Miền có các núi thấp giữa đồng bằng Phi-li-tin và dãy c?ao nguyên ở xứ Pha-lê-tin. Trong sách Onomasticon của Eusèbe gọi là Sephela (trên chữ e thứ hai có dấu -), như "mọi miền thấp quanh Eleutheropolis (ngày nay là Beit Jibrin) về hướng Bắc và Tây; song trong đời Cựu Ước, danh từ đó gồm miền thấp và miền núi ở phía Ðông cũng như ở phía Nam. Nhưng núi nầy cao từ 150 thước đến 240, với mấy ngọn cao hơn. Trên các sườn núi có cây ô-li-ve xanh tươi. Ðịa phận phân rẽ với dãy trung ương bởi một hàng trũng chạy phía Bắc và Nam từ A-gia-lôn đến gần Bê-e-Sê-ba; và chính địa phận đó cũng cắt bởi nhiều trũng rộng và phì nhiêu từ dãy núi Giu-đê đến Biển. Xứ đồng bằng chia cho chi phái Giu-đa làm phần cơ nghiệp; và khi họ thấy rằng họ có nhiều đất đai, thì phần nhỏ của địa phận đó ở phía Bắc được chia cho Ðan (Giô-suê 15:33tt; 19:40tt). Ấy gồm lại các nơi đáng chú ý như A-đu-lam, Bết-Sê-mết; Ghê-xe; Éc-lôn, La-ki và phần của các trũng A-gia-lôn, Sô-réc và Ê-la (19:33tt.; I Sa-mu-ên 17:1,2; II Sử ký 28:18).
Xứ đồng bằng. La plaine.
Miền có các núi thấp giữa đồng bằng Phi-li-tin và dãy c?ao nguyên ở xứ Pha-lê-tin. Trong sách Onomasticon của Eusèbe gọi là Sephela (trên chữ e thứ hai có dấu -), như "mọi miền thấp quanh Eleutheropolis (ngày nay là Beit Jibrin) về hướng Bắc và Tây; song trong đời Cựu Ước, danh từ đó gồm miền thấp và miền núi ở phía Ðông cũng như ở phía Nam. Nhưng núi nầy cao từ 150 thước đến 240, với mấy ngọn cao hơn. Trên các sườn núi có cây ô-li-ve xanh tươi. Ðịa phận phân rẽ với dãy trung ương bởi một hàng trũng chạy phía Bắc và Nam từ A-gia-lôn đến gần Bê-e-Sê-ba; và chính địa phận đó cũng cắt bởi nhiều trũng rộng và phì nhiêu từ dãy núi Giu-đê đến Biển. Xứ đồng bằng chia cho chi phái Giu-đa làm phần cơ nghiệp; và khi họ thấy rằng họ có nhiều đất đai, thì phần nhỏ của địa phận đó ở phía Bắc được chia cho Ðan (Giô-suê 15:33tt; 19:40tt). Ấy gồm lại các nơi đáng chú ý như A-đu-lam, Bết-Sê-mết; Ghê-xe; Éc-lôn, La-ki và phần của các trũng A-gia-lôn, Sô-réc và Ê-la (19:33tt.; I Sa-mu-ên 17:1,2; II Sử ký 28:18).