Trời. Ciel.

         



      1. Trời, khoảng trải ra xung quanh trái đất, gồm cả mọi sự biệt ra khỏi trái đất (Sáng thế ký 2:1) bởi đó trời và đất gồm cả vũ trụ (Sáng thế ký 1:1; 14:19; 24:3; Giê-rê-mi 24:23; Ma-thi-ơ 5:18). Ngoài khoảng không thấy được có khối nước đầu tiên (Sáng thế ký 1:7; Thi Thiên 148:4), mà sau không có nói đến trong truyện dựng nên trời đất song còn có lý mà tin rằng những tinh cầu được làm ra từ đó. Những nguồn của vực lớn ở trên đó trong tư tưởng của người Hê-bơ-rơ, có kèm những ý kiến khác. Trong các từng trời thấy được có các ngôi sao và hành tinh (Sáng thế ký 1:14,15,17; Ê-xê-chi-ên 32:7,8). Trong phần trời gần trái đất là không khí trong đó mây bay, chim cất cánh, và từ đó mưa xuống (Sáng thế ký 1:20; 7:11; 8:2; 27:28; II Sa-mu-ên 21:10; Thi Thiên 147:8; Ca Thương 4:19). Xem bài Khoảng Không. Trong ngôn ngữ riêng, người Hê-bơ-rơ thường nói về trời của các từng trời (Phục truyền luật lệ ký 10:14; I Các vua 8:27; Thi Thiên 115:16), nghĩa các từng trời trong khoảng mênh mông nhứt. Về sau người Do-thái ưa chia các từng trời ra làm 7 từng khác nhau. Không có ý nhứt định về những từng trời đó, song người ta tha hồ suy tưởng. Từng trời cao nhứt được coi như là chỗ Ðức Chúa Trời ngự. Phao-lô mô tả Ðấng Christ ngự trên nơi cao của các từng trời (Ê-phê-sô 4:10); và Sứ đồ thuật một sự từng trải, không biết trong sự hiện thấy hay trong sự thật, mà Phao-lô được cất lên từng trời thứ ba vào trong nơi Ba-ra-đi (II Cô-rinh-tô 12:1-4).
       2. Là nơi có sự hiện diện trực tiếp của Ðức Chúa Trời được tỏ ra (Sáng thế ký 28:17; Thi Thiên 80:14; Ê-sai 66:1; Ma-thi-ơ 5:12,16,45,48; 23:9), tại đó các thiên sứ (Ma-thi-ơ 24:36; 28:2; Mác 13:32; Lu-ca 22:43), và cuối cùng người được chuộc sẽ ở đó (Ma-thi-ơ 5:12; 6:20; 18:10; Ê-phê-sô 3:15; I Phi-e-rơ 1:4; Khải Huyền 19:1,4). Ðấng Christ từ trời xuống (Giăng 3:13), và lại trở lên đó nữa (Công vụ các sứ đồ 1:11), tại đó Ngài cầu thay cho các thánh đồ, và từ đó người sẽ đến mà đoán xét những kẻ sống và kẻ chết (Rô-ma 8:33,34; Hê-bơ-rơ 6:20; 9:24; Ma-thi-ơ 24:30; I Tê-sa-lô-ni-ca 4:16).
       3. Những dân cư ở trên trời (Lu-ca 15:18; Khải Huyền 18:20).
       Tiến sĩ Scofield chú thích về các từng trời như sau nầy:
       Ê-phê-sô 1:3.-- Theo nghĩa văn tự, các nơi trên trời. Cũng một danh từ Hy-lạp đó dùng trong Giăng 3:12, tại đó có thêm "những việc." Trong cả hai chỗ, danh từ đó có nghĩa là điều chi thuộc về trời trái hẳn với điều thuộc về đất. Trong Ê-phê-sô, "các nơi" có thể dẫn đến sự sai lầm cách đặc biệt. "Các nơi trên trời" có thể định nghĩa như là phạm vi sự từng trải thuộc linh tín đồ như là một về bổn thể của Ðấng Christ (II Phi-e-rơ 1:4); sự sống (Cô-lô-se 3:4; I Giăng 5:12), những sự giao thông (Giăng 20:17; Hê-bơ-rơ 2:11); Sự hầu việc (Giăng 17:18; Ma-thi-ơ 28:20), sự thương khó (Phi-líp 1:29; 3:10; Cô-lô-se 1:24); cơ nghiệp (Rô-ma 8:16,17 và vinh hiển tương lai trong nước (Rô-ma 8:18-21; I Phi-e-rơ 2:9; Khải Huyền 1:6; 5:10). Tín đồ là người thuộc về trời, là khách lạ và kẻ bộ hành trên đất (Hê-bơ-rơ 3:1; I Phi-e-rơ 2:11).
       Lu-ca 24:51.-- Kinh Thánh phân biệt ba từng trời: thứ nhứt, các từng trời thấp, hoặc miền các đám mây; thứ hai, từng thứ hai hoặc các từng trời của hành tinh; và thứ ba, trời của các từng trời, là nơi Ðức Chúa Trời ngự.
       Ê-sai 65:17.-- Trời mới, lời dự ngôn. Xem bài "Nước."

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.