Theo nghĩa trong nguyên văn Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp thì thiên sứ tức là sứ giả (Ma-thi-ơ 11:10; Lu-ca 7:24), hoặc chỉ người thường (Phục truyền luật lệ ký 2:26; Gióp 1:14; I Sa-mu-ên 11:4; Ê-sai 33:7), hoặc tiên tri (Ê-sai 42:19; 44:26; A-ghê 1:13), hoặc thầy tế lễ (Truyền đạo 5:6; Ma-la-chi 2:7), hoặc Chúa Jêsus (Ma-la-chi 3:1), hoặc thầy truyền đạo (Khải Huyền 2:1,8,12). Nay thử đem những chỗ trong Kinh Thánh nói về thiên sứ chia ra mà thuật như dưới:
I. Cựu Ước.-- Cựu Ước chưa từng nói rõ lai lịch của thiên sứ, nên người Y-sơ-ra-ên đối với Ðức Chúa Trời và thiên sứ không thể phân rành một cách đến nơi đến chốn được, như Sáng thế ký 16:7-13; 18:1-19:22; 21:17; Xuất Ê-díp-tô ký 3:2,4; chỗ thì nói thiên sứ, chỗ thì nói Ðức Giê-hô-va. Vậy, thấy họ không phân biệt rạch ròi Ðức Chúa Trời với thiên sứ được. Về sau có nhiều thiên sứ phát hiện (Sáng thế ký 28:12; 32:1,2), họ lần lần biết rằng Ðức Chúa Trời là Ðấng Chí Cao, Chí thánh, không tiếp xúc với người đời. Khi giao tiếp với người đời, Ngài thường sai thiên sứ.
1. Kinh Thánh nói thiên sứ cũng có danh xưng khác nhau: hoặc xưng là con Ðức Chúa Trời (Thi Thiên 29:1; 89:6), hoặc là đấng thánh (Ða-ni-ên 4:17), hoặc là vọng canh (Ê-sai 62:6), hoặc là tướng đạo binh (Giô-suê 5:14). Còn danh thiên sứ trưởng là Gáp-ri-ên và Mi-ca-ên (Ða-ni-ên 8:16; 9:21; 10:13).
2. Thiên sứ thường hiện ra với hình dạng người đời: hoặc nói với người ta (I Các vua 19:5), hoặc ăn uống như người ta (Sáng thế ký 18:8; 19:3), hoặc giúp đỡ người lành đánh kẻ dữ (II Sa-mu-ên 24:16; Sáng thế ký 31:1). Thiên sứ có đủ khôn ngoan (II Sa-mu-ên 14:17,20); thế mà Ðức Chúa Trời còn trách là ngu (Gióp 4:18). Thiên sứ là đấng dẫn đưa người ta (Gióp 33:23), hằng vì Ðức Chúa Trời mà truyền phán cùng tiên tri (I Các vua 13:18; II Các vua 19:35; Thi Thiên 35:6). Ðối với người kính sợ Chúa, thì thiên sứ phù hộ cho (Thi Thiên 34:7; 91:11). Thiên sứ có đủ quyền năng lớn, cốt để khen ngợi Ðức Chúa Trời (Thi Thiên 103:20). Số thiên sứ nhiều lắm (Ða-ni-ên 7:10). Thiên sứ làm việc lanh lẹ mau chóng (Các quan xét 13:20; Ê-sai 6:2-6; Ða-ni-ên 9:21-23).
3. Sách Ê-xê-chi-ên nói về thiên sứ kỹ hơn sách khác. Trong sự hiện thấy, người ta được soi sáng. Thiên sứ cắt nghĩa thí dụ cho người ta hiểu rõ. Xa-cha-ri nói hơi giống với Ê-xê-chi-ên, và giống với Ða-ni-ên ở chỗ nói thiên sứ có đấng bậc.
II. Tân Ước.--
1. Trong sách Tin lành luận về thiên sứ, đại yếu như sau đây: Thiên sứ ở tại trên trời (Ma-thi-ơ 18:10; Lu-ca 12:8,9; Giăng 1:51), siêu việt trên loài người. Người công bình cất khỏi thế gian, cũng như thiên sứ vậy (Lu-ca 20:36). Linh hồn của người công bình được Ðức Chúa Trời dẫn vào thiên đàng (Lu-ca 16:22). Số thiên sứ rất đông (Ma-thi-ơ 26:53), sẽ hầu việc Ðấng Christ khi Ngài tái lâm (Ma-thi-ơ 13:39; 16:27; 24:31; 25:31; Mác 8:38; Lu-ca 9:26). Có thiên sứ thiện, cũng có thiên sứ ác (Ma-thi-ơ 25:41). Sự hiểu biết của thiên sứ cũng có chừng mực (Ma-thi-ơ 24:36). Thiên sứ binh vực mà giúp con trẻ (Ma-thi-ơ 18:10), cũng ưa thích tội nhơn hối cải (Lu-ca 15:10). Chức vụ cốt yếu của thiên sứ là thông báo tin tức của Ðức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 1:20; 28:5; Lu-ca 1:28; 2:10; 24:23). Sau khi Chúa chịu thử thách, thiên sứ có đến hầu việc Ngài (Ma-thi-ơ 4:11; Mác 1:13); tại vườn Ghết-sê-ma-nê có một thiên sứ trên trời hiện xuống cùng Ngài, mà thêm sức cho Ngài (Lu-ca 22:43).
2. Sách Công vụ các sứ đồ luận về thiên sứ; Thiên sứ làm việc ở giữa vòng nhơn gian (Công vụ các sứ đồ 5:19; 7:30; 11:10; 12:8,9). Như vậy, chính giống với ý trong Cựu Ước đã luận. Có khi dường thấy thiên sứ ở trong sự hiện thấy (Công vụ các sứ đồ 8:26; 10:3; 27:23,24). Theo Công vụ các sứ đồ 12:15 đã chép thì thường có một thiên sứ hộ vệ người ta.
3. Các thơ tín luận về thiên sứ: Phao-lô cho rằng thiên sứ được dựng nên bởi Chúa Jêsus (Cô-lô-se 1:16), thường có quan hệ đến việc người đời (I Cô-rinh-tô 4:9; 11:10; Rô-ma 8:38; I Ti-mô-thê 5:21; Ga-la-ti 1:8; II Tê-sa-lô-ni-ca 1:7), song Sứ đồ răn người ta chớ thờ lạy thiên sứ (Cô-lô-se 2:18).
Thơ Hê-bơ-rơ luận về thiên sứ giống ý với Cựu Ước. Vấn đề khẩn yếu là Chúa Jêsus siêu việt hơn thiên sứ nhiều lắm (Hê-bơ-rơ 1:4-7,13; 2:2-9,16; 12:22; 13:2). Phi-e-rơ nói thiên sứ ước ao xem thấu đạo cứu rỗi (I Phi-e-rơ 1:12), vâng phục Chúa Jêsus (I Phi-e-rơ 3:22), không dám lấy lời nguyền rủa mà xử đoán tội nhơn (II Phi-e-rơ 2:11 xem Giu-đe 9). Ðến như thiên sứ phạm tội thì Ðức Chúa Trời cũng không thương tiếc, Ngài giam ở trong địa ngục đời đời (II Phi-e-rơ 2:4; Giu-đe 6). Phao-lô nói tín đồ sẽ phán xét thiên sứ (I Cô-rinh-tô 6:3). Sách Khải Huyền có rất nhiều chỗ luận về thiên sứ đều vâng mạng tỏ bày những việc tương lai.
Tiến sĩ Scofield chú thích về thiên sứ như sau:
Hê-bơ-rơ 1:4.-- Thiên sứ -- Tóm tắt. Thiên sứ, tức "sứ giả" dùng về Ðức Chúa Trời, về người và về một ban thứ những vật thọ tạo thể thuộc linh, có những thuộc tánh chính là sức mạnh và khôn ngoan (II Sa-mu-ên 14:20; Thi Thiên 103:20; 104:4). Trong Cựu Ước, danh từ "thiên sứ của Chúa" (có khi của Ðức Chúa Trời) thường chỉ về sự hiện diện của Thần bằng hình thể thiên sứ (Sáng thế ký 16:1-13; 21:17-19; 22:11-16; 31:11-13; Xuất Ê-díp-tô ký 3:2-4; Các quan xét 2:1; 6:12,16; 13:3-22). Xem Ma-la-chi 3:1, lời chua. Danh từ thiên sứ dùng về người trong Lu-ca 7:24; Gia-cơ 2:25; Khải Huyền 1:20; 2:1,8, 12-18; 3:1, 7-14. Trong Khải Huyền 8:3-5 rõ ràng chỉ về Ðấng Christ. Có khi thiên sứ dùng về thần linh của người (Ma-thi-ơ 18:10; Công vụ các sứ đồ 12:15). Dầu các thiên sứ là thần (Thi Thiên 104:4; Hê-bơ-rơ 1:14). Ngài cũng ban quyền phép cho họ mặc lấy hình thể người thấy được (Sáng thế ký 19:1 so câu 5; Xuất Ê-díp-tô ký 3:2; Dân số ký 22:22-31; Các quan xét 2:1; 6:11,22; 13:3,6; I Sử ký 21:16,20; Ma-thi-ơ 1:20; Lu-ca 1:26; Giăng 20:12; Công vụ các sứ đồ 7:30; 12:7,8 v.v.). Danh từ đó bao giờ cũng dùng về giống đực, dầu theo ý nghĩa về người, không bao giờ nói về thiên sứ thuộc đực, hay cái (Ma-thi-ơ 22:30; Mác 12:25). Số các thiên sứ là rất nhiều (Ma-thi-ơ 26:53; Hê-bơ-rơ 12:22; Khải Huyền 5:11; Thi Thiên 68:17). Quyền phép của họ không kể xiếc được (II Các vua 19:35). Nơi họ ở là xung quanh ngai Ðức Chúa Trời (Khải Huyền 5:11; 7:11). Sự liên lạc của thiên sứ đối với tín đồ là "thần hầu việc Ðức Chúa Trời, đã được sai xuống để giúp việc những người sẽ hưởng cơ nghiệp cứu rỗi," và chức vụ đó chỉ nghĩa rộng về sự yên ổn của phần xác, và sự an lạc của các tín đồ (I Các vua 19:5; Thi Thiên 34:7; 91:11; Ða-ni-ên 6:22; Ma-thi-ơ 2:13,19; 4:11; Lu-ca 22:43; Công vụ các sứ đồ 5:19; 12:7-10). Theo Hê-bơ-rơ 1:14, với Ma-thi-ơ 18:10; Thi Thiên 90:11, thì dường như sự săn sóc nầy về các kẻ kế tự sự cứu rỗi khởi sự từ thuở nhỏ cho đến trọn đời. Các thiên sứ nhìn xem chúng ta (I Cô-rinh-tô 4:9; Ê-phê-sô 3:10; Truyền đạo 5:6), ấy là thực sự nên có ảnh hưởng đến cách cư xử. Thiên sứ tiếp nhận các thánh đồ từ giã đời nầy (Lu-ca 16:22). "Chúa đã đặt loài người ở dưới thiên sứ một chút," và trong sự thành nhục thể, Ðấng Christ chịu ở chỗ thấp hơn "một chút" (Thi Thiên 8:4,5; Hê-bơ-rơ 2:6,9) hầu cho Ngài có thể nâng tín đồ lên đến phạm vi chính của Ngài hơn các thiên sứ (Hê-bơ-rơ 2:9,10). Các thiên sứ phải đi cùng Ðấng Christ trong sự tái lâm Ngài (Ma-thi-ơ 25:31). Sự sửa soạn việc phán xét các dân tộc sẽ giao cho họ (Xem Ma-thi-ơ 13:30,39,41,42; 25:32, lời chua). Thời kỳ nước không phải phục ở dưới các thiên sứ, song ở dưới Ðấng Christ và những người mà Ngài vì họ đã chịu ở dưới thiên sứ một chút (Hê-bơ-rơ 2:5). Một thiên sứ trưởng, Mi-ca-ên, được nói đến; có quan hệ đặc biệt với Y-sơ-ra-ên và những sự sống lại (Ða-ni-ên 10:13,21; 12:1,2; Giu-đe 9; I Ti-mô-thê 4:16). Chỉ một thiên sứ khác mà tên được chép, Gáp-ri-ên, được dùng vào các công việc rất quan hệ (Ða-ni-ên 8:16; 9:21; Lu-ca 1:19,26).
Các thiên sứ sa ngã.-- Có hai hạng được nói đến: (1) "Các thiên sứ không giữ thứ bậc và bỏ chỗ riêng mình," thì "bị trói buộc bằng xiềng nơi tối tăm để chờ sự phán xét" (II Phi-e-rơ 2:4; Giu-đe 6; I Cô-rinh-tô 6:3; Giăng 5:22). Xem Sáng thế ký 6:4, lời chua. (2) Các thiên sứ ở dưới quyền lãnh tụ của Sa-tan (Sáng thế ký 3:1; Khải Huyền 20:10, lời chua). Không chỗ nào chép rõ về căn nguyên các thiên sứ nầy. Có lẽ là một với các quỉ dữ (Ma-thi-ơ 7:22, lời chua). Có lửa đời đời sắm sẵn cho quỉ Sa-tan với các thiên sứ nó (Ma-thi-ơ 25:41; Khải Huyền 20:10).
Giu-đe 6.-- Các thiên sứ sa ngã. Xem bài Giu-đe.
Khải Huyền 1:20.-- Thiên sứ của bảy Hội Thánh. Xem bài Sách Khải Huyền.