Sứ đồ. Apôtre.

       

      I. Ðịnh nghĩa.-- "Một người được sai đi." Nguyên là tên chính thức gọi mười hai người mà Chúa Jesus đã sai đi giảng, là những người đã ở với Ngài suốt cả chức vụ Ngài trên đất. Phi-e-rơ nói về những đức tánh xứng đáng làm Sứ đồ trước khi cử người thay Giu-đa (Công-vụ các Sứ-đồ 1:21), tức phải là người đi với các môn đồ Chúa Jesus "trong cả thời gian mà Chúa đi lại giữa vòng họ, khởi đầu từ hồi Ngài chịu lễ báp-têm của Giăng cho đến ngày Chúa được cất lên, và phải là người chứng kiến với những người khác về sự sống lại Ngài". Chúa cũng phán vậy: "Còn như các ngươi đã bền lòng theo ta trong mọi sự thử thách ta..." (Lu-ca 22:28). Ðức Thánh Linh đã hứa cách đặc biệt nhắc lại cho các Sứ đồ nhớ mọi điều Chúa Jesus phán, và dẫn dắt họ vào mọi lẽ thật, hầu cho họ có thể làm chứng bằng quyền phép về Chúa Jesus cho mọi dân (Giăng 14:26; 15:26-27; 16:13-14).
       II. Quan thiệp với Chúa.-- Trong vòng các Sứ đồ, có người làm nghề đánh cá, người thâu thuế, và hầu hết đều vô học. Dầu trước đã được kêu gọi, song họ không cứ theo Chúa luôn mãi cho đến chừng Chúa kêu gọi làm Sứ đồ. Hết thảy đều bình đẳng (Ma-thi-ơ 20:20-27; Mác 9:34-39). Dầu vậy, có ba người đứng rất gần Ngài: Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng. Chỉ ba người đó chứng kiến sự khiến con gái Giai-ru sống lại, sự hóa hình trên núi, và cơn đau thương trong vườn Ghết-sê-ma-nê. Có thể thấy nhờ phần đạo đức để lập thứ tự các Sứ đồ còn lại: Giu-đa kẻ phản Ngài, trong các danh sách đều đứng hạng chót. Các môn đồ đứng xung quanh Chúa Jesus trong bốn vòng từ hẹp đến lớn: gần Ngài nhứt có Phi-e-rơ rồi đến Gia-cơ và Giăng; kế đến chín người khác, rồi đến bảy mươi môn đồ, sau hết đến các môn đồ chung. Song, "sự kín nhiệm" được tỏ cho mọi người đều nhau (Ma-thi-ơ 10:26-27). Có bốn danh sách Sứ đồ còn lại: Ma-thi-ơ 10:; Mác 3:16; Lu-ca 4:14 chép trong sách Tin lành, và Lu-ca còn chép ở Công-vụ các Sứ-đồ 1:13 nữa. Trong cả bốn, các Sứ đồ được chia làm ba hàng, mỗi hàng bốn người. Phi-líp đứng đầu hàng thứ hai, tức Sứ đồ thứ năm, Gia-cơ con A-phê đứng đầu hàng thứ ba, tức là Sứ đồ thứ chín; trong Ma-thi-ơ và Lu-ca, Anh-rê đứng sau Phi-e-rơ vì là anh em; trong Mác và Công-vụ các Sứ-đồ, Gia-cơ và Giăng theo nhau vì được gần gũi với Chúa hơn, nên đứng trước cả Anh-rê. Trong hàng thứ hai, Ma-thi-ơ khiêm nhường đặt mình sau Thô-ma; Mác và Lu-ca cho người một chỗ đúng là trước Thô-ma. Thô-ma, sau khi hết nghi ngờ (Giăng 20:28), đã tới đến đức tin đặc biệt, được sắp đặt trước Ba-tê-lê-mi (tức Na-tha-na-ên) và Ma-thi-ơ trong Công-vụ các Sứ-đồ. Trong Ma-thi-ơ và Mác, Tha-đê đứng trước Si-môn Xê-lốt (Hê-bơ-rơ: Canaannite), tức một người trong phái Xê-lốt. Song trong Lu-ca và Công-vụ các Sứ-đồ, Si-môn Xê-lốt đứng trước Giu-đe (Tha-đê) là anh em Gia-cơ. Giăng không chép danh sách nào song sách sau của người kể như có (Khải-huyền 21:14,19,20). Trong hàng thứ nhứt, có Phi-e-rơ và Giăng là những người chép Tân Ước, trong hàng thứ ba có Gia-cơ và Giu-đe. Xê-lốt một lần ở sau hết, trừ ra kẻ phản bội, về sau được tôn lên, mê tín cách ngu dại không phải luôn luôn là sự sửa soạn tốt nhứt để sau được tôn cao trong hàng có đức tin.
       III. Chúa sai đi.-- Chúa Jesus sai Sứ đồ đi từng đôi, ấy là một phương pháp giữ vững tình yêu anh em và sự hợp tác. Họ được sai đi lần thứ nhứt đương đời Chúa Jesus, để giảng về sự ăn năn và nhơn danh Chúa Jesus làm những phép lạ, là chỉ hạn chế cho người Y-sơ-ra-ên, để sửa soạn con đường cho Tin lành được giảng ra trước nhứt cho người Do-thái, nhằm và sau ngày Ngũ Tuần (Công-vụ các Sứ-đồ 3:25). Họ chậm hiểu về tánh chất thuộc linh của nước Ngài, và sự đóng đinh và sự sống lại của Ngài như là điều sơ lược cần thiết vào nước đó. Dầu Ngài đã sống lại, bảy người trong vòng họ trở về nghề đánh cá; và Ðấng Christ phải kêu gọi lần nữa, thì họ mới ở lại Giê-ru-sa-lem, chờ đợi lời hứa về Ðấng Yên Ủi (Giăng 21:; Công-vụ các Sứ-đồ 1:4). Từ ngày Ngũ Tuần, Ðức Thánh Linh được đổ ra, thì họ trở nên những người mới, làm chứng về quyền phép sự sống lại của Chúa Jesus, như Ngài đã hứa (Lu-ca 24:48-49; Công-vụ các Sứ-đồ 1:8,22; 2:32; 3:15; 5:32; 13:31).
       IV. Công việc.-- Kỳ thứ nhứt của các Sứ đồ khởi công lan rộng đến Công-vụ các Sứ-đồ 11:18. Ngoài kỳ chuyển biến (Công-vụ các Sứ-đồ 8:-10:), là khi Ê-tiên tử vì đạo, Tin lành được truyền rộng ra trong xứ Sa-ma-ri, và cho hoạn quan Ê-thi-ô-bi bởi Phi-líp. Bấy giờ Giê-ru-sa-lem là nơi trung tâm, và Phi-e-rơ là người trổi hơn cả, đã mở cửa nước thiên đàng (tùy theo lời Chúa Jesus đã hứa với người, Ma-thi-ơ 16:18-19) cho người Do-thái và cả dân ngoại (Công-vụ các Sứ-đồ 2:; 10:). Kỳ thứ hai bắt đầu với sự mở rộng nước cho đến các dân ngoại thờ hình tượng (Công-vụ các Sứ-đồ 11:19-26). An-ti-ốt, đồng hòa với Giê-ru-sa-lem, bấy giờ là nơi trung tâm, và Phao-lô là người trổi hơn cả, đồng hòa với các Sứ đồ khác. Dầu số nhứt định bao giờ cũng vẫn là mười hai (Khải-huyền 21:14), theo với số mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên, dầu vậy, đúng như họ thật có tất cả là mười ba chi phái với hai con của Giô-sép được đứng đầu hai chi phái riêng biệt, vậy tiếng kêu gọi của Phao-lô làm thành thật có mười ba Sứ đồ. Phao-lô có cả hai đặc tánh của một Sứ đồ: vì đã "thấy Chúa", cũng như đã chứng kiến sự sống lại của Ngài; và có quyền chỉ Sứ đồ có, là ban cho người khác những ơn thuộc linh (I Cô-rinh-tô 9:1-2; II Cô-rinh-tô 12:12; Rô-ma 1:11; 15:18-19). Kỳ nầy tận cùng với Công-vụ các Sứ-đồ 13:1-5, khi Phao-lô và Ba-na-ba được Ðức Thánh Linh biệt riêng để truyền đạo. Ðây là kỳ thứ ba của Công-vụ các Sứ-đồ bắt đầu trong đó không chép về mười hai Sứ đồ nữa, chỉ một mình Phao-lô đứng ra là Sứ đồ của dân ngoại, đến nỗi cuối cùng của sách Công-vụ các Sứ-đồ, chép Phao-lô giảng Tin lành tại La-mã, mẫu quốc của thế gian, và các Hội Thánh từ Giê-ru-sa-lem đến xứ I-ly-ri được lập bởi người.
       V. Quyền chức Sứ đồ.-- Sứ đồ cũng có nghĩa rộng hơn nữa là "sứ giả của các Hội Thánh" (II Cô-rinh-tô 8:23; Phi-líp 2:25). Song danh từ đó, theo nghĩa rất đúng, chỉ hạn chế trong số mười hai thôi: vì chỉ họ là các Sứ đồ của Ðấng Christ. Ðiều đặc biệt là chỉ họ được sai đi trực tiếp bởi chính Chúa Jesus, và không nhờ các Hội Thánh cử ra. Cả đến Ma-thia (Công-vụ các Sứ-đồ 1:24), Phao-lô cũng vậy (Ga-la-ti 1:1-12; Rô-ma 1:1; I Cô-rinh-tô 15:9-10). Nhiệm vụ độc nhứt là lập Hội Thánh Ðấng Christ; vậy, về chức vụ, họ nhờ Ðấng Christ, và trước khi có các Hội Thánh ấy, họ đồng công hoặc một mình lập. Họ nhờ quyền phép của Chúa để buộc hoặc mở mọi điều (Ma-thi-ơ 18:18), và tha tội hoặc cầm giữ tội của mỗi người (Giăng 20:21-23), mà họ hành động bởi quyền phép của chức vụ lời Ngài. Các phép lạ Sứ đồ làm, là chứng cớ họ sự họ không sai lầm, tỏ ra họ là những kẻ hầu việc đặc biệt, chớ không còn luôn mãi. Phao-lô đời tín đồ Cô-rinh-tô công nhận những lời mình chép là mạng lịnh của Chúa (I Cô-rinh-tô 14:37). Chức vụ không phải lở địa phương; song là "lo lắng về hết thảy các Hội Thánh" (II Cô-rinh-tô 11:28). Họ đối với toàn thể Hội Thánh chung giống như các trưởng lão đặc biệt đối với một Hội Thánh (I Phi-e-rơ 5:1; II Giăng 1). Vì đó các Sứ đồ nói rất đúng không thể có người thật nối chức. Giăng, cai quản cả Hội Thánh, nhưng quan thiệp đặc biệt với các Hội Thánh xứ Tiểu A-si, còn Phao-lô với các Hội Thánh phía Tây, và Phi-e-rơ với Ba-by-lôn. Các giám mục (trưởng lão) là đồng thời với các Sứ đồ, mà không chính thức tiếp nối Sứ đồ. Gia-cơ dường đã làm đầu trưởng Hội Giê- ru-sa-lem (Công-vụ các Sứ-đồ 15:19; 21:18).
       VI. Chúa được gọi là Sứ đồ.-- Chỉ một lần chính Chúa Jesus được đặt là "Sứ giả (bản Anh: Sứ đồ)... mà ta tin theo) (Hê-bơ-rơ 3:1). Sứ thần mà "Cha sai đến" (Giăng 20:21). Ngài binh vực duyên cớ Ðức Chúa Trời với chúng ta như "Sứ giả và binh vực duyên cớ chúng ta với Ðức Chúa Trời như "Thầy tế lễ thượng phẩm". Ấy thật hiệp với thơ viết cho người Hê-bơ-rơ, vì thầy tế lễ thượng phẩm Hê-bơ-rơ thường sai các đại biểu ("Sứ đồ") đến thâu thuế Ðền thờ của người Do-thái từ ngoại quốc nộp cho, như Ðấng Christ là Ðại biểu của Ðức Cha đến để đòi những kẻ phục thuận Ngài nộp điều thuộc về Cha trong thế gian xa cách nầy (Ma-thi-ơ 21:37). Xem bài Các Môn đồ.
       Tiến sĩ Scofield chú thích về Sứ đồ như sau nầy:
       Ma-thi-ơ 19:28.-- Xem bài Sách Các Quan-xét.
       Ma-thi-ơ 10:2.-- Chức Sứ đồ nghĩa là "người được sai đi", được dùng về Chúa (Hê-bơ-rơ 3:1, bản Anh). Chỗ khác dùng chỉ về mười hai người được gọi đến chức vụ đó bởi Chúa trong khi Ngài hành chức ở thế gian; chỉ về Phao-lô được gọi đến làm chức vụ đó bởi Chúa đã sống lại và thăng thiên; và chỉ về Ba-na-ba (Công-vụ các Sứ-đồ 14:14), đặc biệt bởi Ðức Thánh Linh chỉ ra (Công-vụ các Sứ-đồ 13:2). Về Ma-thia được mười một Sứ đồ chọn bởi cách bắt thăm để thế cho Giu-đa Ích-ca-ri-ốt (Công-vụ các Sứ-đồ 1:16-26) thì có chép: "người bèn được bổ vào mười một Sứ đồ" (Công-vụ các Sứ-đồ 1:26).
       "Các dấu hiệu tỏ ra là Sứ đồ":
       (1) Ðược chọn trực tiếp bởi chính Chúa, hoặc như về Ba-na-ba, bởi Ðức Thánh Linh (Ma-thi-ơ 10:1-2; Mác 3:13-14; Lu-ca 6:13; Công-vụ các Sứ-đồ 9:6,15; 13:2; 22:10,14,15; Rô-ma 1:1).
       (2) Ðược nhận những ân tứ làm dấu hiệu, quyền phép lạ lùng, là những điều đáng tin chức vụ họ ra từ Chúa (Ma-thi-ơ 10:1; Công-vụ các Sứ-đồ 5:15-16; 16:16-18; 28:8-9).
       (3) Sự quan thiệp họ đối với nước như là những sứ giả, báo tin, chỉ cho Y-sơ-ra-ên (Ma-thi-ơ 10:5-6) rằng nước Chúa đã gần (Ma-thi-ơ 4:17, lời ghi chú), và tỏ những quyền phép của nước (Ma-thi-ơ 10:7-8).
       (4) Ban cho một trong các Sứ đồ, Phi-e-rơ, chìa khóa nước thiên đàng, được coi là phạm vi làm chứng đạo Ðấng Christ như trong Ma-thi-?ơ 13: tỏ ra (Ma-thi-ơ 16:19).
       (5) Sự quan thiệp tương lai của họ với nước, họ sẽ làm các quan xét trên mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên (Ma-thi-ơ 19:28).
       (6) Sau khi nước bị chối bỏ và sự khải thị về lẽ mầu nhiệm giấu kín trong Ðức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 16:18; Ê-phê-sô 3:1-12) cho Hội Thánh thì chức vụ Sứ đồ được mặc lấy một ơn tứ mới, là lễ báp-têm bằng Ðức Thánh Linh (Công-vụ các Sứ-đồ 2:1-4); một quyền phép mới, là Ðức Thánh Linh được ban cho các tín đồ Do-thái; một sự liên lạc mới, tức là nền bằng đá quí của Ðền thờ mới (Ê-phê-sô 2:20-22); và một chức vụ mới là giảng Tin lành cứu rỗi, bởi Chúa đã bị đóng đinh và sống lại, cho người Do-thái cũng như cho dân ngoại.
       (7) Ðức tánh cần thiết của một Sứ đồ phải là người đã được chứng kiến sự sống lại của Chúa (Công-vụ các Sứ-đồ 1:22; I Cô-rinh-tô 9:1).

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.