Mác. Marc.

        


      Mác, người chép sách Tin lành, chắc là một với "Giăng cũng gọi là Mác" (Công vụ các sứ đồ 12:12, 25). Giăng là tên Do-thái, và Mác (Macus), tiếng La-tinh nghĩa là búa lớn) là một tên quen thuộc đặt giữa người La-mã. Tên thứ hai nầy có lẽ đặt lúc Mác ở thành An-ti-ốt với Phao-lô và Ba-na-ba, và tỏ ra là công dân La-mã như Phao-lô. Giăng Mác là con một bà tên là Ma-ri ở thành Giê-ru-sa-lem (Công vụ các sứ đồ 12:12), và là anh em chú bác với Ba-na-ba (Cô-lô-se 4:10). Khi Phi-e-rơ được cứu ra khỏi ngục thì đến nhà quen biết là nhà bà Ma-ri (Công vụ các sứ đồ 12:12), và "có nhiều người đang nhóm lại cầu nguyện" tại đó. Dường như Phi-e-rơ gặp Mác trong nhà nầy và đem Mác trở lại đạo, nên có chép "Mác là con tôi" (I Phi-e-rơ 5:13). Không có bằng cớ Mác là một trong 70 môn đồ được Chúa sai đi, song chắc "người trẻ tuổi kia theo Ngài, chỉ có cái khăn bằng gai trùm mình, khi sắp bị bắt thì "bỏ khăn lại, ở truồng chạy trốn", ấy là Mác (Mác 14:51-52). Mác giấu tên chỉ chép một sự mình từng biết rất rõ.
       Mác sốt sắng về công việc Chúa, theo Phao-lô và Ba-na-ba là kẻ hầu việc trong cuộc lưu hành truyền đạo lần thứ nhứt; song tới thành Bẹt-giê lìa hai người trở về (Công vụ các sứ đồ 12:25; 13:13). Tại sao? Chắc không phải vì nhớ nhà, lo về sự an ninh của mẹ, ưa thích theo Phi-e-rơ hơn, hoặc vì cớ liều mình; song chắc vì cớ Mác phản đối với lẽ đạo người ngoại bang có thể được cứu rỗi chỉ bởi đức tin. Có thể biết gia đình Mác cũng như gia đình Phao-lô đều là "người Hê-bơ-rơ, con của người Hê-bơ-rơ", nên thấy Công vụ các sứ đồ 13:5, 13 chỉ chép tên Hê-bơ-rơ của Mác tức là Giăng. Phao-lô lấy lẽ đạo được cứu rỗi bởi đức tin làm quan hệ nhứt, nên không chịu nhận Mác đồng đi trong cuộc lưu hành thứ hai (Công vụ các sứ đồ 15:38). Có lẽ Mác cũng không chịu vì từ khi Sê-giút Phau-lút tin Chúa thì Ba-na-ba đứng sau Phao-lô (so Công vụ các sứ đồ 13:2 và 4). Vì Ba-na-ba vị nể người bà con, nên thành ra một cuộc cãi nhau dữ dội giữa hai người (Công vụ các sứ đồ 15:36-40). Song Mác không bỏ Phao-lô mãi đâu, vì sau ta thấy Mác ở bên Sứ đồ khi bị cầm tù lần thứ nhứt tại La-mã (Cô-lô-se 4:1; Phi-lê-môn 24). Câu thứ nhứt dường như nói đến một cuộc hành trình của Mác tại Tiểu A-si. Sau đó, Mác ở cùng Phi-e-rơ tại thành Ba-by-lôn (I Phi-e-rơ 5:13). Khi trở lại Tiểu A-si, Mác ở với Ti-mô-thê tại Ê-phê-sô vì Phao-lô nói đến Mác trong II Ti-mô-thê 4:11 lúc bị cầm tù lần thứ hai tại La-mã.
       Sự quan thiệp Mác với Phi-e-rơ là rất quan hệ đến sự chép sách Tin lành Mác. Các văn sĩ xưa đều hiệp ý Mác là "kẻ thông dịch" (Tức "giúp cho", Công vụ các sứ đồ 13:5) của Sứ đồ Phi-e-rơ. Vậy khi Mác giúp cho, có người tin Mác thông dịch ra tiếng Hy-lạp các bài giảng bằng tiếng Aramaique của Phi-e-rơ. Còn có người khác tin chắc Mác đã chép sách Tin lành mình đúng với các bài giảng Phi-e-rơ, và bởi thế "thông dịch" cho khắp các Hội Thánh. I Phi-e-rơ 5:13 thật tỏ rõ Mác ở Ba-by-lôn với Phi-e-rơ chớ không phải ở La-mã, nên có dịp tiện nghe và chép sách mình.
       Theo lời truyền khẩu, Phi-e-rơ sai Mác sang xứ Ai-cập và tại đó Mác lập Hội Thánh tại thành A-léc-xan-tri và giảng nhiều nơi khác, sau trở về A-léc-xan-tri làm trưởng lão. Theo truyền khầu khác Mác vốn là thầy tế lễ song sau khi trở nên tín đồ Ðấng Christ đã tự chặt một ngón tay để khỏi chức đó; vậy có một tên hiệu là "người cụt ngón tay". Mác ở tại cù lao Chíp-rơ cho đến Ba-na-ba qua đời, sau mới sang A-léc-xan-tri lập Hội Thánh và tuận đạo năm thứ VIII đời Hoàng đế Néron trị vì (63 S.C.). Cũng thêm nữa, năm 815 S.C. những lính cất lấy xác của Mác mang sang thành Venise và nay có ở dưới nhà thờ St. Marc tại đó.

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.