Nhận tay mình. Poser les mains sur.

         

      Một công việc biệt riêng có mục đích đặc biệt, như "Giô-suê ... được đầy dẫy thần khôn ngoan, và Môi-se đã đặt tay trên người " (Phục truyền luật lệ ký 34:9). Dân Y-sơ-ra-ên đặt tay mình trên đầu người Lê-vi, để biệt riêng họ cho sự hầu việc Chúa tại Ðền tạm, thay thế cho các con đầu lòng của các chi phái. Họ ấn tay mình trên đầu người Lê-vi, chắc làm thế có ý rằng, theo sự ưng thuận của Ðức Chúa Trời, họ giao lại những phận sự riêng mình cho người Lê-vi (Dân số ký 8:5-20). Người Y-sơ-ra-ên đem một con vật đến bàn thờ dâng của lễ, nhận tay mình trên đầu con sinh như biệt riêng cho Ðức Chúa Trời và dùng nó làm đại biểu riêng thay thế mình (Lê-vi ký 1:4; 16:21). Gia-cốp lúc già, đặt tay trên đầu các con Giô-sép, đặt để chúng vào chỗ các con trai mình, và cầu một lời giao ước phước hạnh truyền lại trên chúng từ chính mình là người có quyền sở hữu (Sáng thế ký 48:5-20), các trưởng lão đặt tay trên người nào không những tỏ ra sự phái đi, song cũng là cầu ơn thuộc linh trên chức vụ bởi những người mà Chúa cho phép, hoặc ít nhứt cũng có ý gởi gắm người chí nguyện cho Ðức Chúa Trời như cái bình chứa ơn điển Ngài (so Công vụ các sứ đồ 6:6; 8:17; 9:17; 19:1-6; 13:3; I Ti-mô-thê 4:14; II Ti-mô-thê 1:6, v.v...). Xem bài Báp têm và xem bài Tay.

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.