I. Sứ đồ Phi-líp là một trong mười hai Sứ đồ, ở thành Bết-sai-đa xứ Ga-li-lê (Giăng 1:44; 12:21). Cùng đi với Anh-rê và một người khác trong thành mình Phi-líp đến thành Bê-tha-ni để nghe Giăng Báp Tít dạy dỗ, và tại đó nghe theo tiếng gọi thứ nhứt của Ðấng Christ (Giăng 1:43). Giống Anh-rê, Phi-líp dắt ngay Na-tha-na-ên đến theo Chúa Jêsus (Giăng 1:45). Nên chú ý, đây Phi-líp nói với Na-tha-na-ên rằng "đã gặp (tức tìm) Ðấng Môi-se có chép." Phi-líp sai lầm vì không phải người tìm Chúa, song là Chúa tìm người (so Ê-sai 65:1). Có lẽ Phi-líp có mặt tại hầu hết các biến động thuật về Chúa Jêsus từ Bê-tha-ni trở về Ga-li-lê. Việc Phi-líp được phong chức lần chót làm Sứ đồ được kể trong Ma-thi-ơ 10:3; Mác 3:18; Lu-ca 6:14; Công vụ các sứ đồ 1:13. Trước khi Chúa phát bánh cho năm ngàn người ăn, Ngài hỏi Phi-líp rằng: "Chúng ta sẽ mua bánh ở đâu để cho dân nầy có mà ăn?" (Giăng 6:5-7). Chúa hỏi Phi-líp có hai cớ: Biết nơi đó là quê hương của Phi-líp, và Chúa phán đặng "thử" (so Phục truyền luật lệ ký 8:2; Ma-thi-ơ 4:4), vì Ngài biết điều sẽ làm. Khi người Hy-lạp muốn hội kiến cùng Chúa Jêsus nhằm Lễ Vượt Qua, thì đến cùng Phi-líp (Giăng 12:20-23). Khi Chúa Jêsus phán cùng các môn đồ sau bữa ăn tối cuối cùng, Phi-líp thưa cùng Chúa Jêsus rằng: "Lạy Chúa, xin chỉ Cha cho chúng tôi thì đủ rồi" (Giăng 14:8). Song Ngài đáp: "Ai đã thấy ta tức đã thấy Cha... Ta ở trong Cha và Cha ở trong ta" (so Hê-bơ-rơ 1:3; Cô-lô-se 1:15; Giăng 1:18).
Trái với tánh gấp rút của Phi-e-rơ, Phi-líp có tánh chậm chạp, và vì thạo Kinh Thánh, (Giăng 1:45, nên có ảnh hưởng trên Na-tha-na-ên là người hay bình phẩm và người Hy-lạp văn minh. Vì có tánh cẩn thận, suy tính phải trái, nên ưa thử mọi lẽ thật bởi sự từng trải (so Giăng 14:8); thì tưởng Na-tha-na-ên cũng như mình (Giăng 1:46). Vì có tánh như thế, nên Chúa muốn tỉnh thức cho Phi-líp có đức tin lớn hơn và thuộc linh hơn, thì Chúa đặt câu hỏi trong Giăng 6:6 để "thử". Tánh khiêm tốn bề trong hoạt động trên tín ngưỡng Phi-líp, cũng biểu lộ ra đời sống bề ngoài và cách cư xử. Không những chỉ vì nết na, song cũng vì không có ý tự quyền, nên Phi-líp đến cùng Anh-rê bàn việc người Hy-lạp muốn gặp Ngài.
Theo Polycrats, giám mục tại Ê-phê-sô, thế kỷ thứ II S.C., thì sau khi Chúa lên trời, Phi-líp truyền đạo ở xứ Phi-ri-gi, Tiểu A-si, và cuối cùng chịu đóng đinh chết cho Chúa tại Hi-ê-rô-bô-li.
II. Truyền đạo Phi-líp. Một trong số "bảy" thầy phó tế, là người "có danh tánh tốt, đầy dẫy Ðức Thánh Linh và trí khôn" được chọn để giao cho việc "cấp phát hằng ngày" cho những đờn bà góa và tín đồ nghèo tại Giê-ru-sa-lem (Công vụ các sứ đồ 6:1-5). Tân Ước không thuật nhiều về việc ông làm chấp sự, song hằng chép công cuộc truyền đạo của Phi-líp, nên kêu là truyền đạo Phi-líp. Không biết Phi-líp, có tên Hy-lạp, phải là người Hê-lê-nít không, song công việc truyền đạo của Phi-líp tỏ ra đã thoát khỏi mọi thành kiến về tôn giáo của một người Do-thái nghiêm nhặt.
Sự tử vì đạo của Ê-tiên là khởi đầu một cuộc bắt bớ Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem cách chính thức, và trừ các Sứ đồ, thảy đều bị tan lạc khắp xứ Giu-đê và xứ Sa-ma-ri (Công vụ các sứ đồ 8:1), và sang tận Phê-ni-xi, Chíp-rơ và An-ti-ốt, (11:19). Như vậy, ảnh hưởng của sự dạy dỗ mới được lan tràn, và khởi đầu cuộc truyền giáo. Sự tích về việc Phi-líp làm được chép trong Công vụ các sứ đồ 8:5.tt. Phi-líp đến thành chính xứ Sa-ma-ri gọi là Sébaste. Vậy, Phi-líp thật là người thứ nhứt bước theo dấu chơn Chúa Jêsus (Giăng 4:), và vâng mạng lịnh Ngài (Công vụ các sứ đồ 1:8), tới xứ Sa-ma-ri như người tiền khu của Phao-lô, "Sứ đồ cho dân ngoại." Những người Sa-ma-ri, vì cớ lai Y-sơ-ra-ên và dân ngoại nên bị trục xuất khỏi giáo hội Do-thái từ khi ở Ba-by-lôn về, đã xây một đền thờ trên núi Ga-ri-xim, ganh đua với Ðền thờ Giê-ru-sa-lem. Phi-líp giảng Ðấng Christ cho họ, và làm dấu lạ, kết quả là đoàn dân chú ý, "cả đờn ông, đờn bà đều chịu lễ báp-têm" (8:12); như thế ứng nghiệm lời Chúa phán "đồng ruộng đã vàng sẵn cho mùa gặt" (Giăng 4:35). Người Sa-ma-ri đương chịu ảnh hưởng của một thuật sĩ, Si-môn, là người cũng tin và chịu lễ báp-têm, và như sau tỏ ra Si-môn tin chỉ vì ưa thích học bí quyết quyền phép của Phi-líp để làm phép lạ. Các Sứ đồ (8:14) tại Giê-ru-sa-lem, ưng thuận cho người Sa-ma-ri nhập vào Hội Thánh và sai Phi-e-rơ và Giăng đến, không những chỉ chứng quyết việc Phi-líp, song chính hai Sứ đồ đó cũng giảng Tin lành cho người Sa-ma-ri.
Việc sau đó thuật một người ngoại bang hối cải (Công vụ các sứ đồ 8:26-40), là người thờ phượng Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, tức hoạn quan của nữ hoàng Can-đác, xứ Ê-thi-ô-bi, châu Phi. Khi hoạn quan đã thờ phượng Chúa ở Giê-ru-sa-lem về, thì gặp Phi-líp tại con đường tới Ga-xa. Phi-líp giải nghĩa cho hoạn quan một phần Ê-sai 53: mà người đó đang đọc lớn tiếng khi ngồi trên xe và giảng về Chúa Jêsus. Ấy là một dấu khác tỏ Phi-líp định ý rõ ràng về sự truyền đạo phổ thông nên mới làm lễ báp-têm cho hoạn quan là người không được trọn phép nhập vào hội người Do-thái (Phục truyền luật lệ ký 23:1). Nên chú ý Công vụ các sứ đồ 8:37, thấy trước hết hoạn quan phải tin nhận Ðức Chúa Jêsus, sau mới chịu lễ báp-têm (so I Phi-e-rơ 3:21,22).
Sau, Ðức Thánh Linh đem Phi-líp đến thành A-sốt, và du lịch phía Bắc Sê-sa-rê, giảng trong các thành dọc đường. Phi-líp ngụ tại đó, Lu-ca chép Phao-lô và các đồng bạn ở nhà Phi-líp, người giảng Tin lành ít ngày (Công vụ các sứ đồ 21:8). Việc đó xảy ra hơn 20 năm sau những biến động thuật trong Công vụ các sứ đồ 8: cả lúc đó và trong lúc Phao-lô bị tù ở Sê-sa-rê. Lu-ca có dịp nghe chính miệng Phi-líp thuật về công việc mình. Lu-ca chép Phi-líp có bốn con gái đều giảng Tin lành (Công vụ các sứ đồ 21:9).
Sự loạn nghịch của người Do-thái cuối cùng tới kết quả là Giê-ru-sa-lem sụp đổ, nhiều tín đồ bị đuổi ra ngoài sứ Pha-lê-tin trong số đó có Phi-líp và các con gái người. Có lời truyền khẩu Phi-líp có bốn con gái ở Hi-ê-rô-bô-li, tại Tiểu A-si song chắc là lẫn lộn Phi-líp nầy với Sứ đồ Phi-líp. Một lời truyền khẩu khác nói ở Tralles, Phi-líp làm giám mục trong Hội Thánh Ðấng Christ đầu tiên tại đó.
III. Vua chư hầu Phi-líp, là một trong hai con trai của Hê-rốt lớn Cléopâtre tại Giê-ru-sa-lem. Phi-líp được nuôi dưỡng tại La-mã với hai anh cùng cha khác mẹ A-chê-la-u và An-ti-ba. Phi-líp là vua chư hầu ở xứ Y-tu-rê và tỉnh Tra-cô-nít, năm thứ XV đời Sê-sa Tibère, khi Giăng Báp Tít khởi hành chức vụ (Lu-ca 3:1), Phi-líp cưới Sa-lô-mê, con gái của Hê-rốt tức con trai Mariamne, và Hê-rô-đia. Phi-líp mở rộng thành Panéas, ở nguồn sông Giô-đanh, và gọi là Sê-sa-rê. Thành nầy sau được gọi là Sê-sa-rê Phi-líp (Ma-thi-ơ 16:13) để phân biệt với thành Sê-sa-rê trên bờ biển. Phi-líp trị vì 37 năm, từ 4 T.C. đến 33 S.C., chết năm thứ XX đời Sê-sa Tibère. Tánh Phi-líp rất tốt, cai trị cách mềm mại và công bình. Những đồng tiền của Phi-líp được tìm thấy có để danh hiệu Tetrarchos.
IV. Phi-líp chồng trước của Hê-rô-đia là một con trai của Hê-rốt Lớn, và anh em cùng cha khác mẹ với Hê-rốt An-ti-ba (Ma-thi-ơ 14:3; Lu-ca 3:19). Không được gọi là vua chư hầu, vậy, có cớ tin rằng Phi-líp nầy là người khác với vua chư hầu Phi-líp, anh em cùng cha khác mẹ của Hê-rốt An-ti-ba. Những trước giả sách Tân Ước cũng hiệp ý với Josèphe cho rằng người chồng trước của Hê-rô-đia là anh em đồng cha khác mẹ với Hê-rốt An-ti-ba vua chư hầu mà không coi là một với vua chư hầu Phi-líp là người các trước giả cũng biết (Lu-ca 3:1). Hê-rốt Phi-líp, có lẽ là con trai Mariamne, được công nhận trong một thời gian là kẻ nối ngôi, song đến các chúc thư sau của Hê-rốt Lớn thì bị bỏ.