Mặt. Face.

       


      Mặt người rất quan trọng vì bởi đó tỏ ra những tình cảm bề trong cho người khác biết, như: buồn rầu (II Sa-mu-ên 19:4), hổ thẹn (Sáng thế ký 24:65), vẻ kính trọng (Xuất Ê-díp-tô ký 3:6; I Các vua 19:13; Ê-sai 6:2). v.v.., thật khó giấu cho khỏi lộ ra. Vậy, mặt giống như một gương soi bày tỏ tư tưởng trong lòng người cách tự nhiên. Bởi mặt có thể phân biệt người nầy với người kia, vì dẫu mặt chỉ ít phần đặc biệt như mắt, mũi, miệng, tai, v.v., nhưng mặt người nầy khác với người kia, chẳng ai giống ai hết. Sự khôn ngoan của Ðấng Tạo hóa lạ lùng thay! Trừ ra Chúa, loài người vẫn khác nhau mãi, chỉ nhờ Chúa có thể được giống nhau về phần thuộc linh.
       Mặt người dường như coi là chính người vậy: "Ta đã tưởng không còn thấy mặt con" (Sáng thế ký 48:11); "trước mặt" nghĩa là trước sự hiện diện (Dân số ký 19:3); "can ngăn trước mặt người" tức quở trách người cách dạn dĩ (Ga-la-ti 2:11; "sự kiêu ngạo Y-sơ-ra-ên làm chứng tại mặt nó" (Ô-sê 5:5), mặt của Y-sơ-ra-ên đủ làm chứng không cần chứng cớ khác: "sấp mặt xuống đất" là thái độ thờ phượng (Giô-suê 7:6). Nhổ vào mặt người là một sự sỉ nhục (Dân số ký 12:14; Phục truyền luật lệ ký 25:9; Ma-thi-ơ 26:67).
       Dùng về người, "giấu mặt" tỏ sự khiêm nhường và tôn kính trước sự hiện diện của một Ðấng tôn nghiêm (Xuất Ê-díp-tô ký 3:6; Ê-sai 6:2); giống như Ê-li "lấy áo tơi bao phủ mặt mình" khi Ðức Chúa Trời đi qua (I Các vua 19:13). "Trùm mặt" là dấu tỏ sự buồn rầu (II Sa-mu-ên 19:4 như Ê-xê-chi-ên 12:6, 12); "lấy sự phì béo cho mặt mình" đồng nghĩa với sự phong lưu và xấc xược (Gióp 15:27). Che mặt một người tỏ ra có sự đoán phạt không thoát khỏi được, như người đã chết rồi. Ấy là điều người ta làm cho Ha-man khi sự phán xét đã tuyên bố nghịch cùng người (Ê-xơ-tê 7:8). "Ngảnh mặt" là dấu tỏ sự vô lễ hoặc khinh thị (II Sử ký 29:6; Ê-xê-chi-ên 14:6; Giê-rê-mi 2:27; 18:17; 32:33).
       "Tìm kiếm mặt" tức là xin yết kiến vua hay Ðức Chúa Trời, xin làm ơn (Thi Thiên 24:6; 27:8 (hai lần); 105:4; Châm Ngôn 7:15; Ô-sê 5:15; so Châm Ngôn 29:26). "Nhiều kẻ cầu ơn vua" có thể dịch "tìm mặt vua".
       Về phần Chúa, nếu Ngài "giấu mặt", ấy là Ngài rút lại sự hiện diện, ơn Ngài (Phục truyền luật lệ ký 32:20; Gióp 34:29; Thi Thiên 13:1; 30:7; 143:7; Ê-sai 54:8; Giê-rê-mi 33:5; Ê-xê-chi-ên 39:23-24; Mi-chê 3:4). Chúa ẩn mặt như thế là một hiệu quả của cá nhơn không vâng theo Ðức Chúa Trời không phải là người giận từ chối ơn Chúa đâu (Ê-sai 59:2). Ða-vít xin Chúa ngảnh mặt đi nghĩa là xin Chúa ngó lơ đi (Thi Thiên 51:9 so 10-11). Ấy cũng là ý của lời cầu nguyện nầy: "Xin chớ từ bỏ tôi khỏi trước mặt Chúa" (Thi Thiên 51:11), và lời hứa nầy "người ngay thẳng sẽ ở trước mặt Chúa" (Thi Thiên 140:13). Chúa "ẩn mặt" đồng nghĩa với Chúa từ bỏ (Thi Thiên 13:1;27:9;88:14).
       "Bánh trần thiết" nghĩa thật là "bánh của mặt", "của sự hiện diện".

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.