Sáng thế ký. La Genèse.

       


      Tên sách thứ nhứt nầy trong Cựu Ước bằng tiếng Hy-lạp là Genesis tức "gốc tích" thế gian, từ bản Septante, song người Hê-bơ-rơ gọi bằng hai chữ đặt ở đầu sách là Bereshith, tức "ban đầu." Sáng thế ký là sách rất quan hệ, như Tấn sĩ Bullinger nói: "Sáng thế ký có hột giống của cả Kinh Thánh, và là rất cần thiết để thật hiểu mỗi phần. Sáng thế ký là nền tảng để gây dựng sự khải thị Chúa. Chẳng những là nền tảng của mỗi lẽ thật, song cùng nhập vào và dự phần trong những sự soi dẫn sau; thật là sợi ngang và sợi dọc của Kinh Thánh."
       I. Chứng cớ là thật.-- 
       A. Mặt trái. Người công kích Sáng thế ký thường nhờ nguyên lý nhứt định chung mà nói rằng: 
             (1) chẳng có dân tộc nào biết ai thật là người sáng lập; xin đáp: cả sử ký Y-sơ-ra-ên là duy nhứt không thể so với lịch sử dân tộc khác, vì là tuyển dân của Ðức Chúa Trời. 
             (2) Cả đời Áp-ra-ham chép như vẫn bị thử thách mãi, mà trung tâm của sự thử rèn đó là lời Ngài hứa sẽ ban cho một con trai làm kẻ kế tự, theo tâm lý học một người không thể chịu nổi; xin đáp: Trong lịch sử tôn giáo Chúa thấy nhiều người cũng chịu như vậy như Phao-lô, Luther, v.v.. 
             (3) Có một khoảng lâu giữa những biến động xảy ra và thời được ghi chép trong Sáng thế ký, nên có lẽ chỉ là chuyện hoang đường hoặc ngụ ngôn được coi là thật; xin đáp: Giữa các dân tộc, trải qua mấy ngàn năm, truyện hoang đường hoặc ngụ ngôn, như về người Hy-lạp và La-mã xưa, cũng không vì đó mà được công nhận là thực sự thật có. Vả lại, các đấng tiên tri nhận biết những lời chép trong Sáng thế ký như về Nước lụt hoặc Sô-đôm và Gô-mô-rơ là thật (Sáng thế ký 19: so A-mốt 4:11; Ê-sai 1:9; 3:9; Ô-sê 11:8); về Áp-ra-ham là một vĩ nhơn thật có (Ê-sai 29:22; 41:8; 51:1; Mi-chê 7:20; Giê-rê-mi 33:26; Ê-xê-chi-ên 33:24, v.v.); về Y-sác, (A-mốt 7:9,16; Giê-rê-mi 33:26); về Gia-cốp (Ô-sê 12:3; A-mốt 9:8; Giê-rê-mi 33:26), cũng về Gia-cốp (A-mốt 5:6,15). Các tiên tri đó không nghi ngờ gì, song coi những người và biến động đó là thật. 
             (4) Khi Y-sơ-ra-ên vào xứ Ca-na-an có những nơi cao để thờ tà thần, và vì muốn mượn cớ dùng để thờ Chơn thần thì Y-sơ-ra-ên bày vẽ ra lịch sử để tỏ các tổ mình xưa đã thờ Ngài trong các nơi cao đó trước, như vậy mình cũng có phép làm theo; xin đáp: Nếu thật vậy, làm thế nào cắt nghĩa lịch sử về Giô-sép ở xứ Ai-cập? Vả lại, trong Sáng thế ký chưa chép về sự thờ Chúa trong một nơi nào mãi, song chép về Ngài hiện đến cùng các tổ phụ thế nào, và các tổ phụ dựng bàn thờ cho Ngài trong một vài nơi như Bê-tên, Bê-e-Sê-ba, v.v.. Số các nơi lập bàn thờ đó kém thiếu so với các nơi cao thờ tà thần lúc Y-sơ-ra-ên vào xứ Ca-na-an là dường nào! Bởi thế, các lời công kích trên chỉ tỏ rất rõ những truyện chép trong Sáng thế ký không phải là bịa đặt ra bởi người ta bèn là những sự thật xảy ra.
       B. Mặt phải.-- 
             (1) Cá nhơn và ý nghĩa đời sống của mỗi tổ phụ chép trong Sáng thế ký là rất quan hệ với sự mở mang lịch sử nước Ðức Chúa Trời chép sau trong Kinh Thánh. Lời mô tả cách ăn ở, lời tỏ ra chưa ăn ở mãi mãi một nơi nào đều làm chứng Sáng thế ký là thật. Các sách tiên tri, cả Tân Ước, và chính Chúa Jêsus cũng tự nhiên coi như thế. 
             (2) Môi-se là người Chúa nhờ lập Luật pháp chắc không cần phải bịa đặt ra những truyện chép trong Sáng thế ký vì điều đó chỉ làm hại danh dự mình. Chính Môi-se xưng rằng công việc mình là nhờ những lời Chúa đã hứa với các tổ phụ chép đó, vì vậy Môi-se có thể được dân sự chú ý và tin cậy (Xuất Ê-díp-tô ký 2:24; 3:6,13; 4:5; 6:3-8; 15:2; 32:13; 33:1). 
             (3) Trong Sáng thế ký không có câu nào xen vào có thể nói là thuộc đời sau chép. 
             (4) Những lần chép về Ngài hiện ra và về sự thờ phượng suốt cả từ Sáng thế ký đến Xuất Ê-díp-tô ký, tỏ rõ có sự mở mang hơn. 
             (5) Ngày nay các nhà khảo cổ làm chứng 14: chép mọi điều thuộc về Kết-rô-Lao-me và Mên-chi-xê-đéc, với các tên, chính trị và niên hiệu, đều thuận hiệp với thời đó. Ðoạn 42: chép tình hình tôn giáo, và lịch sử Giô-sép tại xứ Ai-cập tỏ ra tác giả Môi-se nhờ những sự từng biết của mình mà chép rất đúng. 
             (6) Bất luận niên biểu học, sử học, khảo cổ học, vật lý học,địa dư học, hay ngôn ngữ học, trong Sáng thế ký không thấy có chép gì phản đối hay trái với những sự biết chắc chắn của các khoa đó. Khi nhớ mục đích của Sáng thế ký chuyên chép về tôn giáo thì ấy là rất lạ! Hai nhà khoa học rất trứ danh Reinke và Von Barr chứng rằng Môi-se chép về cuộc tạo thành vũ trụ trong Sáng thế ký tỏ ra mình là một nhà khoa học thông sáng trổi hơn hết. Ngày nay địa chất học tìm rất nhiều thực sự tỏ ra truyện Nước lụt chép trong Sáng thế ký là đúng. 
             (7) Ngôn ngữ học cũng làm chứng Sáng thế ký 10: chép đúng về Ba-bên và Ni-ni-ve, và người ta từ Ba-bên đến A-sy-ri mà ở. Về chiếc tàu Nô-ê, một người Hòa-lan trong thế kỷ thứ XVII đã đóng một tàu theo kích thước ghi chép trong Sáng thế ký 6:15 và thấy là rất thuận. 
             (8) Khi tra xét hai truyện chép về cuộc tạo thành và Nước lụt trong Sáng thế ký và chuyện hoang đường của Ba-by-lôn về hai cuộc đó, thì thấy chuyện chép trong Sáng thế ký đầy dẫy tâm tính của Chơn thần độc nhất và luân lý; trái lại, những chuyện hoang đường Ba-by-lôn đầy những sự dị đoan cà tà thần làm mất vẻ đạo đức đến nỗi phải công nhận Sáng thế ký là thật. Những truyện hoang đường của các dân tộc khác về hai cuộc đó tỏ ra có khi lấy từ truyện người Do-thái như chép trong Sáng thế ký. Thật ra, cứ so Sáng thế ký với các sách thái cổ khác, thì bắt buộc phải công nhận Sáng thế ký là thật và chính Ðức Chúa Trời soi dẫn tác giả chép cả.
       II. Căn nguyên của tác giả.-- Sáng thế ký đứng đầu Kinh Thánh có quan thiệp với các sách theo sau, vì có hột giống tiên tri làm nền tảng của mọi mọi lời tiên tri sau chép suốt cả Kinh Thánh; là lời tiên tri đến hết sách Khải Huyền được ứng nghiệm trọn vẹn trong cây sự sống được hoàn lại, nước sự sống, và sự thông công với Ðức Chúa Trời trong thế gian mới đã được giải cứu khỏi sự rủa sả. Astruc, thầy thuốc nước Bỉ, xuất bản sách 1753 S.C.) nói rằng theo lối dùng các danh Ðức Chúa Trời khác nhau trong Sáng thế ký, nhứt là Ê-lô-him và Giê-hô-va, thì dường như vốn có 12 bản viết hoặc ký ức mà Môi-se đã nhờ để chép. Từ năm đó trở đi, nhiều học sĩ hết sức luận về vấn đề nầy song không được kết quả gì chắc chắn. Những danh Ðức Chúa Trời trong Sáng thế ký là El, lối viết tắt Ê-lô-him; Elion "Chí cao" (Sáng thế ký chỉ dùng trong 14:18; El Elion cũng dùng trong Thi Thiên với Ê-lô-him và Giê-hô-va). Ê-lô-him chỉ về số nhiều để chỉ sự trổi hơn và oai nghiêm; Ê-lô-him là danh gồm lại trong chính Ngài những thuộc tánh mà người ngoại đạo đặt cho các tà thần riêng. Giê-hô-va là danh chỉ về Ðức Chúa Trời Ðộc nhứt, là Ðấng lập giao ước với dân Ngài, nên thường dùng trong các khúc quan thiệp với giao ước đó. Có lẽ Môi-se, nhờ Ðức Chúa Trời soi dẫn, có dùng đến những bản viết hoặc ký ức đó, nhứt là những biểu kê về Gia phổ. Song độc giả phải công nhận Sáng thế ký không phải là một sách không có mục đích hay đại ý liên lạc chặt chẽ cả tài liệu với nhau hiệp làm một suốt cả sách. Cũng phải công nhận lối dùng danh Ðức Chúa Trời của tác giả dầu không phải một cách quyết đoán, song vẫn rất thuận hiệp với tài liệu và rất đúng nữa.
       Có nhiều chứng cớ tỏ chắc Môi-se là tác giả của Sáng thế ký. Khi xét Sáng thế ký thấy tỏ rõ có chép trong đời các thực sự còn nhớ rõ ràng, và được lưu truyền từ đời thái cổ. Có học sĩ nói vì có chép đến "Si-lô" trong Sáng thế ký 49:10, nên chắc đó là chứng cớ Sáng thế ký chép sau thời lập Ðền tạm tại Si-lô. Song bản quốc văn tỏ rõ "Shioh" đó chỉ về Ðấng Mê-si, không phải chỉ dời đến Si-lô. Học sĩ đó cũng lấy Sáng thế ký 12:6; 13:7; 22:2; 36:31; 13:18; 23:2; 14:14 dường như tỏ ra lúc chép Sáng thế ký không có thổ dân Ca-na-an trong xứ đó nữa, v.v, vì những câu đó thật thuộc thời sau đời Môi-se. Nhưng xét rõ thì biết ngay trong đời Áp-ra-ham, dân Ca-na-an còn trong xứ mình, chưa bị đuổi đi. Theo Sáng thế ký 10:6,15; 9:25 thì Áp-ra-ham đến xứ đó thấy người Ca-na-an còn ở. Còn mấy câu khác nữa, song không có gì đáng nhận tỏ ra Sáng thế ký có chép sau đời Môi-se. Như đã nói trên, cả tài liệu trong Sáng thế ký chứng rằng tác giả nhờ sự từng trải và sự từng biết mà chép, và ấy chứng rõ chỉ có Môi-se mới có thể chép vậy. Như giám mục Brown viết: "Rất đáng nghi ngờ tác giả Sáng thế ký là người đồng thời với Sa-mu-ên có thể chép lịch sử các tổ phụ giống mình cách trung tín, chơn thật, và đơn sơ, đúng về những tiểu tiết như trong Sáng thế ký gọi là sách thứ nhứt của Môi-se."
       Tóm tắt.-- Sáng thế ký có phải chép theo những lời truyền khẩu, như thi sĩ Milton trong sách "Le Paradis perdu" mô tả thiên sứ Gáp-ri-ên thuật cho A-đam những điều lạ lùng về công cuộc sáng tạo không? Ấy chỉ là giả thuyết; song chắc Chúa có thông dạy sự biết đó cho A-đam, và thủy tổ nói với Mê-tu-sê-la, rồi truyền tụng đến đời Nô-ê, Áp-ra-ham, Y-sác, Giô-sép, Môi-se. Bất cứ là cách nào, Công vụ các sứ đồ 7:37,38 chép rõ căn nguyên và tác giả của Sáng thế ký: tức Môi-se nhận từ Ðức Chúa Trời, và ra đời tại núi Si-na-i! Tấn sĩ A-đam Clark viết: "Truyện chép trong Sáng thế ký là đơn sơ, chơn thật hiệp với nhau, đúng những niên hiệu, ngay thẳng trong các tiểu sử, đúng về những tiểu tiết triết lý, tinh sạch về đạo đức, và ý định tốt lành, đến nỗi tỏ cách đầy đủ căn nguyên sách nầy không phải từ thế gian nầy mà có được!"
       III. Ðại ý và mục đích.-- Sách Sáng thế ký (với những đoạn đầu sách Xuất Ai-cập) mô tả những bước dẫn đến sự thiết lập Thần quyền. Ấy là một phần chương trình của trước giả để nói cho ta biết sự Ðức Chúa Trời sửa soạn thế gian cách nào, hầu để tỏ ra, trước hết, ý nghĩa của sự kêu gọi Áp-ra-ham và sau, tánh chất của Thần quyền trên người Do-thái. Trước giả khởi sự với cuộc sáng tạo thế gian vì Ðức Chúa Trời đã dựng nên thế gian cũng là một với Ðức Chúa Trời tỏ mình Ngài cho các tổ phụ. Như vậy, sách Sáng thế ký lập tức có tánh cách đặc biệt và phổ thông, và bao gồm cả thế gian; nói về Ðức Chúa Trời là Chúa của cả loài người. Song như lời tiểu dẫn cho lịch sử dân Do-thái, sách để quyền lợi chung phụ thuộc quyền lợi quốc gia. Có năm người làm cột trụ, nói cho đúng, trên các nền đó công trình kiến thiết được đặt lên: A-đam, Nô-ê, Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp.
       1. A-đam.-- Cuộc sáng tạo thế gian, và buổi sớm nhứt về lịch sử loài người (1:-3:). Dầu vậy, đến đây chưa có sự phân chia các chi họ loài người.
       2. Nô-ê.-- Lịch sử của dòng dõi A-đam đến sự chết của Nô-ê (4:-9:). Ðây ta có: 
             (1) Dòng của Ca-in tẻ tách ra, còn lịch sử cứ theo dòng dõi Sết, mà các dòng dõi người 
             (2) được chép trong sự nối tiếp của gia-phổ, và trong một dòng không hề đứt quãng mãi cho đến đời Nô-ê, và 
             (3) lịch sử của chính Nô-ê (6:-9) tiếp nối cho đến khi người chết.
       3. Áp-ra-ham.-- Dòng dõi của Nô-ê cho đến khi Áp-ra-ham qua đời (10:-25:18). Tại đây, ta có
             (1) dân cư ở khắp thế gian bởi dòng dõi ba con trai của Nô-ê (11:1-9). Lịch sử của hai con Nô-ê kế đó dứt bỏ và 
             (2) chỉ dòng dõi Sem tiếp nối (11:10-32) cho đến tận Tha-rê và Áp-ra-ham, tại đó, biểu kê và gia phổ đứt quãng. 
             (3) Nay chỉ có Áp-ra-ham, là người được tỏ rõ (12:-25:18). Song vì Tha-rê có hai con khác nữa: Na-cô và Ha-ran (11:27), nên thêm vài điều vào về hai chi họ đó. Có nói đến Lót di cư với Áp-ra-ham đến xứ Ca-na-an, cũng nói Lót là cha của Mô-áp và Am-môn (19:37,38) là những dân tộc mà sau nầy lịch sử có quan thiệp mật thiết với dòng dõi Áp-ra-ham. Na-cô vẫn ở lại xứ Mê-sô-bô-ta-mi, song gia đình của người có kể ra cách vắn tắt (22:20-24), nhứt là vì cớ Rê-be-ca, là người sau làm vợ Y-sác. Về con của chính Áp-ra-ham, có những chi nhánh tẻ tách ra trước nhứt là dòng dõi bởi Ích-ma-ên (21:9, v.v.), và kế đến các con của Kê-tu-ra, những điều chép về gia phổ của hai chi nhánh dòng dõi Áp-ra-ham đó dường như chép chung với nhau (25:1-6 và 25:12-18), hầu cho khi đến cuối đời Áp-ra-ham dòng chính của lịch sử có thể chảy ra trong gia tộc Y-sác.
       4. Y-sác.-- Ðời của Y-sác (25:19-35:29) là một đời ẩn dật và không có biến động nào. Song trong vòng các con người có sự chia rẽ cuối cùng, để lại chỗ cho lịch sử lớn về dòng dõi lựa chọn. Cả đến khi gia đình của Na-cô cũng có ở đó, như trong đoạn 29:, ta chỉ thấy đủ cần để chiếu sáng trên đời của Gia-cốp.
       5. Gia-cốp.-- Lịch sử của Gia-cốp và Giô-sép (36:1). Tại đây, sau khi Y-sác qua đời, ta có 
             (1) dòng dõi Ê-sau (36:) kế đó không có nữa trong sách hầu cho 
             (2) lịch sử của các tổ phụ có thể cứ tiếp nối cho đến sự chết của Giô-sép (37:-50:). Có thể thấy rõ một chương trình đặc biệt dành sẵn khắp cả. Mục đích chính chẳng bao giờ quên được. Sự liên lạc của Ðức Chúa Trời đối với Y-sơ-ra-ên là điều chiếm chỗ thứ nhứt trong trí tác giả. Lịch sử của dòng dõi được lựa chọn, là những con kế tự của lời hứa và kẻ giữ lời phán của Ðức Chúa Trời, chỉ là lịch sử đó cắt nghĩa sự quan thiệp Ðức Chúa Trời đối với loài người. Bởi ánh sáng lịch sử đó, mọi sự khác cũng được sáng tỏ ra, và có thể đọc được khi thời gian sẽ đến. Trong khi chờ đợi những gia đình khác nhau dứt đi khỏi căn bản, thì chỉ nói đến cách vắn tắt. Chắc chắn, ta có thể tả ra trong suốt cả sách Sáng thế ký một chương trình có hệ thống.
       Như vậy, ta thấy Sáng thế ký là một lịch sử tôn giáo, bỏ qua những tiểu tiết không cần về các dân tộc khác, để tập trung ý trên căn nguyên của dân tộc từ đó Ðấng Cứu chuộc đã hứa sẽ ra. Bởi thế, Sáng thế ký chỉ chép biểu kê gia phổ các dân tộc, nhưng thuật rất kỹ về các tổ phụ tin kính thuộc gia phổ Ðấng Cứu thế, vì ấy là quan hệ hơn sự dấy lên và suy đồi của các đế quốc rất mạnh. Sáng thế ký thật chọn những tiểu tiết của lịch sử các tổ phụ mà chép để làm thí dụ về các nguyên lý thuộc linh, và tỏ ra mục đích tốt lành của Ðức Chúa Trời về sự cứu chuộc loài người.
       IV. Phân tích.-- Xin gợi ý về ba lối phân tích sách nầy:
       1. Sáng thế ký có thể chia làm ba phần lớn: 
             (1) Lịch sử vũ trụ, tỏ ra sự liên lạc của Ðức Chúa Trời đối với vũ trụ, và dẫn lịch sử loài người vào (1:1-2:3). 
             (2) Phác họa về lịch sử loài người trước Áp-ra-ham, tỏ ra sự liên lạc Ðức Chúa Trời với loài người, và dẫn lịch sử của tuyển dân vào (2:4-11:26); 
             (3) Lịch sử của dân sự giao ước cho đến thời xuống Ai-cập (11:27-50:). Phần lớn thứ hai đó gồm sự dựng nên cả loài người và địa vị như vốn có (2:4-25), sự sa ngã (3:), sự tấn bộ về tội lỗi (4:1-15), nòi giống thế gian (16:24), dòng giống tin kính (25-5:32), thêm sự gian ác (6:1-8), nước lụt (6:9-9:17), lập lại dân cư ở khắp thế gian (9:18-10:32), sự xây cất tháp Ba-bên (11:1-9), và dòng giống Sem lúc mới nảy mầm (11:10-26). Phần lớn thứ ba đó gồm lại lịch sử sớm của Áp-ra-ham, sự kêu gọi và sự trú ngụ tại Ca-na-an (11:27-25:10), đời sống của Y-sác từ sự chết của cha, cho đến khi khởi hành xuống xứ Mê-sô-bô-ta-mi (25:11-27:40), còn đời sống của Gia-cốp từ khi qua xứ Mê-sô-bô-ta-mi cho đến khi Y-sác qua đời (27:41-35:29), dòng dõi của Ê-sau (36:) lịch sử của Giô-sép đến khi người bị bán xuống xứ Ai-cập (37:), tội lỗi và sự xấu hổ của Do-thái (38:), Giô-sép ở trong xứ Ai-cập (39:-45:), Gia-cốp và cả nhà với Giô-sép tại xứ Ai-cập (46:-49:), và sự chết của Gia-cốp và Giô-sép (50:).
       2. Ðây là lối phân tích thứ hai: Trước giả Sáng thế ký, sau lời tiểu dẫn (1:-2:3), đã chép gồm cả truyện trong 10 phần liên tiếp nhau, mỗi phần bắt đầu với câu: "Nầy là dòng dõi của..." Xem 2:4-4:26; 5:1-6:8; 6:9-9:29; 10:1-11:9; 11:10-26; 11:27-25:11; 25:12-18; 25:19-35:29; 36:1-37:1; 37:2-50:26.
       3. Ðây là lối phân tích thứ ba: "Ban đầu" là chìa khóa của 9 phần lớn.
       A. Sáng thế ký là một lịch sử thượng cổ gồm lại một khoảng trên 2000 năm (1:-11:9). 
             (1) Ban đầu của thế gian vật chất (1:1-25). 
                   a) Câu 1:1 nói về sự tạo thành như vốn có. 
                   b) Ê-sai 45:18 nói Ðức Chúa Trời không dựng nên thế gian như thấy trong câu 1:2. 
                   c) Xem II Phi-e-rơ 3:5,6. 
                   d) Sáu ngày chép là sáu ngày lập lại. 
             (2) Ban đầu của loài người (1:26-2:) 
                   a) Người được dựng nên không phải bởi tấn hóa. 
                   b) Người được đặt vào trong vườn Ê-đen. Nghĩa tên nầy theo tiếng Accadian (A-cát, 10:10) là hoang vu, vì Ê-đen vốn như thế. 
             (3) Ban đầu của tội người (3:1-7). 
                   a) Ðổi sai lời Chúa, người nữ bớt và thêm vào lời Ngài. 
                   b) Người nữ "thấy," "hái ăn," và "trao cho." 
             (4) Ban đầu những Khải thị về sự cứu chuộc (3:8-24). 
                   a) Lời hứa thứ nhứt về Ðấng Cứu chuộc, là khởi đầu những sự khải thị sau. 
                   b) Lần thứ hai chép về các thần Chê-ru-bin (Xuất Ê-díp-tô ký 25:20) thì không thấy có gươm vì có huyết. 
             (5) Ban đầu lập gia đình người (4:1-15). 
                   a) Gia đình thứ nhứt. 
                   b) Sự cãi lẫy thứ nhứt trong gia đình là về tôn giáo. 
                   c) Nên chú ý 4:7 chép "tội lỗi rình đợi trước cửa" như một con thú dữ. 
             (6) Ban đầu của sự văn minh vô đạo (4:16-9:.) 
                   a) Thành thứ nhứt được xây dựng, và sự sống nơi thành thị do từ một kẻ giết người. 
                   b) Nên chú ý 4:23 và 26. 
             (7) Ban đầu của các dân tộc trên thế gian (10:). 
                   a) Phần nầy rất quan hệ. 
                   b) Ðây, ta có căn nguyên của các dân tộc. 
             (8) Ban đầu của sự lộn xộn tiếng nói (11:). 
                   a) Lần thứ nhứt thử được thống nhứt ngoài Ðức Chúa Trời. 
                   b) Sự thử tại tháp Ba-bên để cho loài người hiệp một sẽ diễn lại bởi Antichrist. Xem Khải Huyền 17:.
       B. Lịch sử các Tổ phụ trên 300 năm. 
             (9) Ban đầu của nòi giống Hê-bơ-rơ (12:-50:). 
                   a) Phần nhiều phần nầy chép tiểu sử. 
                   b) Có tiểu sử của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp.
       V. Sứ mạng của sách.-- 
             (1) Ấy là loài người trong mọi sự thất bại có thể nhờ sự cứu rỗi của Ðức Chúa Trời. 
             (2) Người cần phải từng biết sự yếu đuối và sự thiếu thốn của chính mình trước khi tình nguyện chọn Ðức Chúa Trời. 
             (3) Trong Sáng thế ký thấy người thất bại: 
                   a) Ở giữa một nơi hoàn toàn (Ê-đen). 
                   b) dưới sự cai trị của lương tâm (từ sự Sa ngã đến Nước lụt). 
                   c) Dưới sự cai trị của các Tổ phụ (từ Nô-ê đến Giô-sép). Chú ý: sách bắt đầu chép Ðức Chúa Trời và cuối cùng chép về một quan tài. 
             (4) Song trong sự thất bại, người có thể nhờ ơn điển và sự hoạt động Ngài. "Nơi nào tội lỗi đã gia thêm thì ơn điển lại càng dự dật hơn nữa" (Rô-ma 5:20).
Tiến sĩ Scofield chú thích về Sáng thế ký như sau nầy:
       Sáng thế ký là một sách của những sự ban đầu. Sách không những chỉ thuật sự khởi đầu của trời và đất, cây cỏ, thú vật và loài người, song cũng chép về những sự thiết lập và sự quan thiệp của loài người. Về hình bóng, sách nói về sự sanh lại, trời đất mới, tại đó trước hết thảy là vô hình và đổ nát. Với Sáng thế ký bắt đầu sự tuần tự Khải thị của chính Ðức Chúa Trời được tổng kết ở trong Ðấng Christ. Có ba tên trước hết của Ðức Chúa Trời, Ê-lô-him, Giê-hô-va, và Adonai, và năm tên phức hợp quan hệ nhứt được ghi chép trong Sáng thế ký, và trong một sự tấn tới có trật tự không thể thay đổi ngoài sự lộn xộn.
       Vấn đề tội lỗi như quan thiệp địa vị của người ở trên đất, sự liên lạc của người đối với Ðức Chúa Trời, và sự giải quyết vấn đề đó, bày tỏ phần cốt yếu ở đây. Về tám giao ước lớn làm điều kiện sự sống loài người và sự cứu chuộc của Chúa, có bốn là giao ước về vườn Ê-đen, với A-đam, Nô-ê và Áp-ra-ham đều ở trong sách nầy; và ấy là những giao ước nền tảng, còn bốn giao ước khác với Môi-se, Pha-lê-tin, Ða-vít và các Giao ước Mới, được thuật lại cốt để thêm tiểu tiết và mở mang.
       Sáng thế ký cũng nhập vào trong chính sự kiến thiết của Tân Ước, trong đó trích lục trên 60 lần trong 17 sách. Bởi đó, theo ý sâu nhiệm, cội rễ của mọi sự Khải thị sau đó được đâm rất sâu trong Sáng thế ký, ai muốn thật hiểu thì phải khởi sự từ sách nầy.
       Sự soi dẫn Sáng thế ký và tánh cách như là một khải thị của Ðức Chúa Trời có lời chứng là thật của lịch sử và Ðấng Christ (Ma-thi-ơ 19:4-6; 24:37-39; Mác 10:4-9; Lu-ca 11:49-51; 17:26-29,32; Giăng 1:51; 7:21-23; 8:44,56).
       Sáng thế ký chia làm năm phần chính: (I) Cuộc tạo thành (1:1-2:25). (II) Sự sa ngã và sự cứu chuộc (3:1-4:7). (III) Các dòng dõi khác nhau, Ca-in và Sết cho đến Nước lụt (4:8-7:24). (IV) Nước lụt cho đến Ba-bên (8:1-11:9). (V) Từ sự kêu gọi Áp-ra-ham cho đến sự chết của Giô-sép (11:10-50:26).
       Sáng thế ký 23:4.-- So Sáng thế ký 33:19; 50:13; Giô-suê 24:32; Công vụ các sứ đồ 7:15,16. Người ta tưởng rằng có sự khác nhau trong các câu nầy. Song điều đó sẽ không còn nữa, nếu ta giả định cách tự nhiên rằng: trong khoảng thời gian 80 trước lúc Áp-ra-ham mua mộ địa gia đình (Sáng thế ký 23:4,20) và hồi Gia-cốp mua đất đó (Sáng thế ký 33:19), thì "con cháu Hê-mô" (Công vụ các sứ đồ 7:15,16) đã lấy lại đồng ruộng, trong đó có hang làm mộ địa. Ðáng lẽ, quyết rằng đó là sản nghiệp xưa của tỏ phụ để lại, thì Gia-cốp mua đồng ruộng lần nữa. Hếch là tổ tông chung cả.
       Sáng thế ký 46:26.-- So câu 27. Người ta tưởng là có sự phản đối nhau. "Các người đến xứ Ai-cập với Gia-cốp" là 66 người. "Các người thuộc về nhà Gia-cốp" (câu 27, tức là hết cả chi họ Gia-cốp là 70 người, tức 66 người đi với Gia-cốp, Giô-sép với hai con người, đã ở trong Ai-cập, là 69 người, với chính Gia-cốp là 70 người. So Công vụ các sứ đồ 7:14 ở đó gồm lại cả vợ các con Gia-cốp.

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.