Mê-đi. Médie.

       


      Người Mê-đi là dòng dõi Ma-đai, con Gia-phết (Sáng thế ký 10:2). Ðất Mê-đi ở phía Tây nam biển Caspienne; Mặt Tây bắc giáp nước A-sy-ri; mặt Nam liền Ba-tư. Dân Mê-đi thuộc dòng giống Aryens (từ tiếng Sanscrit, Arya: sang trọng). Mê-đi có liên lạc mật thiết với Ba-tư về dòng dõi, tiếng nói, và tôn giáo, hiện ra trong sử ký thế gian mấy thế kỷ trước Ba-tư. Giống phần nhiều những dân Aryens khác, người Mê-đi trước hết chia ra từng làng nhỏ, mỗi làng có một tù trưởng cai trị. Sanh Ma-na-se II nói đến trên tháp Nim-rốt chừng 840 T.C.. Lúc đó, họ ở xứ Média Atropatene ngày nay. Vua A-sy-ri là Rammãnu-nĩarĩ III (810-781 T.C.) nói rằng "đã chiếm được xứ của người Mê-đi và xứ Parsua" (Persis) cùng nhiều xứ khác. Ðó có lẽ về Mê-đi chỉ là một cuộc tàn phá. Vua Assurnĩar II (749-748 T.C.) vượt qua xứ Namri ở miền Tây nam Mê-đi. Tiếc-la Phi-lê-se IV (Ba-by-lôn gọi là Pulu, vua "Phun" trong II Các vua 15:19) và Sa-gôn cũng tràn qua xứ Mê-đi. Sa-gôn năm 716 T.C. chiếm cứ Kisheshin, Kharkhar và nhiều miền khác của xứ. Vua đó bắt một số người Y-sơ-ra-ên đem sang thành của người Mê-đi (II Các vua 17:6; 18:11), sau khi xứ Sa-ma-ri sụp đổ năm 722 T.C..
       Có lẽ vì cần chống với A-sy-ri độ 720 T.C. mà người Mê-đi (ít nhứt một phần) hiệp một nước dưới Dẽiokẽs. Sa-gôn nói về vua đó gọi tên là Dayaukku, nói rằng chính mình đã bắt vua đó (715 T.C.), và chiếm xứ hai năm sau. Khi được thả ra, chắc Dẽiokẽs đã đắp đồn lũy cho Éc-ba-tan (E-xơ-ra 6:2) trước là Ellippi, và đóng đô tại đó. Có người cho rằng Hérodotus lẫn lộn Mê-đi đây với Mandã (hay Ưmman-Mandã, "các cơ binh của Mandã" trong bảng khắc (inscriptions); song có lẽ là chi phái Aryens, từ nguyên gốc người Sy-the, và hai tên Mãdã và Mandã có lẽ là một. E-sạt-ha-đôn năm thứ II đời trị vì (679-678 T.C.) và Assurbanipal tranh chiến cùng mấy chi phái Mê-đi, bấy giờ rất có thế lực. Những người đó (hay Mandã) đã xâm chiếm nước Ba-tư và lập một đồng minh rất lớn. Dưới Kyaxarẽs (cháu Dẽiokẽs), họ vây thành Ni-ni-ve, song Assurba niphl có Ashgazu giúp đỡ (người Ách-kê-na, Sáng thế ký 10:3), một chi phái Aryens khác, đánh đuổi đi. Cuối cùng của nước A-sy-ri đến, năm 606 T.C. thì dân Mandã dưới Irikatukte, với người Ba-by-lôn dưới Nabupalusur, v.v., xông tới và hủy diệt Ni-ni-ve. Vua cuối cùng của A-sy-ri, Sin-sar-iskun (Sarakos), bị giết cùng với dân sự.
       Hérodotus nói Astyagẽs, chắt của Dẽiokẽs, gả con gái mình là Mandanẽ cho Cambysẽs, cha của Si-ru. Lúc đó chưa có đế quốc Mê-đi, nghĩa là không gồm lại cả những chi phái của giống Aryens ở phía Tây A-si; vì thấy trong các bản khắc, năm 606 T.C. cả sau nữa nhiều chi phái ở dưới quyền vua hay quan trưởng riêng của mình (so Giê-rê-mi 25:25; 51:11). Hérodotus nói họ chia làm 6 chi phái, có một là Magi. Kyaxarẽs tranh chiến 5 năm (590-585 T.C.) với người Ly-đi, trận chiến tranh kết liễu tháng 5 năm 585 T.C. vì có nhật thực như Thalès đã nói trước.
       Cuộc đồng minh giữa người Mê-đi và Ba-by-lôn tận cùng vào đời Nê-bu-cát-nết-sa. Người nối ngôi là Nabu-nahid (555 T.C.) nói rằng trong năm đó người Mê-đi dưới Astygẽs xông vào xứ Mê-sô-bô-ta-mi vây thành Cha-ran. Ít lâu sau, dòng vua đó bị lật đổ; vì Si-ru, Người Ba-tư, mà Nebunahid nói đến người lần đầu như "một tôi mọi thanh niên" của Astyagẽs: dầu vậy, sau người làm vua Anshan (Anzan) xông hãm vào năm 549 T.C. bắt được Astyagẽs và tàn phá Éc-ba-tan, rồi trở nên vua của Mê-đi. Dầu thuộc dòng người Ba-tư, nhưng Si-ru, dường như chỉ bắt đầu trị vì nước Ba-tư năm 546 T.C.. Vì cớ đó không có đế quốc Mê-đi riêng biệt với Ba-tư (hoặc một đế quốc như thế, vậy đúng như Ða-ni-ên chép). Vì người Mê-đi tiến bộ và văn minh nên thành một cường quốc trước người Ba-tư. Sử gia Hy-lạp vẫn gọi cả đế quốc đó là "dân Mê-đi" rất lâu sau đời Si-ru. Mãi sau, người Ba-tư mới được nói đến như giữ phần quan trọng hơn. Vì vậy, chắc Ða-ni-ên 8:20 nói về "nước Mê-đi và Ba-tư", ấy là chứng cớ sách Ða-ni-ên là sớm, còn sau sách Ê-xơ-tê lại thay đổi trật tự ("Ba-tư và Mê-đi") (Ê-xơ-tê 1:3, 14, 18, 19; 10:2), theo lời bảng khắc của vua Ða-ri-út ở Behistũn.
       Dưới Ða-ri-út I, Phraortes khởi loạn đòi lại ngôi vua Mê-đi như là dòng dõi Kyasarẽs. Duyên cớ đó được người Mê-đi hết sức bênh vực, nên cuộc phản loạn sau một cơn tranh đấu dữ dội mới dẹp yên được. Người cuối cùng bị bắt làm phu tù ở Ragã (gần Tehrãn) bị hành hạ cách tàn bạo, và cuối cùng bị đâm chết ở Éc-ba-tan. Sau đó, lịch sử người Mê-đi chìm trong lịch sử người Ba-tư. Lịch sự người Do-thái trong Mê-đi nói đến trong Ê-xơ-tê và Ða-ni-ên. Mê-đi cuối cùng được nói đến trong Công vụ các sứ đồ 2:9. Họ được chú ý là người dẫn dắt cả giống Aryens trong cơn chiến đấu với dòng dõi Sem để được tự do và quyền thống nhứt.
       Tiến sĩ Scofield chú thích về Mê-đi như sau:
       Ða-ni-ên 8:1.-- Xem bài Ma-xê-đoan.
       Ða-ni-ên 5:31.-- Trật tự trong Kinh Thánh về các hoàng đế vào đời Ða-ni-ên và kỳ Do-thái bị làm phu tù và được lập lại như sau đây:
       1. Nê-bu-cát-nết-sa (604-561 T.C.) cùng trong đời người, sự bắt người Do-thái làm phu tù và "các kỳ dân ngoại" (Lu-ca 21:24; Khải Huyền 16:14) bắt đầu, và cũng là hoàng đế đã lập nước thứ nhứt trong bốn đế quốc của thế gian (Ða-ni-ên 2:37, 38; 7:4).
       2. Bên-xát-sa (có lẽ 556 T.C.), tức là Bel-shar-uzzar trong bảng khắc trên đá, cháu của Nê-bu-cát-nết-sa và con một quan tướng chiến thắng là Nabonidus. Bên-xát-sa dường như chỉ làm phó vương thôi.
       3. Ða-ri-út người Mê-đi (Ða-ni-ên 5:31; 6:1-27; 9:1). Về Ða-ri-út nầy lịch sử thế gian còn chờ những sự tìm tòi sau nầy, như trước về phần Bên-xát-sa. Người ta đoán rằng Ða-ri-út là một với Gobryas, một quan tướng của Ba-tư. Ða-ri-út nầy là "con trai A-suê-ru, về dòng người Mê-đi, đã được lập làm vua trị nước người Canh-đê" (Ða-ni-ên 9:1). "A-suê-ru" là chức tước hơn là tên, cũng ngang với "hoàng thượng" ngày nay, dùng trong Kinh Thánh và ít nhứt cho bốn vĩ nhân, và là tiếng Ba-tư hơn là tiếng Mê-đi, Ða-ri-út người Mê-đi đó, là "con" (hoặc cháu) A-suê-ru tỏ ra, có lẽ bởi mẹ mình, là dòng dõi hoàng tộc không những của người Mê-đi mà cả người Ba-tư nữa. Chỉ có một Ða-ri-út chép trong Ða-ni-ên.
       4. Si-ru, khi được tôn lên cầm quyền thì bắt đầu thật có nước Mê-đi Ba-tư, đế quốc thứ hai trong thế gian (Ða-ni-ên 2:39; 7:5). Trong sự hiện thấy của Ða-ni-ên về đế quốc nầy "năm thứ ba đời vua Bên-xát-sa" (Ða-ni-ên 8:1-4), quyền của Mê-đi thuộc Ða-ri-út dường như là cái "sừng nhỏ" hơn trong hai sừng dê đực; quyền của Ba-tư thuộc Si-ru, mà dưới vua có quyền nước Mê-đi Ba-tư được vững lập, là sừng "cao hơn" và "mọc lên sau". Dưới vua Si-ru, là người được tiên tri nói đến tên trước khi sanh ra một thế kỷ (Ê-sai 44:28-45:1-4), người Do-thái còn sót lại bắt đầu trở về xứ Pha-lê-tin (E-xơ-ra 1:1-4).

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.