Sự Nên thánh. Sanctification.

       


      Nguyên gốc "sự nên thánh" trong Cựu Ước là một động từ Hê-bơ-rơ, kadhash, trong Tân Ước là động từ hagiázô, nghĩa là biệt riêng ra. Nguyên văn Cựu Ước không chép danh từ "sự nên thánh", và Tân Ước chỉ chép (hagiasmós) 10 lần. Từ nguyên gốc đó chép mấy danh từ quan hệ, như: thánh, được thánh, sự thánh khiết, đem dâng cho, biệt riêng ra thánh, làm nên thánh, sự nên thánh. Ý nghĩa cũng được mở rộng, tức từ lối khởi dùng về lễ nghi bề ngoài trong Cựu Ước đến lối dùng về luân lý bề trong trong Tân Ước.
       1. Lối dùng về nghi lễ bề ngoài.--
             a) Theo Cựu Ước, người và vật nào biệt riêng cho Ðức Chúa Trời đều là thánh (Xuất Ê-díp-tô ký 13:2; so Dân số ký 3:13; 8:17), như: những người Lê-vi (Dân số ký 3:12), thầy tế lễ và Hội mạc (Xuất Ê-díp-tô ký 29:43), bàn thờ và mọi vật dùng đó (Xuất Ê-díp-tô ký 29:36), của lễ (Xuất Ê-díp-tô ký 29:27), ngày lễ: như Sa-bát (Nê-hê-mi 13:19-22), kiêng ăn (Giô-ên 1:14), v.v., và chính dân Y-sơ-ra-ên, khi Ðức Chúa Trời nhận là thuộc về Ngài, cũng là "một nước thầy tế lễ, cùng một dân tộc thánh" (Xuất Ê-díp-tô ký 19:15,16). Người Y-sơ-ra-ên có thể biệt nhà hoặc ruộng mình ra thánh cho Ngài, còn con đầu lòng của súc vật mình không được vì đã thuộc về Ngài rồi (Lê-vi ký 27:14-16,26).
       Nhưng khởi dùng như thế, chưa có ý hoàn toàn về đức tánh đạo đức bề trong. Nên mới hiểu vì cớ nào từ nguyên gốc kadhash đó dịch ra "kỵ nữ" (Sáng thế ký 38:21, so Phục truyền luật lệ ký 23:18; I Các vua 14:24; Ô-sê 4:14), tức chỉ một người nữ biệt riêng ra cho tà thần và đền chùa, cách trái đạo đức. Vì thói quen đó, dân Y-sơ-ra-ên bị Chúa quở trách (Phục truyền luật lệ ký 23:17). Vả lại, Giê-hu "ra lịnh rằng: Hãy biệt ra thánh một hội đồng trọng thể cho thần Ba-anh" (II Các vua 10:20; so Giô-ên 1:14). Vậy, theo Cựu Ước, có khi "biệt ra thánh" chỉ về lối dùng lễ nghi bề ngoài mà thôi.
       Suốt cả Cựu Ước xưng Ðức Chúa Trời là Ðấng Chí Thánh Ðộc nhứt (Lê-vi ký 10:3; Phục truyền luật lệ ký 32:51; Ê-sai 6:3,4; 10:20; Ê-xê-chi-ên 20:41; 28:22, v.v.). Vậy, Ngài lấy sự thánh khiết làm rất quí đến đỗi chép "Ðức Chúa Trời Thánh, Ðức Chúa Trời kỵ tà" (Giô-suê 24:19; so Ê-xê-chi-ên 38:23), ngang nhau như thế dường như có ý Ngài không thể chịu người nào biệt mình ra thánh song còn ô uế không sạch tội. Nên Ngài truyền: "Hãy nên thánh, vì ta là Giê-hô-va Ðức Chúa Trời... Ðấng làm nên thánh" (Lê-vi ký 20:7,8; 22:32). Phép cắt bì người Y-sơ-ra-ên phải chịu, trước làm dấu biệt mình ra cho Ngài (Sáng thế ký 17:10), sau chỉ bóng Ngài "cất sự ô uế khỏi lòng" (Phục truyền luật lệ ký 30:6), và luật lệ được sạch chép trong Lê-vi ký 17:-26:, đều có ý đó.
       Ngài "tự nên thánh" và "làm nên thánh" (Dân số ký 20:13; Ê-xê-chi-ên 36:23) là khi sự cao cả, oai nghi và quyền năng Ngài được tỏ ra. Bởi đó Ngài phán: "Hãy tôn Ðức Giê-hô-va vạn quân là thánh" (Ê-sai 8:13), tức phải biệt mình ra thánh để tỏ rõ những thuộc tánh Ngài. Tại Mê-ri-ba, Môi-se không vâng lời Chúa mà đập hòn đá, nên bị phạt vì tội tự dấy mình lên thế cho Ngài, không "tôn Ngài nên thánh trước mặt dân sự" (Dân số ký 20:11,13; 27:14; Phục truyền luật lệ ký 32:51). Na-đáp và A-bi-hu bị lửa Chúa thiêu đốt cũng thế (Lê-vi ký 10:1-3). Ngài là "Ðấng nên thánh trong sự công bình," nên phải theo sự công bình mà đoán phạt điều chi trái với sự thánh khiết Ngài (Ê-sai 5:16,25; 9:12,17,21; 10:4). Khi sự thánh khiết Ngài được tỏ ra, người nên sợ và kinh hãi, và vâng phục (Ê-sai 8:13; 29:23).
             b) Trong Tân Ước, Chúa Jêsus phán: "Ðền thờ làm cho vàng nên thánh," và "bàn thờ làm cho của lễ nên thánh" (Ma-thi-ơ 23:17-19, cũng xem Hê-bơ-rơ 9:13; I Ti-mô-thê 4:5), ấy chỉ về bề ngoài giống như Cựu Ước. "Làm nên thánh" (Giăng 17:19) chỉ về cả bề ngoài lẫn bề trong. "Thánh đồ" dùng 56 lần trong Tân Ước chắc không chỉ luôn về một tín đồ hoàn toàn, song về người thuộc Ðấng Christ cũng như trong Cựu Ước, thầy tế lễ và của lễ là biệt riêng cho Ngài. Bởi đó, Phao-lô mới có thể chào các tín đồ như thánh đồ, dầu phải quở trách vì là "người theo xác thịt... con đỏ trong Ðấng Christ (I Cô-rinh-tô 1:2; 2:1-3, cũng xem Công vụ các sứ đồ 20:32; 26:18, so với I Cô-rinh-tô 1:2; 6:11; Ê-phê-sô 1:18; Cô-lô-se 1:12). Hê-bơ-rơ chép về người tin được nên thánh hoàn toàn bởi huyết Ðấng Christ, cũng nói người bội đạo coi huyết đó như ô uế, lại khinh lờn Ðức Thánh Linh ban ơn (10:29; so 13:12). Khi chép chồng không tin được nên thánh vì vợ tin, v.v. (I Cô-rinh-tô 7:12-14), cũng có ý nghĩa bề ngoài. Trái lại khi chép: được "nên thánh bởi Ðức Thánh Linh" (Rô-ma 15:16; I Phi-e-rơ 1:2) và "nên thánh trong Ðức Chúa Jêsus Christ" (I Cô-rinh-tô 1:2), dầu hơi quan thiệp với I Cô-rinh-tô về bề ngoài nhưng chắc chỉ về tín đồ biệt mình nên thánh về phần đạo đức bề trong. Ấy tỏ ra lẽ đạo Phao-lô về Ðức Thánh Linh là sự sống mới trong tín đồ. I Phi-e-rơ 3:15 chép: "Hãy tôn Ðấng Christ là Chúa, làm thánh trong lòng mình" cũng vậy.
       II. Lối dùng về luân lý bề trong.-- Ðến đây ta thấy trong Cựu Ước, ý nghĩa lễ nghi bề ngoài được tỏ rõ hơn ý nghĩa luân lý bề trong của sự nên thánh, dầu suốt cả Kinh Thánh vẫn có hai ý nghĩa đó. Nhưng trái lại, ta thấy Tân Ước tỏ rõ hơn phần luân lý bề trong. Tín đồ Ðấng Christ lo rất nhiều về lối dùng sự nên thánh bề trong, vì bởi đó được biết phương pháp hành động để đời sống mình trở nên thánh khiết, khỏi tội, và hiệp với ý muốn của Ðức Chúa Trời.
       Vậy, tín đồ thường tự hỏi: "Dầu biệt mình riêng ra thuộc về Ðức Chúa Trời, nhưng bổn tánh và đời sống đổi mới thể nào? Nên nhớ: ý người thuộc về Ðức Chúa Trời là Ðấng thế nào, thì người cũng mới được thể ấy. Các người nữ thuộc nữ thần ở Ðền thờ Aphrodite tại thành Cô-rinh-tô xưa là người xấu nết, vì có ý như thế về bổn tánh nữ thần mình thờ. Bởi vậy, ý tín đồ mở mang thêm về luân lý, đạo đức, và sự thuộc linh của Ngài bao nhiêu, thì tín đồ đó mới tấn tới về sự nên thánh bấy nhiêu. Trong Cựu Ước có tiên tri thấy Ðức Giê-hô-va không phải là Ðấng chỉ lấy lẽ bề ngoài làm quan hệ, song vì lòng yêu thương và công bình nên Ngài lấy sự nên thánh hoàn toàn trong lòng người làm quan hệ hơn. Sứ mạng lớn của những tiên tri đó là: "Kìa, đây là Ðức Giê-hô-va phán, hãy nghe!" Người biệt mình riêng ra thánh thuộc về Ngài có ý nghĩa gì? "Muôn vàn của lễ các ngươi nào có can hệ gì đến Ta?... Hãy rửa đi, hãy làm cho sạch!... Ðừng làm dữ nữa!... Hãy học làm lành, tìm kiếm sự công bình..." (Ê-sai 1:10-17). "Khi Y-sơ-ra-ên còn thơ ấu, Ta yêu dấu... Ta ưa sự nhơn từ mà không ưa của lễ, ưa sự nhìn biết Ðức Chúa Trời hơn là của lễ thiêu" (Ô-sê 11:1; 6:6).
       Bởi vậy, ý lễ nghi bề ngoài gồm lại đức tánh đạo đức bề trong. Khi thuộc về Ngài, và làm con Ngài không phải chỉ về phần bề ngoài thôi đâu! Chúa Jêsus dạy như thế. Nguyên văn "sự nên thánh" không chép trong ba sách Tin lành đâu, song vẫn chép chữ "con," vì đối với người Do-thái, ấy có ý "thuộc về" đó, vì một con có vâng lời và được ơn riêng. Chúa Jêsus xưng rằng người nào làm con của Ðức Chúa Trời, cố ý người đó giống Ngài vì cớ lòng yêu thương (Ma-thi-ơ 5:43-48), và anh chị Ngài là kẻ "làm theo ý muốn Ðức Chúa Trời" (Mác 3:35).
       Phao-lô cũng lấy ý đó và liên lạc với danh từ "thánh đồ" và làm nên thánh, như khi chép "gởi cho... những người đã được nên thánh... được gọi làm thánh đồ" (I Cô-rinh-tô 1:2; so Rô-ma 1:1). Vậy, bởi đó Ê-phê-sô 4:1 chép: "Anh em phải ăn ở một cách xứng đáng với chức phận mà Chúa đã gọi anh em." Cũng xem I Tê-sa-lô-ni-ca 2:12; Phi-líp 1:27. Mục đích của "kẻ được gọi theo ý muốn Ngài" là "Ngài đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài" (Rô-ma 8:29). Phao-lô vẫn khuyên: vì thuộc về Ðấng Christ, tín đồ phải "ở trong Ngài" và "phải sống cho Ngài" (Cô-lô-se 3:1-4; I Tê-sa-lô-ni-ca 5:10). Vậy, chớ không phải chỉ phần bề ngoài thôi, song cũng chỉ phần bề trong nữa. Phải dâng thân thể, tài năng, tình cảm mình cho Ngài đổi mới và cai trị cả (Ê-phê-sô 4:13,20,23,24,32 và Rô-ma 12:1), như thế được nên thánh hoàn toàn cả bề ngoài lẫn bề trong.
       Nên chú ý một đời sống thánh khiết chỉ về tín đồ trong lòng giao thông trực tiếp với Chúa để vâng lời và phục sự Ngài cách yêu mến luôn. Vậy, Phao-lô chép tín đồ: "Hãy sống cho Chúa" (Rô-ma 14:8; 6:13; Ga-la-ti 2:19), đến nỗi đời sống đầy dẫy sự giao thông nầy, và phải làm chứng "không phải là tôi sống nữa, nhưng Ðấng Christ sống trong tôi" (Ga-la-ti 2:20). Ðời sống thánh khiết, nhờ Ðức Thánh Linh hành động trong mình, hằng ngày nhờ cậy và yêu mến Ðấng làm "A-ba! Cha!" (Rô-ma 8:15; Ga-la-ti 4:6), giữ lòng nhơn từ, tốt lành (Ma-thi-ơ 5:43-48), "tại đức tin hay làm ra những điều có giá trị... bởi sự yêu thương" (Ga-la-ti 5:6), và thật là đời sống "có đồng một tâm tình như Ðấng Christ đã có" (Phi-líp 2:5). Nếu sự thánh khiết tỏ ra địa vị của tấm lòng và đời sống hiệp với ý muốn Ngài, thì sự nên thánh là công việc hoặc phương pháp để vào địa vị đó. Công việc đó là Ðức Chúa Trời làm. Chúa Jêsus cầu rằng: "Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh" (Giăng 17:17); Phao-lô cầu cho tín đồ tại Tê-sa-lô-ni-ca như thế (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23), và xưng là Ðấng Christ làm cho Hội Thánh nên thánh (Rô-ma 6:22; II Tê-sa-lô-ni-ca 2:13; II Tê-sa-lô-ni-ca 2:21; I Phi-e-rơ 1:2). Cả Tân Ước dạy rằng các ơn trong đời sống thuộc linh của tín đồ là Chúa ban cho, và làm ra bởi Ðức Thánh Linh. "Chính Ðức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn, vừa làm theo ý tốt Ngài" (Phi-líp 2:13; so Rô-ma 8:2-4,9,14,16-26; Ga-la-ti 5:22). Cũng so "người mới" (II Cô-rinh-tô 5:17; Ga-la-ti 6:15) với "việc Ngài làm ra" (Ê-phê-sô 2:10; 4:24). Vậy, một đời sống được nên thánh, ấy là công việc tạo ra thứ nhì của Ngài.
       Kết luận.-- Suốt cả Kinh Thánh, sự nên thánh cả bề ngoài lẫn bề trong là một lẽ đạo rất quan hệ. Chúa phán: "Hãy nên thánh, vì ta là thánh" (I Phi-e-rơ 1:16). Sự nên thánh không phải là sự trọn vẹn vô tội vì cội rễ tội lỗi bổn tánh A-đam trong người lập tức bị cất đi; không phải là lễ báp-têm bằng Ðức Thánh Linh; cũng không phải là sự cứu chuộc, dầu việc làm nên thánh bắt đầu lúc người tin Chúa được tái sanh bằng Ðức Thánh Linh. Sự nên thánh thật là một việc của đời sống bề trong, khiến tín đồ phân rẽ khỏi tội mà hiệp với Ðấng Chí Thánh cũng như xưa phép cắt bì làm dấu bề ngoài tỏ ra dân Do-thái biệt riêng thuộc về Ngài vậy. Ðức Chúa Trời đã lập Chúa Jêsus Christ làm sự nên thánh của tín đồ (I Cô-rinh-tô 1:30), nên phải nhờ sự hiện diện Ngài trong lòng, bởi Ðức Thánh Linh hành động, để tỏ ra sự thánh khiết; nếu không thì tự mình không sống cách thánh khiết được (I Cô-rinh-tô 12:13; Rô-ma 8:9; so A-mốt 5:21-25; Mi-chê 6:6-8).
       Ðức Chúa Trời bảo hãy nên thánh và cũng làm việc đó, sao không làm ngay một lúc cho trọn vẹn? Chắc Phao-lô có ý đó khi cầu thay: "Nguyền xin tâm thần, linh hồn và thân thể của anh em đều được giữ vẹn, không chỗ trách được" (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23 so 3:13). Ðể trả lời phải phân biệt tôn chỉ với sự từng trải. Giống Giăng (I Giăng 1:6; 3:9). Phao-lô quyết định đời sống Ðấng Christ và đời sống tội lỗi không thể đi chung với nhau, và Phao-lô không chịu nhận biết sự vâng lời và mẫu mực chưa trọn vẹn. Bởi thế, Phao-lô phải dạy lẽ đạo cao thượng nhứt cho tín đồ dầu là người rất nghèo về phần thuộc linh. Ðức Chúa Trời cũng vậy. Nên xem lời Phao-lô khuyên tín đồ phải lớn lên và tấn tới (I Tê-sa-lô-ni-ca 3:12; 5:14). Bởi vậy, sự nên thánh không phải là tạm thời, nhưng là một công việc và ơn riêng cho cả đời sống của tín đồ mở mang đến "khi Ngài hiện đến, chúng ta sẽ giống như Ngài, vì sẽ thấy Ngài như vốn có thật vậy. Ai có sự trông cậy đó trong lòng, thì tự mình làm nên thánh sạch, cũng như Ngài là thanh sạch" (I Giăng 3:2,3).
       Xem bài Ðức Thánh Linh và sự thánh khiết.
       D.I.J. chú thích:
       Sự nên thánh.-- Ấy khởi đầu từ sự xưng công bình của tín đồ, và gồm lại phương pháp mà Ðức Chúa Trời dùng để khiến một người được công bình và cuối cùng thánh khiết. Song đây không phải nhờ công đức hoặc việc làm mà người được nên thánh. Chúa Jêsus Christ khiến tín đồ nên thánh bởi ơn điển Ngài, chỉ nhơn đức tin chớ không phải bởi việc làm của tín đồ, song việc làm chỉ là kết quả của ơn điển Ðức Chúa Trời trong lòng tín đồ. Sự nên thánh tức là Thánh Linh của Ðấng Christ ngự trong lòng tín đồ. Sự nên thánh tức là Thánh Linh của Ðấng Christ ngự trong lòng để tỏ đời sống Ngài trong tánh hạnh và cách cư xử của tín đồ. Ðiều kiện độc nhứt của sự nên thánh là phải ở trong Ðấng Christ nghĩa là giao phó trọn lòng mình cho Ngài và hết lòng tin cậy Ngài, bởi đó Ngài có thể bày tỏ sự sống Ngài trong tín đồ. "Ở trong Ngài" bao giờ cũng phải là thời hiện tại; đã "ở trong Ngài" có giúp đỡ, song thời quá khứ không hề thay vào thời hiện tại được (Hê-bơ-rơ 10:10; I Phi-e-rơ 2:1; Công vụ các sứ đồ 26:18). Vậy, theo đây là những bước của sự nên thánh:  
       a) Ðược kể là: Nền tảng vĩnh viễn hay căn nguyên của sự nên thánh:
       Ðức Chúa Trời xưng tín đồ là công bình, vì bởi đức tin tín đồ hiệp một và làm một với Chúa Jêsus Christ. Vậy, chính Chúa Jêsus Christ là nguồn gốc độc nhứt của sự nên thánh, cũng như Ngài vốn là "Cội rễ và Cuối cùng của đức tin chúng ta" (Hê-bơ-rơ 12:2).
       b) Ðược ban cho: Khởi đầu sự nên thánh:
       Tín đồ được tái sanh bởi Thánh Linh của Ðức Chúa Trời và bởi đó được để riêng cho Ngài. Ý nghĩa căn bản của danh từ "nên thánh" là "biệt riêng ra," tức là phân rẽ khỏi mọi điều dữ bởi kết hiệp với Ðức Chúa Trời là Ðấng mà tín đồ bởi đức tin hiệp một trong Chúa Jêsus Christ (Lê-vi ký 27:14; II Sử ký 7:16; Công vụ các sứ đồ 26:18; I Cô-rinh-tô 6:11).
       c) Thời quyết định: Sự nên thánh hoàn toàn:
       Tín đồ được dẫn dắt bởi Ðức Thánh Linh và sự yêu thương của Ðức Chúa Trời để hoàn toàn nhường chính mình cho Ðấng Christ cai trị và ngự trong lòng mình. Như tội nhơn nhận Ðấng Christ làm Ðấng Cứu chuộc, thánh đồ cũng vậy cần phải nhận Ðấng Christ làm Ðấng khiến nên thánh. Trong vòng dân Chúa, có nhiều người không nhận thấy sự từng trải của biến động nầy là quan hệ, nhiều người khác đòi quá lẽ và không nhận thấy phương pháp theo sau. Sự nhận lấy Ðấng Christ và quyền phép Ngài ngự đầy dẫy trong mình sẽ xảy ra sớm trong sự từng trải của tín đồ được dẫn dắt bởi Thánh Linh của Ðức Chúa Trời, cẩn thận kê cứu Kinh Thánh, và để Kinh Thánh tra xét lòng mình (Hê-bơ-rơ 4:12; II Cô-rinh-tô 6:17; Cô-lô-se 1:21-23; II Tê-sa-lô-ni-ca 2:13; Hê-bơ-rơ 2:11).
       d) Phương pháp: Phương pháp của sự nên thánh hoàn toàn:
       Sự nên thánh cứ liên tiếp như một phương pháp suốt đời sống người tín đồ. Thời quyết định dâng mình trọn vẹn còn phải có phương pháp của sự nên thánh hằng tiếp theo, đức tin lại dẫn đến đức tin, như Ðức Thánh Linh bày tỏ sự sống Ðấng Christ trong tánh hạnh và cách cư xử của tín đồ, và như tín đồ cứ ở trong Ðấng Christ. "Tánh hạnh làm nên người; Ðấng Christ tạo nên tánh hạnh". Vậy, từ đầu đến cuối, chính Ðấng Christ vừa là Sự nên thánh vừa là Ðấng khiến nên thánh của ta (I Cô-rinh-tô 1:30).
       e) Ðược vinh hiển: Khi Ðấng Christ tái lâm, thân thể tín đồ đã ngủ sẽ sống lại, cùng với tín đồ còn sống sẽ được cất lên tại nơi không trung mà gặp Chúa (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:16-17; I Giăng 3:2); sự vinh hiển và sự hoàn toàn của Ðấng Christ sẽ được tỏ ra trong Ngài. Ấy là điểm tột bực của sự cứu chuộc và sự nên thánh; song điểm tột bực đó chỉ là khởi đầu sự vinh hiển đời đời (II Tê-sa-lô-ni-ca 1:10).
       Tiến sĩ Scofield chú thích:
       Ma-thi-ơ 4:5.-- Trong Tân Ước, một tiếng Hy-lạp, hagios, viết mấy lối khác nhau, được dịch là thánh, sự thánh khiết, biệt riêng ra thánh, được biệt ra thánh, sự nên thánh. Giống như tiếng Hê-bơ-rơ, qodesh, có nghĩa là "để riêng cho Chúa."
       Lê-vi ký 21:8.-- Ấy tỏ ra sự thánh khiết và sự nên thánh trong Cựu Ước -- tức một người biệt riêng ra để hầu việc Ðức Chúa Trời.
       Sáng thế ký 2:3.-- Trong Cựu Ước, một tiếng Hê-bơ-rơ, qodesh, dịch là biệt riêng ra, đem dâng cho, và thánh. Có nghĩa là để riêng hầu việc Ðức Chúa Trời.
       Xa-cha-ri 8:2.-- Tóm tắt sự thánh khiết, sự nên thánh: Trong Cựu Ước, các danh từ đem dâng cho, làm lễ dâng, sự nên thánh, và sự thánh khiết là những lối khác nhau để dịch ra một tiếng Hê-bơ-rơ, dùng về người và vật, và có một nghĩa giống nhau, tức là để riêng cho Ðức Chúa Trời. Chỉ khi dùng về chính Ðức Chúa Trời (như Lê-vi ký 11:45), hoặc về các thiên sứ thánh (như Ða-ni-ên 4:13), cần phải chỉ về một đức tánh đạo đức bề trong. Một thầy tế lễ hoặc người khác được để riêng phục sự Ðức Chúa Trời, nếu lòng muốn và ước ao như thế, chắc sẽ từng trải càng ngày hơn sự biệt mình khỏi sự dữ bề trong; song phương diện đó tỏ rõ trong Tân Ước, không phải Cựu Ước.
       Khải Huyền 22:11.-- Tóm tắt sự nên thánh và sự thánh khiết:
       1. Trong cả Tân Ước, cũng một tiếng Hê-bơ-rơ và Hy-lạp được dịch là "biệt ra thánh" và "sự thánh khiết" bằng những lối viết khác nhau theo mẹo. Duy chỉ có một nghĩa chung là "để riêng cho Ðức Chúa Trời."
       2. Trong cả Tân Cựu Ước, những danh từ đó đều chỉ về vật hay người.
       3. Khi dùng về vật, không gồm ý đức tánh đạo đức; nhưng vật đó vì để riêng cho Chúa mới được biệt riêng ra thánh hoặc nên thánh.
       4. Sự nên thánh dùng về người, ý nghĩa có ba mặt:
             a) Về địa vị, những tín đồ bởi sự cứu chuộc được để riêng đời đời cho Ðức Chúa Trời, ấy "nhờ sự dâng thân thể của Ðức Chúa Jêsus Christ một lần đủ cả" (Hê-bơ-rơ 10:10). Cho nên về địa vị, người tín đồ là "Thánh đồ" và "thánh" từ lúc tin (Phi-líp 1:1; Hê-bơ-rơ 3:1).
             b) Về từng trải, tín đồ đang được nên thánh bởi công việc Ðức Thánh Linh nhờ Kinh Thánh (Giăng 17:17; II Cô-rinh-tô 3:18; Ê-phê-sô 5:25-26; I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23-24).
             c) Về phần kết, tín đồ được nên thánh hoàn toàn là khi Chúa hiện ra (Ê-phê-sô 5:27; I Giăng 3:2).

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.