Ti-bê-ri-át. Tibériade.

        


      Thành ở trên bờ biển Ga-li-lê (Giăng 6:23), xây cất bởi vua chư hầu Hê-rốt, và được đặt theo tên hoàng đế đương chức là Ti-be-rơ Sê-sa. Ti-bê-ri-át được làm vững chắc bởi Josèphe trong chiến tranh của người Do-thái. Thành mở cửa cho Vespasien. Một số dân sự ở Taricheae một thành lân cận mà người đã cho sự sống họ được an ổn, sau bị giết một cách tàn nhẫn trong cuộc chạy đua của Ti-bê-ri-át. Sau khi Giê-ru-sa-lem bị hủy phá, và sau sự trục xuất người Do-thái ra khỏi xứ Giu-đê, là hai kết quả sự khởi loạn không thành bởi Barcocheba. Ti-bê-ri-át thật trở nên thành chính của dân Do-thái, và có tìm các đồng tiền hồi đó đều ghi tên Ti-be-rơ, Cơ-lốt, Trajan, Hadrien, và Antoine le Pieux. Tòa Công luận được dời đến Ti-bê-ri-át chừng giữa thế kỷ thứ II S.C., và thành trở nên trung ương của học vấn Do-thái. Có lập một trường danh tiếng tại đó, sản xuất một bộ chứa truyền khẩu sách thánh nhan đề là Mishna, độ 190 hoặc 220 S.C., và sách phụ thêm nhan đề là Gemara được chuẩn y làm luật độ thế kỷ thứ IV S.C.. Bản Masorah, tức tập các truyền khẩu lưu truyền tiểu tiết bản văn Cựu Ước Hê-bơ-rơ và giữ được lối đọc nhờ các dấu trên các chữ âm, phần lớn việc nầy làm ở Ti-bê-ri-át. Xem bài Kinh Thánh.
       Người Do-thái coi Ti-bê-ri-át như là một trong bốn thành thánh, với Giê-ru-sa-lem, Hếp-rôn và Safed, -- tại đó họ cứ cầu nguyện luôn, bằng chẳng thì thế gian lập tức trở về địa vị khủng hoảng. Nay hãy còn gọi là Tubarỵya, bờ phía Tây biển Ga-li-lê, độ 17 cây số từ chỗ vào và 9 cây số từ chỗ ra cửa sông Giô-đanh. Tại nơi đó, có một dãy núi dốc, chỉ cách xa bờ biển một ít, để lại một miền gồ ghề ở phía Nam, và ở phía Bắc miền đó có thành Ti-bê-ri-át. Thành mở rộng độ một cây số trên bờ và phòng giữ bằng một tường thành, tháp và lầu đài. Ngày 1 tháng giêng năm 1837 S.C., thành bị thiệt hại lớn bởi một cơn động đất, song từ đó được lập lại rộng hơn.

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.