Sậy. Roseau.

        



      Thật rõ ràng chữ kaneh (trên chữ a có dấu -) và tiếng Hy-lạp đồng nghĩa là kalamos chỉ về nhiều thứ. Có người trưng dẫn về những lối dùng cây sậy khác nhau như: cán "cân" (Ê-sai 46:6); "cái cần để đo" (Ê-xê-chi-ên 40:3; Khải Huyền 11:1; 20:1,15); "cây sậy làm gậy," tức cậy gậy để đi (Ê-sai 36:6; Ê-xê-chi-ên 29:6); và bút viết (III Giăng 13), v.v.. song ngoài đó ra còn chỉ ít nhứt là hai điều đặc biệt khác hẳn nhau: 
             (1) Cây sậy thường và 
             (2) thứ có chất ngửi thơm dịu.
       Tân Ước chép "cây sậy bị gió rung" (Ma-thi-ơ 11:7; Lu-ca 7:24); "bẻ cây sậy đã gãy" (Ma-thi-ơ 12:20), "để một cây sậy trong tay hữu Ngài" (Ma-thi-ơ 17:29), "lấy cây sậy đánh đầu Ngài" (Mác 15:9) "để trên đầu cây sậy" (Ma-thi-ơ 27:48; Mác 15:36).
             1. Thứ sậy rất thông thường trong xứ Pha-lê-tin là Arundo donax, tiếng A-rạp gọi là Kasab farasi, "sậy Ba-tư". Sậy đó mọc rất nhiều trong trũng sông Giô-đanh, dọc bờ, và những sông con chảy vào đó, và những ốc đảo (oasis) gần Biển Chết, nhứt là quanh 'Ain Feshkah, ở góc phía Bắc. Ấy là thứ sậy thường cao độ 6 thước, xanh tươi tốt đẹp trong mùa Hạ, khi mọi giống cây đã chết và héo, và mùa xuân, đứng xa dòng nước thấy rất đẹp, vì hoa nở hoàn toàn và những túp như lụa ở trên đầu mỗi cây sậy. "Bụi sậy" (Gióp 40:16) làm nơi trú ẩn cho một số lớn thú vật và chim muông. Thứ sậy nầy hầu hết được nói đến trong Kinh Thánh.
             2. Thứ Kaneh trong Giê-rê-mi 6:20 và Xuất Ê-díp-tô ký 30:23 dịch là "xương bồ" (xem Nhã Ca 4:14) chỉ về một thứ, dầu không biết rõ trong các khúc đó. Ấy là một phần hương liệu chế dầu thánh (Xuất Ê-díp-tô ký 30:23), được nhập cảng từ xa (Giê-rê-mi 6:20; Ê-xê-chi-ên 27:19), rất hiếm và quí (Ê-sai 43:24). Ấy có lẽ là thứ "calamus parfumé" của Phliny, hoặc một thứ sậy hoặc lau có mùi thơm. Có mấy người tưởng là thứ vỏ cây thơm. Sự êm dịu nói đây thuộc về khứu giác không phải vị giác.

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.