Óp-ra. Ophra.

         


      I. Một thành trong địa phận chia cho chi phái Bên-gia-min giữa Pha-ra và Kê-pha-A-mô-nai (Giô-suê 18:23). Cũng nói đến trong I Sa-mu-ên 13:17, người Phi-li-tin đóng trại tại Mích-ma. Từ trong dinh Phi-li-tin, có một toán quân cướp phá đi ra, chia làm ba đội; một trong ba đội theo con đường Óp-ra, đi về xứ Su-anh. Có lẽ thành nầy ở về hướng Bắc và là một với Ép-rôn (II Sử ký 13:19) và Ép-ra-im (Giăng 11:54). Nay là Taiyibeh, 8 cây số cách phía Ðông Bê-tên, một làng nhỏ ở trên một đỉnh đồi.
       II. Một thành trong phần đất của Ma-na-se (Các quan xét 6:15), ở phía Tây sông Giô-đanh không xa Si-chem. Ấy là nơi Ghê-đê-ôn sanh trưởng (Các quan xét 6:11) chống nghịch cùng Ba-anh (câu 24), và ở sau khi người lên cầm quyền (9:5), nơi người được chôn cất trong mộ của gia đình (8:32). Thật ra, ấy là sản nghiệp của Giô-ách, người A-bi-ê-xê-rít, cha Ghê-đê-ôn. Dường như không xa đồng bằng Esdraelon (6:33), nên Ghê-đê-ôn và người trong gia tộc cảm thấy đau đớn vì cớ kẻ hà hiếp đến gần. Sau cuộc thắng trận vinh diệu lớn, Ghê-đê-ôn lấy những của cướp từ dân Ma-đi-an mà làm một cái ê-phót bằng vàng, như vậy làm một bẫy cho chính mình và nhà cha mình (8:27). Cũng tại Óp-ra, A-bi-mê-léc, con Ghê-đê-ôn, mơ ước hưởng nước, đã giết 70 anh em mình trên một hòn đá, chỉ một mình Giô-tham, em út người thoát khỏi (9:5).
       III. Một người thuộc chi phái Giu-đa, con của Mê-ô-nô-thai (I Sử ký 4:14).

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.