Tên nầy chỉ chép một lần trong Ma-thi-ơ 15:39. Trong Mác 8:10, cũng chép là Ða-ma-nu-tha. Vậy nhờ hai khúc sách nầy, ta biết Ma-ga-đan và Ða-ma-nu-tha là hai địa phận lân cận. Sau khi đã hóa bánh cho bốn ngàn người ăn, Chúa Jêsus cùng các môn đồ đến nơi nầy. Từ đó, qua bờ bên kia (Mác 8:13) đến thành Bết-sa-đa, rồi từ đó Chúa đến thăm thành Sê-sa-rê Phi-líp. Nay Ma-ga-đan là el-Mejdel một làng ở góc Tây Nam đồng bằng Ghê-nê-sa-rết, dưới chơn đồi cao chừng 120 thước. Ai nấy đều tin rằng Ma-ga-đan là nơi Ma-ri Ma-đơ-len sanh trưởng. Tên nầy gợi ý rằng đây là nơi một "mighdăl" tức là một "tháp" hay một "đồn lũy" của người Hê-bơ-rơ xưa. Nay làng đó và di tích cổ thuộc giáo hội La-mã. Có một nhóm người Giu-đa mua nơi đó và cày cấy. Theo người Giu-đa, chữ megaddelá dùng để chỉ một người đờn bà tóc quấn tức là lối vấn tóc của những người nữ buông lung, xấu nết.
Ma-ga-đan. Magadan.
Tên nầy chỉ chép một lần trong Ma-thi-ơ 15:39. Trong Mác 8:10, cũng chép là Ða-ma-nu-tha. Vậy nhờ hai khúc sách nầy, ta biết Ma-ga-đan và Ða-ma-nu-tha là hai địa phận lân cận. Sau khi đã hóa bánh cho bốn ngàn người ăn, Chúa Jêsus cùng các môn đồ đến nơi nầy. Từ đó, qua bờ bên kia (Mác 8:13) đến thành Bết-sa-đa, rồi từ đó Chúa đến thăm thành Sê-sa-rê Phi-líp. Nay Ma-ga-đan là el-Mejdel một làng ở góc Tây Nam đồng bằng Ghê-nê-sa-rết, dưới chơn đồi cao chừng 120 thước. Ai nấy đều tin rằng Ma-ga-đan là nơi Ma-ri Ma-đơ-len sanh trưởng. Tên nầy gợi ý rằng đây là nơi một "mighdăl" tức là một "tháp" hay một "đồn lũy" của người Hê-bơ-rơ xưa. Nay làng đó và di tích cổ thuộc giáo hội La-mã. Có một nhóm người Giu-đa mua nơi đó và cày cấy. Theo người Giu-đa, chữ megaddelá dùng để chỉ một người đờn bà tóc quấn tức là lối vấn tóc của những người nữ buông lung, xấu nết.