tha khỏi luật lệ hôn nhơn (7:1-3). Như sự chết buông tha vợ khỏi luật chồng, cũng vậy sự cùng đóng đinh vơi Ðấng Christ buông tha tín đồ khỏi luật pháp. Xem Ga-la-ti 3:24, lời chú thích.
       Rô-ma 7:21.-- Trong thơ La-mã có thể phân biệt sáu luật: luật Môi-se, lên án (3:19); "luật" như là một nguyên tắc (3:21); luật của đức tin, chối bỏ sự tự xưng công bình (3:27); luật của tội trong các chi thể, thắng hơn luật trong trí (7:21, 23, 25); luật trong trí, chịu phục luật Môi-se song không làm theo được vì cớ luật của tội trong chi thể (7:16, 23); và "luật của Thánh Linh" có quyền giải cứu tín đồ khỏi luật tội trong chi thể mình, và giải cứu lương tâm khỏi sự lên án bởi luật Môi-se. Vả lại, Ðức Thánh Linh hành động trong người tín đồ vâng phục chính sự công bình mà luật Môi-se đòi (8:2, 4).
       Ga-la-ti 1:13.-- Vì thời đại mới của ân điển đã đến rồi, nếu cứ còn làm theo luật pháp Môi-se, ấy chỉ trở nên "giáo Do-thái" mà thôi.
       Ga-la-ti 3:19.-- Câu trả lời có năm phần:
       1. Luật pháp đã đặt thêm vì cớ những sự phạm phép tức là cho tội lỗi như sự phạm phép.
             a) Trước Môi-se, loài người có phạm tội, song vì cớ không có luật pháp, những tội đó không được kể cho người (Rô-ma 5:12); luật pháp cho tội lỗi là sự phạm phép nghĩa là tội lỗi riêng của mỗi người.
             b) Vả lại, vì người không những cứ phạm tội sau khi luật được ban cho, song cũng bị cám dỗ phạm tội bởi chính luật pháp cấm mình phạm (Rô-ma 7:8), bởi thế luật pháp làm chứng cách trọn vẹn về bổn tánh tội lỗi của người (Rô-ma 7:11-13).
       Vậy nên, luật pháp nói "hết thảy mọi người đều đã phạm tội" (so Rô-ma 3:19, 20, 23).
             2. Luật pháp là thời gian trong khi chờ đợi "Người dòng dõi đến" (Ga-la-ti 3:23).
             3. Luật pháp nhốt tội nhơn chờ đức tin là cách duy nhứt để thoát khỏi sự canh giữ của luật pháp (Ga-la-ti 3:23).
             4. Luật pháp đối với người Do-thái như là thầy giáo trong một gia đình Hy-lạp, là thầy dạy bảo con trẻ lúc còn thơ ấu, và luật cứ giữ tính cách đó dẫn ta đến Ðấng Christ (Ga-la-ti 3:24).
             5. Ðấng Christ đến nên tín đồ không còn cần ở dưới quyền thầy giáo đó nữa (Ga-la-ti 3:25).
       Ga-la-ti 3:25.-- "Thầy giáo", nguyên văn Hy-lạp là paidagogos tức là "người dẫn dắt con". Giữa người Hy-lạp và La-mã xưa, ấy là những người, phần nhiều là tôi mọi, có trách nhiệm dạy dỗ và đi kèm bên cạnh các con trai đến chừng trưởng thành. Vấn đề Phao-lô luận không chú trọng về quyền thầy giáo là gì và rộng bao nhiêu song chú trọng về thiệt sự quyền đó hoàn toàn bãi bỏ khi con trẻ trở nên một người trưởng thành (Ga-la-ti 4:1-6). Con trưởng thành tình nguyện làm điều mà trước kia đã làm vì sợ thầy giáo; nếu không làm, cũng không còn quan thiệp với thầy giáo (tức luật pháp), song với Cha (tức Ðức Chúa Trời). So Hê-bơ-rơ 12:5-10; I Giăng 2:1-2.
       Ga-la-ti 4:19.-- Hình bóng nầy (câu 22-31) nói với những tín đồ đã được xưng công bình song chưa hoàn toàn (I Cô-rinh-tô 3:1-2), là những người chịu ảnh hưởng các giáo sư dạy luật, "ưa phục dưới luật pháp". Vậy thì hình bóng đó không chỉ về một tội nhơn đang tìm được xưng công bình. Vấn đề nầy nêu lên và trả lời lần thứ năm trong thơ nầy: Người tín đồ còn ở dưới luật pháp không? (Ga-la-ti 2:19-21; 3:1-3; 3:25-26; 4:4-6; 4:9-31).
       Ga-la-ti 3:24.-- Tóm tắt luật pháp Môi-se.
       1. Giao ước Môi-se ban cho Y-sơ-ra-ên có ba phần:
             a) Các điều răn, bày tỏ ý muốn công bình của Ðức Chúa Trời (Xuất Ê-díp-tô ký 20:1-26).
             b) Những "sự phán xét", cai trị đời sống trong xã hội Y-sơ-ra-ên (Xuất Ê-díp-tô ký 21:1-24:11).
             c) Và những "mạng lịnh", cai trị đời sống đạo đức của Y-sơ-ra-ên (Xuất Ê-díp-tô ký 24:12-31:18).
       2. Những điều răn và mạng lịnh họp thành một khối hoàn toàn không thể chia được. Khi một người Y-sơ-ra-ên phạm tội, nếu dâng của lễ cần đến, thì được kể là "không tì vít" (Lu-ca 1:6; Phi-líp 3:6).
       3. Luật pháp là một cách Chúa đối đãi với người, tỏ ra thời đại từ khi ban luật pháp cho đến khi Chúa Jêsus chết (Ga-la-ti 3:13, 14, 23, 24).
       4. Các giáo sư dạy luật pháp (Công vụ các sứ đồ 15:1-31; Ga-la-ti 2:1-5) thử pha lộn luật pháp với ân điển như là cách Chúa làm trong thời đại ân điển hiện tại, ấy tỏ rõ sự quan thiệp thật của luật với tín đồ Ðấng Christ.
       Lẽ đạo Ðấng Christ về luật pháp:
       1. Luật pháp trái với ân điển. Dưới ân điển, Chúa ban sự công bình mà dưới luật pháp Ngài đã đòi (Xuất Ê-díp-tô ký 19:5; Giăng 1:7; Rô-ma 3:21; 10:3-10; I Cô-rinh-tô 1:30).
       2. Luật pháp tự mình là thánh, công bình, tốt lành, và thuộc linh (Rô-ma 7:12-14).
       3. Theo luật pháp, cả thế gian mắc tội, nên luật pháp bất đắc dĩ phải hành chức vụ định tội, tử hình, và lời rủa sả của Ngài (Rô-ma 3:19; II Cô-rinh-tô 3:7-9; Ga-la-ti 3:10).
       4. Ðấng Christ gánh lời rủa sả và cứu chuộc tín đồ khỏi cả lời rủa sả và quyền cai trị của tội (Ga-la-ti 3:13; 4:5-7).
       5. Luật pháp không xưng tội nhơn là công bình, cũng chẳng làm cho tín đồ nên thánh (Ga-la-ti 2:16; 3:2, 3, 11, 12).
       6. Tín đồ chết cho luật pháp và được cứu chuộc khỏi đó nữa, đến nỗi không thuộc dưới luật pháp, song dưới ân điển (Rô-ma 6:14; 7:4; Ga-la-ti 2:19; 4:4-7; I Ti-mô-thê 1:8-9).
       7. Dưới giao ước mới của ân điển nguyên lý của sự vâng theo ý chỉ Chúa được hành động trong lòng (Hê-bơ-rơ 10:16). Ðời sống tín đồ cách xa khỏi sự bất phục của ý riêng, đến nỗi "ở dưới luật pháp của Ðấng Christ" (I Cô-rinh-tô 9:21), và luật pháp mới của Ðấng Christ (Ga-la-ti 6:2; II Giăng 5) làm thỏa lòng; và bởi Ðức Thánh Linh ngự trong lòng, sự công bình của luật pháp được làm trọn trong người (Rô-ma 8:2-4; Ga-la-ti 5:16-18). Những điều răn dùng cách đặc biệt trong Kinh Thánh như là một sự dạy dỗ về sự công bình (II Ti-mô-thê 3:16; Rô-ma 13:8-10; Ê-phê-sô 6:1-3; I Cô-rinh-tô 9:8-9).

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.