ĐẶC ĐIỂM VÀ SỰ HÌNH THÀNH CÁC SÁCH TIÊN TRI
Những sách trong
Kinh Thánh được xếp vào danh mục các sách tiên tri nhiều hơn bất kỳ danh mục
nào khác. Có bốn sách đại tiên tri (Ê-sai, Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên, Đa-ni-ên) và
mười hai sách tiểu tiên tri (sau sách Đa-ni-ên cho đến hết phần Cựu Ước), được
viết trong xứ Y-sơ-ra-ên đời xưa, giữa khoảng 760 - 460 T.C., gồm một loạt sứ
điệp đến từ Đức Chúa Trời. Sở dĩ gọi các sách tiểu tiên tri, chỉ vì các sách ấy
tương đối ngắn, còn các sách đại tiên tri đều là những quyển tương đối dài. Các
tên gọi này tuyệt đối không liên quan gì đến tầm mức quan trọng của các sách.
Các sách tiên tri thuộc thể loại khó đọc, khó hiểu hoặc khó giải nghĩa nhất
trong Kinh Thánh.
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA LỜI TIÊN TRI
A. Ý NGHĨA CỦA LỜI TIÊN TRI
Với một số đông người thì từ ngữ tiên tri được hiểu theo định nghĩa đầu tiên trong phần lớn các từ điển: “Nói trước hay tiên báo điều sắp xảy đến.” Vì thế nhiều Cơ Đốc nhân chỉ tham khảo các sách tiên tri để tìm những lời tiên báo về sự giáng sinh của Chúa Giê-xu hoặc một vài nét đặc trưng của thời đại Giao Ước Mới - xem những lời tiên báo về các biến cố từ rất xa xưa so với thời đại của chính họ là mối quan tâm chủ yếu của các sách tiên tri. Thật ra, sử dụng các sách tiên tri theo cách đó là quá hạn hẹp. Liên hệ với vấn đề này, chúng ta hãy xem các bảng thống kê sau đây: chưa tới 2% lời tiên tri trong Cựu Ước đề cập Đấng Mết-si-a; chưa tới 5% đề cập cụ thể kỷ nguyên Giao Ước Mới; chưa tới 1% liên quan đến các biến cố sẽ xảy ra.
Với một số đông người thì từ ngữ tiên tri được hiểu theo định nghĩa đầu tiên trong phần lớn các từ điển: “Nói trước hay tiên báo điều sắp xảy đến.” Vì thế nhiều Cơ Đốc nhân chỉ tham khảo các sách tiên tri để tìm những lời tiên báo về sự giáng sinh của Chúa Giê-xu hoặc một vài nét đặc trưng của thời đại Giao Ước Mới - xem những lời tiên báo về các biến cố từ rất xa xưa so với thời đại của chính họ là mối quan tâm chủ yếu của các sách tiên tri. Thật ra, sử dụng các sách tiên tri theo cách đó là quá hạn hẹp. Liên hệ với vấn đề này, chúng ta hãy xem các bảng thống kê sau đây: chưa tới 2% lời tiên tri trong Cựu Ước đề cập Đấng Mết-si-a; chưa tới 5% đề cập cụ thể kỷ nguyên Giao Ước Mới; chưa tới 1% liên quan đến các biến cố sẽ xảy ra.
Dĩ nhiên các nhà
tiên tri có tiên báo về tương lai, nhưng thông thường thì đó là tương lai gần của
các quốc gia Y-sơ-ra-ên, Giu-đa và các lân bang của họ, chứ không phải là thông
báo về tương lai của chúng ta . Do đó, một trong những cách để chúng ta hiểu được
các sách tiên tri và thấy các lời tiên tri của họ ứng nghiệm là chúng ta phải
nhìn lui lại các thời kỳ mà đối với họ vẫn còn là tương lai, nhưng với chúng ta
thì đã là quá khứ.
1. Các
nhà tiên tri là những phát ngôn nhân
Trong số hàng trăm tiên tri trong xứ Y-sơ-ra-ên đời xưa vào thời Cựu Ước, chỉ có mười sáu người được chọn để những sấm truyền (thông điệp từ Đức Chúa Trời) của họ được sưu tập và viết thành sách. Nhiều nhà tiên tri khác, như Ê-li và Ê-li-sê, rất có ảnh hưởng trong việc ban phát Lời Đức Chúa Trời cho dân Ngài và cho nhiều quốc gia khác ngoài xứ Y-sơ-ra-ên, nhưng chúng ta biết việc làm các tiên tri đó nhiều hơn là biết lời nói của chính họ. Những gì họ làm được mô tả nhiều hơn là những gì họ nói , và những gì họ nói đã được tác giả ký thuật các câu chuyện trong Cựu Ước sắp đặt thật cụ thể và rõ ràng trong bối cảnh đương thời của họ. Trong số rất ít các nhà tiên tri như Gát (I.Sa-mu-en 22:1-23; II.Sa-mu-en 24:1-22 v.v...), Na-than (II.Sa-mu-en 7:1-29; 12:1-31; I.Các Vua 1:1-53 v.v...) hay Hun-đa (II.Các Vua 22:1-20), chúng ta thấy lời tiên tri được kết hợp với tiểu sử - giống như trường hợp của Giô-na và trong một phạm vi hạn hẹp hơn là Đa-ni-ên. Nhưng nói chung thì trong các sách ký thuật của Cựu Ước, chúng ta được nghe về các tiên tri, nhưng được nghe rất ít từ các tiên tri. Tuy nhiên, trong các sách tiên tri chúng ta được nghe lời từ Đức Chúa Trời qua các tiên tri, nhưng được nghe rất ít về chính họ. Sự khác biệt này rất quan trọng trong vấn đề làm thế nào để các sách tiên tri trong Cựu Ước có ý nghĩa.
2. Vấn đề lịch sử
Có bao giờ bạn thấy là rất khó đọc một lần từ đầu chí cuối bất kỳ một sách tiên tri hơi dài nào hay không? Tại sao như vậy? Theo chúng tôi nghĩ thì trước nhất có lẽ vì chúng vốn không được viết với ý định được đọc như thế. Phần lớn các sách tiên tri dài vốn là những bộ sưu tập những lời sấm truyền (collections of spoken oracles ), không phải lúc nào cũng được trình bày theo thứ tự thời gian nguyên thủy của chúng. Thường thường không có những dấu hiệu cho thấy khi nào một sấm truyền kết thúc và một sấm truyền khác bắt đầu, và cũng thường không có những dấu hiệu về bối cảnh lịch sử của chúng. Hơn nữa, phần lớn các sấm truyền lại được công bố bằng thơ! Chúng ta sẽ nói thêm về điểm này dưới đây.
Khoảng cách lịch sử là một vấn đề rắc rối khác khi chúng ta tìm hiểu các tiên tri. Dĩ nhiên, là các độc giả hiện đại chúng ta sẽ thấy khó hiểu Lời của Đức Chúa Trời trong thời đại hiện tại của mình hơn là người Y-sơ-ra-ên cũng nghe cùng những lời lẽ giống y như thế do chính các tiên tri nói ra. Những điều vốn rõ ràng với họ thường tối nghĩa với chúng ta. Tại sao vậy? Một phần vì thính giả nghe trực tiếp một diễn giả thì có nhiều lợi thế hơn những độc giả đọc lời của một diễn giả cách gián tiếp (những gì đã được đề cập liên hệ đến các dự ngôn trong chương 8). Nhưng đó chưa thật sự là nguyên nhân của phần lớn các khó khăn. Nói đúng hơn, là những người sống rất xa với sinh hoạt tôn giáo, lịch sử và văn hóa của dân Y-sơ-ra-ên đời xưa, chúng ta gặp rắc rối lớn khi muốn đặt lời của các tiên tri đã nói vào đúng bối cảnh của chúng. Thường thì chúng ta khó mà thấy rõ điều họ đề cập hoặc tại sao họ đề cập như thế.
Trong số hàng trăm tiên tri trong xứ Y-sơ-ra-ên đời xưa vào thời Cựu Ước, chỉ có mười sáu người được chọn để những sấm truyền (thông điệp từ Đức Chúa Trời) của họ được sưu tập và viết thành sách. Nhiều nhà tiên tri khác, như Ê-li và Ê-li-sê, rất có ảnh hưởng trong việc ban phát Lời Đức Chúa Trời cho dân Ngài và cho nhiều quốc gia khác ngoài xứ Y-sơ-ra-ên, nhưng chúng ta biết việc làm các tiên tri đó nhiều hơn là biết lời nói của chính họ. Những gì họ làm được mô tả nhiều hơn là những gì họ nói , và những gì họ nói đã được tác giả ký thuật các câu chuyện trong Cựu Ước sắp đặt thật cụ thể và rõ ràng trong bối cảnh đương thời của họ. Trong số rất ít các nhà tiên tri như Gát (I.Sa-mu-en 22:1-23; II.Sa-mu-en 24:1-22 v.v...), Na-than (II.Sa-mu-en 7:1-29; 12:1-31; I.Các Vua 1:1-53 v.v...) hay Hun-đa (II.Các Vua 22:1-20), chúng ta thấy lời tiên tri được kết hợp với tiểu sử - giống như trường hợp của Giô-na và trong một phạm vi hạn hẹp hơn là Đa-ni-ên. Nhưng nói chung thì trong các sách ký thuật của Cựu Ước, chúng ta được nghe về các tiên tri, nhưng được nghe rất ít từ các tiên tri. Tuy nhiên, trong các sách tiên tri chúng ta được nghe lời từ Đức Chúa Trời qua các tiên tri, nhưng được nghe rất ít về chính họ. Sự khác biệt này rất quan trọng trong vấn đề làm thế nào để các sách tiên tri trong Cựu Ước có ý nghĩa.
2. Vấn đề lịch sử
Có bao giờ bạn thấy là rất khó đọc một lần từ đầu chí cuối bất kỳ một sách tiên tri hơi dài nào hay không? Tại sao như vậy? Theo chúng tôi nghĩ thì trước nhất có lẽ vì chúng vốn không được viết với ý định được đọc như thế. Phần lớn các sách tiên tri dài vốn là những bộ sưu tập những lời sấm truyền (collections of spoken oracles ), không phải lúc nào cũng được trình bày theo thứ tự thời gian nguyên thủy của chúng. Thường thường không có những dấu hiệu cho thấy khi nào một sấm truyền kết thúc và một sấm truyền khác bắt đầu, và cũng thường không có những dấu hiệu về bối cảnh lịch sử của chúng. Hơn nữa, phần lớn các sấm truyền lại được công bố bằng thơ! Chúng ta sẽ nói thêm về điểm này dưới đây.
Khoảng cách lịch sử là một vấn đề rắc rối khác khi chúng ta tìm hiểu các tiên tri. Dĩ nhiên, là các độc giả hiện đại chúng ta sẽ thấy khó hiểu Lời của Đức Chúa Trời trong thời đại hiện tại của mình hơn là người Y-sơ-ra-ên cũng nghe cùng những lời lẽ giống y như thế do chính các tiên tri nói ra. Những điều vốn rõ ràng với họ thường tối nghĩa với chúng ta. Tại sao vậy? Một phần vì thính giả nghe trực tiếp một diễn giả thì có nhiều lợi thế hơn những độc giả đọc lời của một diễn giả cách gián tiếp (những gì đã được đề cập liên hệ đến các dự ngôn trong chương 8). Nhưng đó chưa thật sự là nguyên nhân của phần lớn các khó khăn. Nói đúng hơn, là những người sống rất xa với sinh hoạt tôn giáo, lịch sử và văn hóa của dân Y-sơ-ra-ên đời xưa, chúng ta gặp rắc rối lớn khi muốn đặt lời của các tiên tri đã nói vào đúng bối cảnh của chúng. Thường thì chúng ta khó mà thấy rõ điều họ đề cập hoặc tại sao họ đề cập như thế.
B. CHỨC NĂNG CỦA LỜI TIÊN TRI
Muốn hiểu điều Đức
Chúa Trời phán dạy chúng ta qua các sách được linh cảm này, trước hết chúng ta
phải hiểu rõ vai trò và chức năng của các tiên tri trong dân Y-sơ-ra-ên. Có ba
điều sau đây cần được nhấn mạnh:
1. Các nhà tiên
tri là những người trung gian củng cố việc thực thi giao ước
Trong chương trước,
chúng tôi đã giải thích Luật Pháp của dân Y-sơ-ra-ên là một giao ước giữa Đức
Chúa Trời và con dân Ngài. Giao ước này chẳng những có các luật lệ phải vâng giữ,
mà còn mô tả các loại trừng phạt mà Đức Chúa Trời sẽ áp dụng đối với dân Ngài nếu
họ không tuân giữ Luật Pháp, cũng như các phước hạnh Ngài sẽ ban cho họ nếu họ
tuân thủ. Các trừng phạt thường được gọi là “những lời rủa sả” giao ước, còn
các lợi ích là “những phước hạnh.” Tên gọi không quan trọng. Điều quan trọng là
Đức Chúa Trời không những chỉ ban bố Luật Pháp, mà còn thi hành, làm cho nó trở
thành có hiệu lực. Việc thi hành tích cực là ban phước, việc thi hành tiêu cực
là rủa sả. Đây là chỗ để nhà tiên tri tham dự vào. Qua trung gian các tiên tri,
Đức Chúa Trời công bố việc thi hành (tích cực hoặc tiêu cực) luật pháp của
Ngài, để dân Ngài hiểu rõ các biến cố ban phước hay rủa sả. Môi-se là người
trung gian của Luật Pháp Đức Chúa Trời khi lần đầu tiên Ngài công bố điều đó,
và như thế, ông là một kiểu mẫu cho các nhà tiên tri. Họ là những người đứng
trung gian hay phát ngôn nhân của giao ước. Qua họ, Đức Chúa Trời nhắc nhở dân
Ngài trong các thế hệ sau Môi-se rằng nếu Luật Pháp được vâng giữ, hậu quả sẽ
là phước hạnh; bằng không thì sẽ là sự trừng phạt. Lê-vi ký 26:1-13; Phục truyền 4:32-40; 28:1-14 liệt kê các phước
hạnh sẽ được ban cho dân Y-sơ-ra-ên nếu họ trung tín giữ Luật Pháp. Nhưng các
phước lành này được công bố kèm theo một lời cảnh cáo; nếu dân Y-sơ-ra-ên không
vâng giữ Luật Pháp Đức Chúa Trời, các phước lành sẽ bị ngưng lại. Lê-vi ký 26:14-39; Phục truyền 4:15-28 và cả đoạn 28:15-32:42 liệt kê các loại
trừng phạt (rủa sả) mà dân Y-sơ-ra-ên sẽ chịu nếu họ vi phạm Luật Pháp.
Do đó, ta phải
ghi nhớ rằng các nhà tiên tri không tự đặt ra các phước hạnh và lời rủa sả mà họ
công bố. Có thể họ dùng lời lẽ của họ để mô tả các phước hạnh và lời rủa sả nhằm
khiến bắt phục người nghe theo như điều họ được linh cảm. Nhưng họ chỉ nói lại “lời
của Đức Chúa Trời” chứ không phải là tự nói theo ý mình. Qua các tiên tri, Đức
Chúa Trời công bố ý định của Ngài muốn thực thi giao ước, phước hạnh hay rủa sả,
tùy thuộc lòng trung thành của dân Y-sơ-ra-ên, nhưng bao giờ cũng dựa trên và
phù hợp với các phước hạnh và rủa sả đã có sẵn trong Lê-vi ký 6:1-30; Phục truyền 4:1-49; 28:1-32:52. Nếu bạn bỏ
công nghiên cứu các chương sách ấy, bạn sẽ được phần thưởng là hiểu rõ lý do
các tiên tri đã nói như vậy.
Nói cách vắn tắt thì điều ta tìm thấy sẽ như thế này: Luật Pháp hàm chứa một vài loại phước hạnh thuộc thể cho người trung tín giữ luật pháp: sự sống, sức khỏe, sự thịnh vượng, mùa màng bội thu, được tôn trọng, được an toàn. Phần lớn các phước lành cụ thể đã được đề cập đều thuộc vào một trong sáu nhóm tổng quát. Về những lời rủa sả, luật pháp mô tả các trừng phạt đối với thân thể mà chúng ta sẽ thấy dễ nhớ nếu tập họp chúng lại dưới mười tiểu mục là sự chết, bệnh tật, hạn hán, đói kém, nguy hiểm, hủy diệt, bại trận, bị lưu đày, bần cùng và bất hạnh. Phần lớn các lời rủa sả đều thuộc vào một trong các loại này.
Nói cách vắn tắt thì điều ta tìm thấy sẽ như thế này: Luật Pháp hàm chứa một vài loại phước hạnh thuộc thể cho người trung tín giữ luật pháp: sự sống, sức khỏe, sự thịnh vượng, mùa màng bội thu, được tôn trọng, được an toàn. Phần lớn các phước lành cụ thể đã được đề cập đều thuộc vào một trong sáu nhóm tổng quát. Về những lời rủa sả, luật pháp mô tả các trừng phạt đối với thân thể mà chúng ta sẽ thấy dễ nhớ nếu tập họp chúng lại dưới mười tiểu mục là sự chết, bệnh tật, hạn hán, đói kém, nguy hiểm, hủy diệt, bại trận, bị lưu đày, bần cùng và bất hạnh. Phần lớn các lời rủa sả đều thuộc vào một trong các loại này.
Những phước lành
và rủa sả này cũng được áp dụng cho những gì Đức Chúa Trời phán truyền qua các
tiên tri. Thí dụ khi Ngài muốn báo trước phước hạnh tương lai cho quốc gia
(không phải cho một cá nhân) qua tiên tri A-mốt, Ngài đã dùng các hình ảnh ví
von trong nông nghiệp về mùa màng bội thu, đời sống, sức khỏe, sự thịnh vượng,
được tôn trọng, sự an toàn (A-mốt 9:1-15). Khi Ngài thông báo tai họa cho quốc
gia không chịu vâng lời vào thời của Ô-sê, Ngài đã làm việc ấy là tùy theo một
hoặc nhiều trường hợp hơn nữa trong số các tai họa vừa được liệt kê ở phần trên
(nghĩa là sự hủy diệt trong Ô-sê 8:14 hay lưu đày
trong 9:3).
Những lời rủa sả ấy thường có nghĩa bóng, tuy chúng cũng có thể là theo nghĩa
đen. Chúng luôn liên quan đến hợp đoàn, ám chỉ toàn thể quốc gia. Các phước
lành và rủa sả không bảo đảm sự thịnh vượng hay đói khổ cho bất kỳ một cá nhân
cụ thể nào. Căn cứ vào các bảng thống kê, thì phần lớn những gì các nhà tiên
tri công bố vào các thế kỷ thứ tám, thứ bảy, và đầu thế kỷ thứ sáu T.C. đều là
lời rủa sả, vì lần thua trận và bị hủy diệt chính của vương quốc miền Bắc đã
không xảy ra trước năm 722 T.C.; còn lần bại trận và bị hủy diệt chính của
vương quốc miền Nam (Giu-đa) thì đã không xảy ra trước năm 587 T.C.. Dân
Y-sơ-ra-ên (cả ở miền Bắc lẫn miền Nam) đều lao đầu vào sự trừng phạt trong thời
kỳ ấy, cho nên theo lẽ tự nhiên, những lời cảnh cáo rủa sả chứ không phải là
phước hạnh đã bộc khởi vì Đức Chúa Trời muốn cho dân Ngài ăn năn. Sau khi cả
hai vương quốc miền Bắc và miền Nam đều bị hủy diệt, nghĩa là sau năm 587 T.C.,
các tiên tri thường chuyển sang nói về các phước hạnh nhiều hơn là rủa sả. Sở
dĩ như thế vì một khi việc trừng phạt dân Ngài đã hoàn tất, thì Đức Chúa Trời lại
bắt đầu kế hoạch căn bản của Ngài là tỏ ra nhân từ khoan dung (Phục truyền 4:25-31).
Trong khi đọc
các sách tiên tri, bạn nên tìm khuôn mẫu đơn giản này: (1) Việc chỉ ra tội lỗi
của dân Y-sơ-ra-ên hoặc tình yêu của Đức Chúa Trời đối với họ; (2) một lời tiên
báo rủa sả hay phước lành tùy theo hoàn cảnh. Phần lớn thì đó là điều mà các
nhà tiên tri ngụ ý muốn nói tùy theo linh cảm của Đức Chúa Trời cho họ.
2. Thông điệp của
các tiên tri không phải là của riêng họ, nhưng là của Đức Chúa Trời
Chính Đức Chúa
Trời đã dấy các tiên tri (đối chiếu Xuất Ai-cập 3:1; Ê-sai 6:1-13; Giê-rê-mi 1:1-19; Ê-xê-chi-ên 1:1-3:27; Ô-sê 1:2; A-mốt 7:14-15; Giô-na 1:1 ...). Nếu một
người tự phong cho mình chức vụ tiên tri, thì đó là lý do chính đáng để người ấy
bị xem là tiên tri giả (Giê-rê-mi 14:14; 23:21). Các tiên tri
là người đáp lại tiếng gọi của Đức Chúa Trời. Từ ngữ Hy-bá-lai chỉ tiên tri
(nàbì’ ) vốn ra từ động từ semitic có nghĩa là “gọi” (nàbù’ ). Trong khi đọc
các sách tiên tri bạn hãy lưu ý là các tiên tri đều viết ở lời nói đầu, ở phần
kết thúc, hoặc thường xuyên chấm dứt các sấm truyền của họ bằng những lời nhắc
nhở như “Đức Giê-hô-va phán như vầy” hoặc “Đức Giê-hô-va phán vậy.” Trong phần
lớn các trường hợp, một thông điệp tiên tri được trực tiếp truyền lại dường như
nó được tiếp nhận từ Đức Giê-hô-va ở ngôi thứ nhất, cho nên Đức Chúa Trời tự
xưng là “Ta” hoặc “của Ta.”
Chẳng hạn Giê-rê-mi 27:1-28:17. Nhiệm vụ khó
khăn của Giê-rê-mi là truyền lại cho người Giu-đa một điều cần thiết, đó là họ
phải đầu hàng các đạo quân của kẻ thù, tức vua Ba-by-lôn, nếu họ muốn được đẹp
lòng Đức Chúa Trời. Những người nghe ông, hay phần đông trong đám họ, đều xem
thông điệp ấy tương đương với tội phản quốc. Tuy nhiên, lúc truyền lại bức
thông điệp ấy, ông nói rõ rằng điều họ nghe đó không phải là ý kiến của ông về
vấn đề ấy, nhưng đó là ý định của Đức Chúa Trời. Ông bắt đầu bằng cách nhắc nhở
họ rằng “Đức Giê-hô-va phán cùng tôi...” (27:2) rồi trích dẫn
lệnh truyền của Đức Chúa Trời “Hãy gởi (lời) cho...” (27:3); “khá dặn họ tâu...rằng...”
(27:4) và thêm “Đức
Giê-hô-va phán” (27:11). Lời ông nói đó là Lời Đức Chúa Trời. Nó được truyền
lại bằng uy quyền của Đức Chúa Trời, chứ không phải của riêng ông (28:15-16).
Là những phương
tiện chuyển tải Lời của Đức Chúa Trời đến cho cả dân Y-sơ-ra-ên lẫn các dân tộc
khác, các nhà tiên tri giữ một chức vụ xã hội. Họ giống như các đại sứ đến từ
thiên đình truyền lại ý chỉ của Đức Chúa Trời là Đấng cầm quyền tể trị cho dân
chúng. Các tiên tri không phải là những nhà cải cách xã hội, cũng chẳng phải
các nhà tư tưởng tôn giáo muốn canh tân triệt để. Các cải cách xã hội và tư tưởng
tôn giáo mà Đức Chúa Trời muốn truyền dạy cho dân Ngài vốn đã được mạc khải trong
Luật Pháp có tính cách giao ước rồi. Bất kể nhóm người nào vi phạm các luật lệ ấy,
theo Lời Đức Chúa Trời qua nhà tiên tri, đều bị trừng phạt. Cho dù các vua (thí
dụ II.Sa-mu-en 12:1-14; 24:11-17; Ô-sê 1:4), hay hàng giáo
phẩm (Ô-sê 4:4-11;
A-mốt 7:17; Ma-la-chi 2:1-9) hoặc bất kỳ một
nhóm người nào vi phạm giao ước, nhà tiên tri đều trung tín truyền lại cho họ
thông điệp của Đức Chúa Trời về lời nguyền rủa đối với mọi người. Theo lời của
Đức Chúa Trời, thậm chí các tiên tri đã thiết lập hoặc truất ngôi nhiều vua (I.Các Vua 19:16; 21:17-22) và tuyên chiến
(II.Các Vua 3:18-19; II.Sử ký 20:14-17; Ô-sê 5:5-8) hoặc phản đối
chiến tranh (Giê-rê-mi 27:8-12).
Vậy, những điều
chúng ta đọc thấy trong các sách tiên tri không phải chỉ như Lời của Đức Chúa
Trời như nhà tiên tri đã nhìn thấy, mà còn là Lời Đức Chúa Trời theo cách Đức
Chúa Trời muốn cho nhà tiên tri trình bày ra. Nhà tiên tri không hề tự mình
hành động hay nói ra.
3. Thông điệp của
các tiên tri không phải là nguyên bản
Các nhà tiên tri
được Đức Chúa Trời linh cảm để trình bày nội dung cốt yếu của những phước lành
và rủa sả của giao ước. Do đó, khi chúng ta đọc lời tiên tri, thì những gì
chúng ta đọc đó chẳng có gì thật sự mới mẻ cả, mà chỉ là một thông điệp mà bản
chất giống hệt với những gì Đức Chúa Trời đã cậy Môi-se phán truyền. Dĩ nhiên
phần hình thức của thông điệp có thể thay đổi. Đức Chúa Trời đã dấy các tiên
tri là để cho con dân Chúa chú ý đến người đã được sai đến với họ. Được dân
chúng chú ý có thể bao gồm việc sắp xếp lại các câu nói và đặt lại cấu trúc điều
gì đó mà họ đã từng được nghe nhiều lần rồi, khiến nó có được một thứ “mới mẻ”
nào đó. Nhưng thật ra đó không phải là bắt đầu một thông điệp mới hay sửa đổi
thông điệp cũ. Các nhà tiên tri không được linh cảm để đưa ra một luận điểm hay
thông báo một giáo lý nào chưa từng có trong giao ước của Ngũ Kinh.
Chẳng hạn, nửa
phần đầu của Ô-sê 4:2, “Ở đó chỉ thấy những sự thề gian, thất
tín, giết người, ăn trộm và tà dâm” là một thí dụ cho việc bảo tồn thông điệp của
Chúa. Trong câu này, vốn là một phần của một đoạn dài mô tả tội lỗi của dân
Y-sơ-ra-ên vào thời của Ô-sê (750-722 T.C.), năm trong số mười điều răn đã được
tóm tắt, mỗi điều răn chỉ bằng một chữ kép duy nhất. Đó là “thề gian,” điều răn
thứ ba “ngươi chớ lấy danh Đức Giê-hô-va mà làm chơi” (Xuất Ai-cập 20:7; Phục truyền 5:11). “Thất tín,”
điều răn thứ chín, “ngươi chớ nói chứng dối...” (Xuất Ai-cập 20:16; Phục truyền 5:20). “Giết người,”
điều răn thứ sáu “ngươi chớ giết người” (Xuất Ai-cập 20:13; Phục truyền 5:17). “Ăn trộm,” điều
răn thứ tám “ngươi chớ trộm cướp” (Xuất Ai-cập 20:15; Phục truyền 5:18). “Tà dâm,” điều
răn thứ bảy “ngươi chớ phạm tội tà dâm” (Xuất Ai-cập 20:14; Phục truyền 5:18).
Điều lý thú là
nhà tiên tri không làm điều đáng lý ra phải làm, nghĩa là Ô-sê không trích dẫn
nguyên văn Mười Điều Răn. Ông đề cập năm trong số các điều răn chỉ bằng cách
tóm tắt vào một chữ kép mà thôi, rất giống với việc Chúa Giê-xu đã làm trong Lu-ca 18:20. Nhưng đề cập
năm điều răn dù là không theo đúng thứ tự thông thường của chúng là một phương
pháp rất kiến hiệu để truyền thông cho dân Y-sơ-ra-ên biết rằng họ đã vi phạm
Mười Điều Răn. Vì ngay khi được nghe năm trong số mười điều răn, kẻ nghe sẽ
nghĩ rằng: “Thế còn các điều răn khác thì sao? Thứ tự bình thường của chúng là
thế nào? Lời lẽ trong nguyên văn là...” Thính giả sẽ bắt đầu suy nghĩ về tất cả
Mười Điều Răn, tự nhắc nhở điều mà Luật Pháp của giao ước nhân danh sự công
chính mà kêu gọi họ. Ô-sê chẳng hề thay đổi một điều gì trong Luật Pháp cả, chẳng
hề làm gì nhiều hơn điều Chúa Giê-xu đã làm khi ông trích dẫn năm trong Mười Điều
Răn để tạo được cùng một tác dụng tương tự. Nhưng ông đã ghi khắc Luật Pháp vào
lòng thính giả bằng một phương pháp mà nếu chỉ đơn giản nhắc lại từng chữ từng
tiếng một, có lẽ đã chẳng bao giờ có tác dụng như thế.
Một thí dụ thứ
hai liên quan đến các lời tiên tri về Đấng Mết-si-a. Chúng có phải là mới
không? Không hề! Những chi tiết về cuộc đời và vai trò của Đấng Mết-si-a mà
chúng ta thấy trong Các Bài Ca của Người Đầy Tớ trong Ê-sai 42:1-25; 49:1-50:11 và 53:1-12 có thể được xem
là mới. Nhưng Đức Chúa Trời đã không đưa khái niệm về một Đấng Mết-si-a đến cho
dân Ngài lần đầu tiên thông qua các tiên tri. Thật ra nó đã bắt nguồn với Luật
Pháp. Nếu không phải là như thế, thì làm thế nào Chúa Giê-xu lại mô tả cuộc đời
của Ngài đã làm trọn những gì đã được viết “trong Luật Pháp Môi-se, các sách
Tiên tri, và sách Thi Thiên” (Lu-ca 24:44)? Trong số nhiều
phần khác nữa của Luật Pháp Môi-se báo trước chức vụ của Đấng Mết-si-a, Phục truyền 18:18 là một câu nổi
bật: “Ta sẽ lập lên cho chúng một đấng tiên tri như ngươi, thuộc trong anh em
chúng, ta sẽ lấy các lời ta để trong miệng người, thì người sẽ nói cho chúng mọi
điều ta phán dặn người.”
Giăng 1:45 cũng nhắc nhở chúng ta rằng Luật Pháp đã nói về Đấng Christ. Các tiên tri chẳng nói điều gì mới mẻ về Chúa Giê-xu. Ngũ Kinh không giới hạn cách thức, văn phong và tính cách đặc thù mà họ dùng để diễn đạt những tiên đoán được linh cảm. Nhưng thật ra, việc phải có một Giao Ước Mới được thiết lập do một nhà “Tiên Tri” mới (dùng lời lẽ của Phục truyền 18:1-22) đã là một câu chuyện cũ.
C. CÁCH THỨC
TRUYỀN ĐẠT SỨ ĐIỆP :
Hiển nhiên hình
thức truyền thông phổ thông hơn hết của các nhà tiên tri là nói ra lời tiên
tri. Họ cũng đã dùng các hình thức khác như Giê-rê-mi viết thư (Giê-rê-mi 29:1-32), A-hi-gia đã
xé áo choàng của ông (I.Các Vua 11:30), Ê-sai đã hát bài ca yêu thương
(Ê-sai 5:1-7). Nhưng đối với
phần lớn các nhà tiên tri, họ đã nói lời tiên tri, trong chỗ công cộng hoặc
riêng tư. Chúng ta có thể thấy điều này từ ký thuật về các hoạt động của các
nhà tiên tri như Sa-mu-ên , Na-than, Ê-li, Ê-li-sê và nhiều nhà tiên tri khác
là những người đã đi và nói cho thính giả của họ, dù là vua, dân hay các cá
nhân. Chúng ta cũng có thể thấy bằng cớ cho điều này trong các sách tiên tri (Ê-sai 32:9; 34:1; 40:6; Ê-xê-chi-ên 36:1; Ô-sê 8:1; A-mốt 1:2; Giê-rê-mi 2:2; 37:4). Những dẫn chứng
này và nhiều chỗ khác nhắc chúng ta nhớ rằng các nhà tiên tri là các phát ngôn
viên của Chúa. Điều này không có nghĩa là họ luôn luôn nói. Nhưng ở đây chúng
ta tập chú vào các hình thức diễn đạt đã được các nhà tiên tri sử dụng.
Công thức diễn đạt
rất phổ thông, được các nhà tiên tri dùng là "Đức Giê-hô-va phán vậy",
được tìm thấy trong hầu hết mỗi trang của các sách tiên tri. Từ công thức diễn
đạt rất phổ thông trên, chúng ta có thể suy ra rằng nhà tiên tri tự xem mình là
sứ giả từ Đức Chúa Trời. "Đức Giê-hô-va phán vậy" thường được dùng để
giới thiệu sứ điệp theo sau. Nhưng nó cũng xuất hiện ở giữa hoặc cuối sứ điệp,
để chắc rằng sứ điệp đang tiếp tục và rằng đây không phải là lời riêng của các nhà
tiên tri. Cụm từ quan trọng này được tìm thấy hàng trăm lần trong các sách tiên
tri (ví dụ: 162 lần trong Giê-rê-mi, 82 lần trong Ê-xê-chi-ên ...)
Trong nguyên văn
Hi-bá-lai, cụm từ này là "ne um Yaweh " (lời phán của Đức Giê-hô-va),
truyền đạt ý tưởng về lời phán hoặc lời tuyên bố, được ban cho bởi sự mặc khải
. Nó có thể được dịch là "Sấm ngôn của Đức Giê-hô-va". Nó gợi ý rằng
sứ điệp của nhà tiên tri không phải là một sứ điệp tầm thường: nó được ban cho
bởi sự hà hơi thiên thượng.
Dĩ nhiên có nhiều
cách theo đó nhà tiên tri có thể đã nhận sứ điệp thiên thượng và nhiều hình thức
mà ông có thể dùng để truyền thông sứ điệp đó. Câu "Đức Giê-hô-va phán
" không nhất thiết xác định hình thức của sứ điệp. Nó đơn giản nhắc chúng
ta một lần nữa nguồn gốc đặc biệt, thiên thượng của sứ điệp.
Tuy nhiên, ở nhiều
chỗ chúng ta thấy rằng sứ điệp của nhà tiên tri bao gồm lời văn ngắn, gọn, sắc
bén. Có khi nó là một câu hỏi, có khi là lời đe dọa (ngăm đe) hoặc lời phán
xét. Nó phải tạo nên ấn tượng mạnh mẽ trên người nghe (I.Các Vua 21:19a; II.Các Vua 1:4; I.Các Vua 21:19b; 20:1; II.Các Vua 1:3; Giê-rê-mi 37:17).
Một số học giả
đã kết luận rằng dự ngôn tiên tri nguyên thủy luôn luôn vắn tắt, sắc bén và có
tính ngăm đe. Vì vậy, họ cho rằng các dự ngôn dài hơn là thuộc về thời kỳ về
sau. Nhưng dường như không có nền tảng thực sự cho luận cứ này. Lùi xa về thời
Ba-la-am, trong Dân số ký 22:1-41 và 24:1-25 chúng ta thấy
các sấm ngôn dài cũng như ngắn.
2. Các thể văn
diễn đạt sứ điệp:
Các nhà tiên tri
đã sử dụng nhiều thể văn diễn đạt để truyền thông cách sống động và đáng chú ý
các sứ điệp của họ.
a) Hình thức bài
ca: Các nhà tiên tri đã dùng nhiều hình thức bài ca khác nhau để đưa ra sứ điệp
của họ cho dân sự, chẳng hạn bài ca tình yêu nhằm minh họa mối tương quan tình
yêu hoặc tương quan giao ước giữa Đức Giê-hô-va với dân Ngài (Ê-sai 5:1) bài ca tang lễ,
hay ca thương (ai ca) (A-mốt 5:1; Ê-xê-chi-ên 19:1-14) bài ca châm biếm
(Ê-sai 37:22-29) bài ca chúc tụng
(A-mốt 4:13; 5:8; 9:5). Mỗi loại bài
ca đều thích hợp theo nội dung của nó (Giê-rê-mi 10:12-16; Ê-xê-chi-ên 28:11-19; Ê-sai 14:4; 13:4-6).
b) Hình thức biện
luận: Ở Ê-sai 40:12
tt, Đức Chúa Trời nói với dân sự của Ngài như thể họ ở trong cuộc biện luận với
Ngài. Với một loạt câu hỏi có tính tu từ, Ngài dẫn chứng những luận điểm của họ
và trả lời cho họ.
c) Hình thức xử
án: Các nhà tiên tri thường dùng ngôn ngữ của "tòa án" hoặc xét xử,
trong đó Đức Chúa Trời đem dân sự của Ngài ra xét xử về những tội lỗi của họ.
Hình thức "xét xử" này cho chúng ta biết mối tương quan giữa Đức Chúa
Trời và dân sự của Ngài (1:2; 3:13-15). Ngoài ra, tất
cả các nước được đem đến tòa án để đối nại về việc họ có các thần khác (43:8 tt).
d) Hình thức rủa
sả "khốn thay!" Những lời "khốn thay" mang ý nghĩa một lời
ngăm đe, hoặc như là một lời rủa sả trên người được nói đến (xem 5:8; 10:1; 28:1; 29:15; 30:1; A-mốt 5:18; 6:1, 4). Trong đời sống
xã hội, hoặc trong sinh hoạt tôn giáo của Y-sơ-ra-ên, những lời rủa sả hoặc
ngăm đe như thế đóng vai trò rất quan trọng, phản ảnh mối tương quan giữa Đức
Chúa Trời với dân sự Ngài (Phục truyền 27:15; 28:15; Lê-vi ký 26:14-42).
e) Lời tuyên bố
về Luật Pháp: Luật Pháp của Đức Chúa Trời được đưa ra cho dân chúng qua các nhà
tiên tri do Thánh Linh soi sáng (Xa-cha-ri 7:12). Từ liệu Hi-bá
chỉ về Luật Pháp là Torah , và từ liệu này được dùng nhiều lần để mô tả sự dạy
dỗ của các tiên tri (xem Ê-sai 1:10; 5:24; 8:16; 30:9). Các nhà tiên tri
cũng được mô tả là có trách nhiệm dạy Luật Pháp cho dân chúng (A-ghê 2:11-13). Khi các thầy
tế lễ đã không hoàn thành vai trò của họ là các giáo sư về Luật Pháp (Ô-sê 4:4-6, các sách lịch
sử cũng xác nhận sự thất bại này), thì các nhà tiên tri đã phải bổ túc chỗ trống
này và đảm nhiệm vai trò giáo sư về Luật Pháp (Xa-cha-ri 7:2-7, 8 tt).
g) Ngoài ra các
nhà tiên tri cũng đã diễn đạt lời Chúa qua hình thức bài giảng hay bài diễn
thuyết (Ê-xê-chi-ên 20:1 tt) thư tín (Giê-rê-mi 29:4-28) ẩn dụ (Ê-xê-chi-ên 16:1-63) Châm ngôn (Giê-rê-mi 13:23) Thi ca (A-mốt 1:3; 2:6).
Sự phân tích các
hình thức diễn đạt đã được các nhà tiên tri sử dụng giúp chúng ta hiểu tốt hơn
vai trò của họ và cũng giúp đánh giá sự đa dạng của các hình thức họ đã dùng để
truyền thông sứ điệp của họ. Điều này cũng giúp chúng ta thấy bối cảnh phía sau
những lời tiên tri đã được công bố.
II. SỰ HÌNH
THÀNH CÁC SÁCH TIÊN TRI
Khi nghiên cứu
các sách tiên tri, có một số vần đề căn bản thường được đặt ra, chẳng hạn: Cách
nào và tại sao các sách tiên tri đã được viết ra? Có phải chính các nhà tiên
tri đã viết ra sứ điệp của họ, hay ai khác đã làm điều đó? Sách mà chúng ta có
ngày nay có giống như những gì đã được viết (hoặc nói) không? Những sách đó có
gồm tất cả các lời tiên tri đã được nói ra không? Có phải các sách tiên tri chỉ
gồm những lời tiên tri của các nhà tiên tri, hay đã có sự thêm vào hoặc thay đổi
nào không?
Để trả lời cho những câu hỏi này, các học giả đã theo 3 phương pháp chính, có thể tóm tắt như sau:
Để trả lời cho những câu hỏi này, các học giả đã theo 3 phương pháp chính, có thể tóm tắt như sau:
A. PHƯƠNG PHÁP
PHÊ BÌNH VĂN CHƯƠNG (Literary Criticism)
Các nhà nghiên cứu
Kinh Thánh vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 căn cứ vào phương pháp phê bình
văn chương đã cho rằng lời tiên tri đã được viết ra một cách khá sớm. Họ phân
biệt hai giai đoạn:
1) Chính nhà
tiên tri hoặc các môn đệ đã viết phần nhiều trong số lời tiên tri đã rao ra.
2) Các tác phẩm
tiên tri đã trải qua một tiến trình duyệt và sắp xếp lại bởi các
ký lục và những người khác, theo đó cũng đã có nhiều phần thêm vào và sắp đặt lại. Những nhà tu chính này đã thêm vào những nhận định thần học và các nhận định khác của họ hoặc đã giải thích lời nguyên thủy của các nhà tiên tri.
Vì vậy, khi nghiên cứu các sách tiên tri cần phải phân biệt giữa lời tiên tri nguyên thủy và những lời thêm vào sau này, căn cứ vào những tiêu chuẩn sau đây:
ký lục và những người khác, theo đó cũng đã có nhiều phần thêm vào và sắp đặt lại. Những nhà tu chính này đã thêm vào những nhận định thần học và các nhận định khác của họ hoặc đã giải thích lời nguyên thủy của các nhà tiên tri.
Vì vậy, khi nghiên cứu các sách tiên tri cần phải phân biệt giữa lời tiên tri nguyên thủy và những lời thêm vào sau này, căn cứ vào những tiêu chuẩn sau đây:
(i) Căn cứ vào
văn phong, từ vựng, luật thơ, v.v...
Chẳng hạn trong Ê-sai 10:1-34, có một loạt những câu thơ về A-sy-ri (5-11; 13-19; 28-34), những câu thơ này được xen vào bằng một câu văn xuôi (c. 12) và rồi sau đó tiếp theo bằng một đoạn văn xuôi khác (c. 20tt), lại làm gián đoạn loạt thơ. Đối với nhà phê bình văn chương thì đây là một ví dụ rõ ràng của việc thêm vào về sau.
Chẳng hạn trong Ê-sai 10:1-34, có một loạt những câu thơ về A-sy-ri (5-11; 13-19; 28-34), những câu thơ này được xen vào bằng một câu văn xuôi (c. 12) và rồi sau đó tiếp theo bằng một đoạn văn xuôi khác (c. 20tt), lại làm gián đoạn loạt thơ. Đối với nhà phê bình văn chương thì đây là một ví dụ rõ ràng của việc thêm vào về sau.
(ii) Căn cứ vào
nội dung hoặc ý tưởng:
Trong nhiều trường hợp, các nhà phê bình văn chương cảm thấy rằng một đoạn nào đó phải là phần phụ lục vì dựa vào nội dung của nó không có vẻ phù hợp với các đoạn kế cận. Trong 10:1-34 chẳng hạn, chúng ta thấy đã có dẫn chứng về "dân sót" trong các câu 19 và đặc biệt 20-23. Một số học giả cảm thấy rằng ý niệm này về dân sót không phải là phần nguyên thủy của sứ điệp của Ê-sai. Nó là sự giải thích lại về sau. Vì vậy, điều này cho ta những lý do để giả định rằng đoạn này phải là phần thêm vào về sau.
Trong nhiều trường hợp, các nhà phê bình văn chương cảm thấy rằng một đoạn nào đó phải là phần phụ lục vì dựa vào nội dung của nó không có vẻ phù hợp với các đoạn kế cận. Trong 10:1-34 chẳng hạn, chúng ta thấy đã có dẫn chứng về "dân sót" trong các câu 19 và đặc biệt 20-23. Một số học giả cảm thấy rằng ý niệm này về dân sót không phải là phần nguyên thủy của sứ điệp của Ê-sai. Nó là sự giải thích lại về sau. Vì vậy, điều này cho ta những lý do để giả định rằng đoạn này phải là phần thêm vào về sau.
Một số học giả ở
cuối thế kỷ 19 đã lý luận rằng sứ điệp của các nhà tiên tri thế kỷ thứ 8, như
A-mốt, Ô-sê và Ê-sai, chủ yếu là về sự phán xét. Vì vậy, họ không thể cũng nói
về hy vọng. Nó sẽ là sự tương phản. Các nhà tiên tri đã xác quyết rằng
Y-sơ-ra-ên và Giu-đa sẽ bị hủy diệt hoàn toàn. Trong trường hợp đó, bất cứ dẫn
chứng nào về hy vọng phải là sự thêm vào về sau. Vì vậy, bất cứ đoạn nào nói về
dân sót thì hiển nhiên là sự thêm vào sau. Ở A-mốt 9:8b và đặc biệt
11-15 có sự chuyển ý khá bất ngờ từ sự phán xét sang hy vọng.
Tương tự, ở 4:13; 5:8; 9:5 tt có 3 bài thơ
ngắn ca ngợi quyền năng của Đức Chúa Trời trong sự sáng tạo. Nhiều học giả cho
rằng giáo lý về sự sáng tạo phát triển hơn về sau trong Y-sơ-ra-ên. Vì thế, họ
cho rằng những bài thơ này được thêm vào về sau. Họ cũng cảm thấy rằng nó đã cắt
đoạn dòng tư tưởng.
Thật ra những chứng
cớ của các nhà phê bình văn chương đưa ra không đủ thuyết phục. Có rất nhiều bằng
cớ từ cả Cựu Ước lẫn Tân Ước cho thấy cùng một tác quyền, văn xuôi và thi ca
bên cạnh nhau. Vì vậy, thật nguy hiểm mà cho rằng bất cứ đoạn văn xuôi nào
trong phần thi ca phải là từ một bàn tay khác. Chúng ta cần cân nhắc các bằng cớ
một cách cẩn thận hơn. Khi nói về ý niệm “dân sót lại” trong Ê-sai, các nhà phê
bình văn chương không đủ chứng cớ để kết luận rằng ý niệm "dân sót"
không phải là một phần sứ điệp của Ê-sai. Tương tự, các nhà phê bình văn chương
cũng khó kết luận rằng Ô-sê 14:1-9, một phân đoạn nói về hy vọng ở cuối
sách, không có trong lời tiên tri nguyên thủy, mặc dầu sứ điệp chủ yếu của sách
này là về sự phán xét.
Hệ quả của
phương pháp này là thường chia nát vụn các sách tiên tri. Phải mất nhiều thì giờ
và năng lực trong việc phân biệt giữa các đoạn nguyên thủy và phụ lục. Các tiêu
chuẩn được sử dụng luôn chủ quan. Không phải tất cả học giả đều theo phương
pháp này, nhưng nó đã khá ưu thế trong cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
B. PHƯƠNG PHÁP
PHÊ BÌNH HÌNH THỨC (Form Criticism):
Từ đầu thế kỷ 20
trở đi, những nhà phê bình hình thức đã nhấn mạnh lời được nói ra tiềm ẩn dưới
hình thức văn chương. Họ phân tích hình thức văn chương và tìm ra các yếu tố
nguyên thủy là những dự ngôn ngắn, là hình thức căn bản của sự diễn giải của
các nhà tiên tri. Họ nhấn mạnh rằng các nhà tiên tri là những phát ngôn viên,
và đã phân tích một cách cẩn thận những hình thức khác nhau của sự giảng giải
mà các nhà tiên tri đã dùng.
Một số các nhà
phê bình này cũng cho rằng các dự ngôn căn bản thì hầu như chắc chắn là những lời
nói ngắn và thường rất gọn. Một số trong vòng họ đã bỏ nhiều thì giờ cố gắng
tìm ra những lời nói tóm tắt nguyên thủy mà đã được khai triển về sau. Chúng ta
đã biết rằng chắc chắn có các ví dụ về những dự ngôn như thế, nhưng dường như
không nhất thiết rằng những lời nói nguyên thủy thì luôn luôn ngắn.
Trên căn bản của loại phân tích này, các nhà phê bình đã gợi ý những giai đoạn phát triển của các sách tiên tri như chúng ta có từ hình thức được nói ra, được thốt ra. Nhà phê bình Kinh Thánh T.H. Robinson đã gợi ý 3 giai đoạn:
Trên căn bản của loại phân tích này, các nhà phê bình đã gợi ý những giai đoạn phát triển của các sách tiên tri như chúng ta có từ hình thức được nói ra, được thốt ra. Nhà phê bình Kinh Thánh T.H. Robinson đã gợi ý 3 giai đoạn:
1) Những dự ngôn
riêng rẽ được viết ra: Những lời nói này là những dự ngôn căn bản nguyên thủy,
trong những hình thức khác nhau.
2) Những dự ngôn
được sưu tập: Ở một giai đoạn về sau, các dự ngôn riêng rẽ này được sưu tập lại
với nhau trong các quyển sách nhỏ. Có khi nó được đặt chung nhau dựa trên căn bản
có cùng chủ đề, chẳng hạn các dự ngôn chống lại các ngoại bang (Ê-sai 13:23; Giê-rê-mi 46:51; Ê-xê-chi-ên 25:32). Có khi nó dựa
trên căn bản có cùng các từ, chẳng hạn Ê-sai 1:9, 10 cả hai có liên
quan đến Sô-đôm và Gô-mô-rơ. Có khi những người sưu tập các dự ngôn đã sắp xếp
nó một cách sáng tạo, theo các câu lập đi lập lại, hoặc lời mở đầu và tiêu đề
(chẳng hạn A-mốt 4:13; 5:8; 9:5 tt).
Robinson cho rằng
trong một số trường hợp, chính nhà tiên tri đã sưu tập các dự ngôn của mình, chẳng
hạn Ê-xê-chi-ên, A-ghê và Xa-cha-ri Xa-cha-ri 1:1-8:23 (các niên đại
được cho đối với mỗi dự ngôn và dường như được sắp xếp một cách cẩn thận).
3) Những sưu tập
các dự ngôn được tổng hợp: Ở một giai đoạn về sau, những sưu tập ngắn này được
đặt chung nhau trong những sách tương đương với 4 cuộn tiên tri lớn và 12 tiểu
tiên tri . Trong tiến trình này, Robinson cho rằng một số sưu tập ẩn danh được
đặt chung nhau và quy cho một nhà tiên tri, chẳng hạn các phần khác nhau của
Ê-sai, Xa-cha-ri, Mi-chê và các lời tiên tri ngắn của Ma-la-chi và Áp-đia.
C. PHƯƠNG PHÁP PHÊ BÌNH LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG (Historical-traditional
Criticism):
Các học giả Cựu
Ước người Scandinavia đã nhấn mạnh tới sự truyền khẩu. Chẳng hạn H. S. Nyberg
cho rằng lời của các tiên tri và lời truyền khẩu đã được lưu truyền lẫn lộn và
thật khó nếu không thể phân biệt ... Ông cho là những nhóm người hoặc các môn đệ
của nhà tiên tri hoặc một trường phái, đã giữ ký ức về những lời của tiên tri
và truyền nó lại với sự thêm vào và giải thích lại theo họ. Cho đến cuối cùng ở
một giai đoạn về sau, nó được viết ra. Như vậy, sách Ê-sai như chúng ta có bây
giờ tiêu biểu cho sự sưu tập về các truyền thống khác nhau một số trong những lời
mấy tiên tri đó qui cho chính Ê-sai. Nhưng phần lớn gồm những lời của các môn đệ
của ông, hoặc trường phái sau trên 2 thế kỷ.
D. NHẬN ĐỊNH VỀ CÁC PHƯƠNG PHÁP TRÊN TRONG ÁNH SÁNG CỦA THÁNH KINH :
Những phương
pháp phê bình Kinh Thánh nêu trên tuy cần thiết và hữu ích nhưng không phải là
những phương pháp tuyệt đối. Những kết luận mà các nhà phê bình văn chương,
hình thức, hay lịch sử truyền thống đưa ra không phải dễ dàng được chấp nhận vì
một số lý do.
Chẳng hạn, trong
các sách tiên tri, chúng ta thấy nhiều chỗ các nhà tiên tri đã khẳng định là
chính họ đã tự viết ra những lời tiên tri cũng như mục đích được viết trong mỗi
trường hợp (Ê-sai 8:1; 30:8; Ha-ba-cúc 2:2; Giê-rê-mi 29:1; 29:25). Chắc chắn những
trường hợp này minh họa sự kiện các nhà tiên tri đã viết ra sứ điệp của họ
trong nhiều cơ hội. Vậy, không có lý do gì cho thấy họ không thể đã viết nhiều
hơn. Ngoài ra, các sách Sử Ký chứa đựng những trích dẫn đáng kể về những ký thuật
được lưu giữ bởi các nhà tiên tri (ISu1Sb 29:29; II.Sử ký 20:34; 9:29; 26:22; 12:15; 32:32; 13:22; 33:19).
Nhiều sách tiên
tri cho thấy chính các nhà tiên tri đã sắp xếp cẩn thận sách tiên tri của mình.
Đọc kỹ Ê-xê-chi-ên Ê-xê-chi-ên 1:1; 8:1; 20:1; 24:1; 33:21; 40:1, chúng ta sẽ thấy
sách Ê-xê-chi-ên được sắp xếp một cách cẩn thận, với thứ tự niên đại chính xác
và cấu trúc rất rõ ràng. Sách phản ảnh chức vụ của Ê-xê-chi-ên với hai giai đoạn
nổi bật và sứ điệp của nó. Chú ý đến 24:2 và 33:21-22 và nội dung của
các chương 25-32 ở giữa sách phân chia phần một (chương 11-24) và phần hai
(chương 33-48) của sách, chúng ta sẽ thấy có sự sắp xếp mạch lạc và cho thấy rằng
chính Ê-xê-chi-ên đã viết sách này. Điều này ăn khớp với sự kiện một số bài diễn
thuyết dài hoặc bài giảng có thể đã được viết, hơn là chỉ được nói ra, từ lúc rất
sớm. Ký thuật về khải tượng đền thờ (40-48) hầu như chắc chắn đã được viết ra.
A-ghê là một
sách khác trong đó những lời tiên tri được ghi niên đại chính xác (A-ghê 1:1; 2:1; 2:10, 20). Cấu trúc rõ ràng
và đơn giản, với ký thuật vắn tắt, gọn, rõ về các sứ điệp và đáp ứng của dân sự.
Các sách khác như Xa-cha-ri hoặc Ma-la-chi, có chứng cớ của một cấu trúc được sắp xếp cách cẩn thận (dù không quá rõ hoặc đơn giản như trong trường hợp Ê-xê-chi-ên hoặc A-ghê).
Các sách khác như Xa-cha-ri hoặc Ma-la-chi, có chứng cớ của một cấu trúc được sắp xếp cách cẩn thận (dù không quá rõ hoặc đơn giản như trong trường hợp Ê-xê-chi-ên hoặc A-ghê).
Những nhận xét
này tuy không trả lời đầy đủ hay xác định cho các vấn đề của chúng ta nhưng đó
là một phần chứng cớ giúp chúng ta đánh giá các phương pháp nghiên cứu về sự
hình thành các sách tiên tri như đã trình bày ở trên.
PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU MỘT SÁCH TIÊN TRI
Một số người
quan niệm mọi sự trong Kinh Thánh phải rõ ràng cho tất cả những người đọc nó,
chẳng cần phải nghiên cứu, cũng chẳng cần bất luận sự trợ giúp nào từ bên
ngoài. Lý do đưa ra là nếu Đức Chúa Trời đã viết Kinh Thánh cho chúng ta (toàn
thể các tín hữu), thì chúng ta phải có khả năng thông hiểu nó ngay lần đầu tiên
chúng ta đọc nó, vì chúng ta có Đức Thánh Linh bên trong. Quan niệm như thế là
sai lầm. Nhiều phần trong Kinh Thánh chỉ rõ ràng trên bề mặt, nhưng nhiều phần
khác thì không. Các tư tưởng của Đức Chúa Trời vốn sâu nhiệm vô cùng so với ý
nghĩ của con loài người (Thi thiên 92:5; Ê-sai 55:8), do đó đừng ngạc
nhiên khi có vài phần trong Kinh Thánh đòi hỏi phải có thì giờ và nghiên cứu
kiên nhẫn mới có thể hiểu được.
Thiết tưởng
chúng tôi cần nhắc lại ở đây là có ba nguồn trợ giúp đang ở trong tầm tay bạn,
đặc biệt là với việc giải nghĩa các sách tiên tri. Nguồn thứ nhất là các bộ
Thánh Kinh Tự Điển cung cấp bối cảnh lịch sử của từng sách, bố cục cơ bản của
nó, các nét đặc trưng ẩn chứa trong đó, và các vấn đề về giải nghĩa mà mỗi độc
giả phải biết. Bạn nên tập thói quen đọc một bài viết trong Thánh Kinh Tự Điển
về một sách tiên tri nào đó trước khi bạn bắt đầu nghiên cứu sách ấy. Bạn cần
biết số thông tin liên hệ đến bối cảnh trước khi có thể nắm được luận điểm của
phần lớn những gì nhà tiên tri muốn truyền đạt. Lời Đức Chúa Trời qua các tiên
tri đến với mọi người trong những hoàn cảnh cá biệt . Giá trị của nó cho chúng
ta tùy thuộc một phần vào khả năng hiểu rõ các hoàn cảnh ấy, để đến lượt mình,
chúng ta có thể ứng dụng cho hoàn cảnh cá biệt của chúng ta.
Nguồn trợ giúp
thứ hai là các sách giải nghĩa . Các bộ sách này cung cấp nhiều phần dẫn nhập
dài cho từng sách, có phần giống với các bộ Thánh Kinh Từ Điển. Tuy thường ít
được sắp xếp kỹ lưỡng nhưng điều quan trọng là chúng cung cấp nhiều phần giải
nghĩa cho nhiều câu riêng biệt. Chúng có thể trở thành cần thiết nếu bạn muốn
nghiên cứu kỹ một phần tương đối nhỏ của một sách tiên tri, nghĩa là ít hơn một
chương mỗi lần.
Nguồn trợ giúp
thứ ba là những cuốn Thánh Kinh Đại Cương . Quyển sách tốt nhất thuộc loại này
kết hợp các nét đặc trưng của các quyển Thánh Kinh Tự Điển lẫn các sách chú giải,
tuy không đi sâu vào các chi tiết như các tài liệu dẫn nhập, cũng không giải
nghĩa từng câu một. Tuy nhiên mỗi lần đọc nhiều chương của một sách tiên tri,
thì một sách Thánh Kinh Đại Cương có thể cung cấp rất nhiều hướng dẫn hữu ích với
số thì giờ tối thiểu.
Để có thể hiểu
đúng sứ điệp các sách tiên tri, chúng ta cần nghiên cứu những điểm quan trọng
sau đây:
I. NHỮNG NGUYÊN
TẮC CĂN BẢN
A. NGHIÊN CỨU BỐI
CẢNH LỊCH SỬ
Đối với các sách
tiên tri, bối cảnh lịch sử có thể bao quát (thời đại của các nhà tiên tri) hoặc
đặc thù (bối cảnh của từng lời sấm truyền). Muốn thực hiện tốt công tác giải
kinh đối với tất cả các sách tiên tri, bạn cần hiểu rõ cả hai loại bối cảnh lịch
sử này.
1. Bối cảnh bao
quát
Điều lý thú đáng
ghi nhận là mười sáu sách tiên tri của Cựu Ước đã ra đời từ một giai đoạn có thể
nói là nhỏ hẹp trong toàn cảnh lịch sử dân Y-sơ-ra-ên, nghĩa là từ khoảng
760-460 T.C.. Tại sao chúng ta lại không có các sách tiên tri ngay từ thời của
Áp-ra-ham (khoảng năm 1800 T.C.) hoặc từ thời của Giô-suê (khoảng 1400 T.C.),
hay vào thời của Đa-vít (khoảng 1000 T.C.)? Phải chăng Đức Chúa Trời đã không
phán dạy dân Ngài và thế giới của họ trước năm 760 T.C.? Tất nhiên câu trả lời
là Ngài có làm việc ấy, và chúng ta đã có rất nhiều tài liệu trong Kinh Thánh về
các thời kỳ đó, kể cả một số tài liệu đề cập đến các tiên tri (thí dụ I.Các Vua 17:1-24; II.Các Vua 13:1-25). Hơn nữa, nên
nhớ rằng Đức Chúa Trời đã đặc biệt phán dạy dân Y-sơ-ra-ên trong Luật Pháp, vốn
đã được hoạch định cứ đứng vững suốt phần còn lại của lịch sử dân tộc, cho đến
khi Giao Ước Mới sẽ thay thế cho nó (Giê-rê-mi 31:31-34).
Thế tại sao lại
có việc tập trung để viết lại lời tiên tri suốt ba thế kỷ, giữa A-mốt (khoảng
760 T.C.), sách sớm nhất trong số các sách tiên tri đã được viết ra và
Ma-la-chi (khoảng 460 T.C.), là sách tiên tri cuối cùng? Câu trả lời là giai đoạn
này trong lịch sử dân Y-sơ-ra-ên đã được dành đặc biệt cho việc “đứng trung
gian để khiến cho giao ước có hiệu lực,” và đó là nhiệm vụ của các tiên tri.
Còn một yếu tố thứ hai nữa là Đức Chúa Trời muốn ghi chép lại những lời cảnh
cáo và các phước hạnh mà các nhà tiên tri thay mặt Đức Chúa Trời để thông báo
suốt những năm then chốt này cho cả phần lịch sử tiếp theo sau đó.
Những năm này có
ba đặc điểm: (1) sự phục hưng chưa từng có trước đó về các phương diện chính trị,
quân sự, kinh tế và xã hội; (2) sự bất trung cao độ về mặt tôn giáo, và khinh
thường giao ước của Môi-se; và (3) nhiều thay đổi về dân số và các ranh giới quốc
gia. Trong những tình hình như thế, Lời Đức Chúa Trời cần được làm cho mới lại.
Vì thế Ngài đã dấy lên nhiều tiên tri để thông báo Lời Ngài.
Trong khi sử dụng
Thánh Kinh Tự Điển, Thánh Kinh Đại Cương và sách chú giải, bạn sẽ nhận thấy vào
năm 760 T.C., xứ Y-sơ-ra-ên đã vĩnh viễn bị chia đôi do một cuộc nội chiến kéo
dài. Các chi phái ở phía Bắc gọi là “Y-sơ-ra-ên” (có khi gọi là “Ép-ra-im”) đã
ly khai với chi phái Giu-đa ở phía Nam. Miền Bắc, nơi việc bất tuân giao ước vượt
xa tất cả những gì đã được biết trong xứ Giu-đa, đã bị Đức Chúa Trời ghi vào
danh sách là sẽ bị hủy diệt vì cớ tội lỗi của nó. A-mốt, bắt đầu trước sau năm
760 và Ô-sê, bắt đầu từ trước sau năm 755 đã thông báo là sự hủy diệt đang treo
trên đầu. Năm 722 T.C., Miền Bắc đã sa vào tay A-sy-ri là siêu cường quốc tại
Trung Đông lúc đó. Từ đó trở đi, tội lỗi của Giu-đa cứ gia tăng và sự dấy lên của
một siêu cường quốc khác nữa là Ba-by-lôn, đã cấu thành đề tài cho nhiều nhà
tiên tri, kể cả Ê-sai, Giê-rê-mi, Giô-ên, Mi-chê, Na-hum, Ha-ba-cúc, Sô-phô-ni.
Xứ Giu-đa cũng bị hủy diệt vì sự không vâng lời năm 587 T.C. Sau đó,
Ê-xê-chi-ên, Đa-ni-ên, A-ghê, Xa-cha-ri và Ma-la-chi đã thông báo ý chỉ của Đức
Chúa Trời về sự phục hồi của con dân Ngài (bắt đầu với việc hồi hương từ cuộc
lưu đày năm 538 T.C.), việc tái lập quốc gia và tôn giáo. Tất cả mọi việc này đều
theo đúng mẫu mực cơ bản đã được ấn định trong Phục truyền 4:25-31.
Phần lớn các
tiên tri đã truyền phán trực tiếp các biến cố này . Nếu bạn không biết các biến
cố đó và nhiều biến cố khác trong giai đoạn này - vốn quá nhiều để có thể nêu
ra ở đây - thì có lẽ bạn sẽ không thể nào theo dõi kịp những gì các tiên tri muốn
nói. Đức Chúa Trời đã phán trong lịch sử và về lịch sử. Muốn thấu triệt Lời
Ngài, chúng ta phải hiểu biết đôi điều về lịch sử ấy.
2. Các bối cảnh
đặc thù
Mỗi lời sấm truyền
của nhà tiên tri đều được truyền phán trong một bối cảnh lịch sử cụ thể. Đức
Chúa Trời đã nhờ các nhà tiên tri Ngài phán dạy dân chúng vào một thời gian và
địa điểm nhất định nào đó, cũng như trong những hoàn cảnh nhất định. Do đó sự
hiểu biết về niên đại, thính giả và hoàn cảnh - khi có thể biết được - sẽ góp
phần chủ yếu cho khả năng lãnh hội lời tiên tri của người đọc.
Hãy đọc Ô-sê 5:8-10, một sấm truyền
ngắn gọn, tự nó vốn đã đầy đủ, tập họp nhiều sấm truyền khác trong chương này.
Một người am hiểu thời thế lúc bấy giờ sẽ vạch rõ cho bạn thấy sự kiện sấm truyền
này có hình thức của một sấm truyền chiến tranh, một hình thức sấm truyền thông
báo sự phán xét của Đức Chúa Trời do việc chiến chinh đem đến. Thường các yếu tố
của một hình thức như vậy gồm có: tiếng còi báo động, phần mô tả cuộc tấn công
và lời tiên báo thất trận. Giống như cách nó giúp nhận ra phần hình thức, nó
cũng giúp nhận ra phần nội dung cụ thể nữa.
Niên đại là năm
734 T.C. Thính giả là dân Y-sơ-ra-ên ở miền Bắc (được gọi là Ép-ra-im) là những
người đang được Ô-sê truyền giảng cho. Thông điệp được dành đặc biệt cho một số
thành phố nằm trên con đường đi từ thủ đô của xứ Giu-đa là Giê-ru-sa-lem, đến
trung tâm thờ tà thần của dân Y-sơ-ra-ên là Bê-tên. Hoàn cảnh là chiến tranh.
Giu-đa đang phản công lại Y-sơ-ra-ên sau khi Y-sơ-ra-ên và Sy-ri xâm lăng xứ
Giu-đa (xem II.Các Vua 16:5). Cuộc xâm lăng đã bị đánh trả nhờ sự
trợ giúp của siêu cường quốc A-sy-ri (16:7-9). Thông qua
Ô-sê, Đức Chúa Trời báo động theo nghĩa bóng cho các thành phố nằm trong lãnh
thổ Bên-gia-min (Ô-sê 1:8) vốn là một phần của vương quốc miền Bắc.
Sự hủy diệt là chắc chắn (c.9) vì Giu-đa sẽ chiếm lấy vùng lãnh thổ mà nó xâm lấn.
Nhưng rồi cả Giu-đa cũng sẽ phải trả món nợ của nó. Cơn thịnh nộ của Đức Chúa
Trời cũng sẽ giáng trên họ, cả vì hành động chiến tranh này, lẫn vì tội thờ thần
tượng của họ (II.Các Vua 16:2-4). Cả Giu-đa lẫn Y-sơ-ra-ên đều bị giao
ước giữa họ với Đức Chúa Trời trói buộc, mà giao ước ấy đã cấm một cuộc chiến
tranh huynh đệ tương tàn như thế. Cho nên Đức Chúa Trời sẽ trừng phạt việc họ
đã vi phạm giao ước này của Ngài.
Biết được các sự
kiện trên tạo sự khác biệt rất nhiều cho khả năng tìm hiểu lời sấm truyền trong
Ô-sê 5:8-10. Hãy tham khảo
các bộ sách giải nghĩa hoặc Thánh Kinh Đại Cương khi bạn đọc các sách tiên tri,
và như việc vẫn luôn luôn phải làm là hãy cố tìm hiểu niên đại, thính giả và
hoàn cảnh của các sấm truyền mà bạn đang đọc.
B. TÁCH RỜI TỪNG
SẤM TRUYỀN
Khi ta thật sự
muốn nghiên cứu hay đọc thật đầy đủ các thông tin để giải nghĩa các sách tiên
tri, điều đầu tiên ta phải tập làm là suy nghĩ từng sấm truyền . Không phải lúc
nào điều này cũng dễ làm, nhưng biết rõ chỗ khó khăn và sự cần thiết phải làm
như thế là khởi điểm cho một phát hiện đầy phấn khởi rồi.
Trong phần lớn
các trường hợp, điều nhà tiên tri nói được trình bày trong sách của họ một cách
dồn dập. Nghĩa là những lời họ đã nói nhiều lần và từ nhiều nơi khác nhau qua
nhiều năm chức vụ đều được sưu tập và viết ra chung với nhau, không có sự phân
chia nào để chỉ cho thấy đến đâu thì một lời sấm chấm dứt và một lời sấm khác bắt
đầu. Hơn nữa, cả khi một lời sấm có thể phỏng đoán ra là đã kết thúc nhờ có sự
thay đổi đề tài, và có lẽ là một lời sấm khác được bắt đầu, thì việc thiếu lời
giải thích (nghĩa là các điểm lưu ý hoặc chuyển tiếp) khiến ta phải thắc mắc tự
hỏi: “Mấy lời này đã được nói ra nhân cùng một ngày cho cùng một nhóm thính giả
hay đã được nói ra nhiều năm sau - hoặc sớm hơn - cho một nhóm người khác, nhân
nhiều hoàn cảnh khác?” Câu trả lời có thể khiến cho việc hiểu biết của ta sẽ
khác đi rất nhiều.
Một vài phần trong các sách tiên tri cũng có ngoại lệ. Trong sách A-ghê và các chương đầu của sách Xa-cha-ri chẳng hạn, mỗi lời tiên tri đều có đề ngày. Nhờ sự trợ giúp của bộ Thánh Kinh Tự Điển, Thánh Kinh Đại Cương hay sách chú giải, bạn có thể theo dõi khá dễ dàng diễn tiến của các lời tiên tri ấy trong bối cảnh của chúng. Và một vài lời tiên tri trong các quyển sách khác, đáng chú ý nhất là hai sách Giê-rê-mi và Ê-xê-chi-ên, cũng đã được tác giả đề ngày và đặt vào một bối cảnh như thế.
Một vài phần trong các sách tiên tri cũng có ngoại lệ. Trong sách A-ghê và các chương đầu của sách Xa-cha-ri chẳng hạn, mỗi lời tiên tri đều có đề ngày. Nhờ sự trợ giúp của bộ Thánh Kinh Tự Điển, Thánh Kinh Đại Cương hay sách chú giải, bạn có thể theo dõi khá dễ dàng diễn tiến của các lời tiên tri ấy trong bối cảnh của chúng. Và một vài lời tiên tri trong các quyển sách khác, đáng chú ý nhất là hai sách Giê-rê-mi và Ê-xê-chi-ên, cũng đã được tác giả đề ngày và đặt vào một bối cảnh như thế.
Nhưng không phải
lúc nào sự việc cũng như vậy. Thí dụ, khi đọc A-mốt chương 5 trong một bản dịch
Kinh Thánh không có các tiêu đề giải thích được thêm vào (các tiêu đề này chỉ
là ý kiến riêng của các học giả mà thôi), hãy tự hỏi phải chăng cả chương này đều
chỉ là một lời tiên tri (sấm truyền) duy nhất hay không? Nếu nó là một lời tiên
tri duy nhất, tại sao lại có quá nhiều lần thay đổi chủ đề như thế (bài ca
thương về việc dân Y-sơ-ra-ên bị hủy diệt, câu 1-3 lời mời gọi hãy tìm kiếm Đức
Chúa Trời để được sống câu 5-6,14 những lời phản đối sự bất công xã hội, câu
7-13 lời tiên báo các khổ nạn, câu 16-17 phần mô tả ngày của Đức Giê-hô-va, câu
18-20 phần chỉ trích việc thơ phượng giả dối, câu 21-24 và một phần kiểm điểm vắn
tắt lịch sử đầy tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên mà cao điểm là lời tiên báo về cuộc
lưu đày, câu 25-27)? Nếu nó không phải là một sấm truyền duy nhất, thì phải hiểu
các thành phần riêng rẽ đã cấu thành nó như thế nào? Phải chăng chúng đều độc lập
đối với nhau? Có một số nào có thể tập họp lại với nhau không? Nếu có, thì tập
họp lại như thế nào?
Thật ra, nhiều
người đồng ý rằng chương 5 chứa đựng đến ba lời sấm truyền. Các câu 1-3 tạo
thành một bài ca thương ngắn thông báo sự trừng phạt, các câu 4-17 tạo thành một
lời sấm riêng (tuy phức tạp) về lời mời gọi hãy nhận phước hạnh và lời cảnh cáo
về sự trừng phạt, còn các câu 18-27 họp thành một lời sấm duy nhất (cũng phức tạp)
cảnh cáo về sự trừng phạt. Như thế, không phải hễ mỗi lần có thay đổi đề tài
chút ít thì đều là dấu chỉ về điểm bắt đầu của một lời sấm mới. Mặt khác, sự
phân chia các chương cũng không phù hợp với từng lời sấm riêng rẽ. Phải tách rời
các lời sấm bằng cách chú ý đến các hình thức đã được biết rõ về chúng (xem dưới
đây). Cả ba lời sấm trong chương 5 đều được ban truyền vào cuối thời trị vì của
vua Giê-rô-bô-am của Y-sơ-ra-ên (793-753 T.C.), cho một dân tộc mà sự thịnh vượng
tương đối đã khiến họ không thể nghĩ rằng đất nước họ sẽ bị tàn phá đến độ
không còn tồn tại nữa chỉ trong vòng một thế hệ mà thôi. Một cuốn Thánh Kinh Từ
Điển hoặc Thánh Kinh Đại Cương hay sách chú giải tốt sẽ giải thích những việc
như thế cho bạn khi bạn đọc nó. Đừng tự gây trở ngại cho mình cách không cần
thiết bằng cách không cần tham khảo các sách như thế.
Vì việc tách
riêng từng lời sấm truyền là một trong những chìa khóa để hiểu rõ các sách tiên
tri, nên điều quan trọng là bạn phải biết các hình thức khác nhau mà các tiên
tri đã dùng để viết các sấm truyền. Toàn bộ Kinh Thánh được soạn thảo bằng rất
nhiều thể loại và hình thức văn chương. Cũng vậy, các tiên tri đã sử dụng nhiều
loại hình văn chương để phục vụ cho những bức thông điệp được Đức Chúa Trời
linh cảm cho họ. Các sách chú giải có thể nhận diện và giải thích các hình thức
ấy. Trong các sách tiên tri, các thể loại văn chương phổ biến nhất là thể loại
kiện tụng, lên án, rủa sả, ngăm đe, lời hứa (xem lại chương 1).
C. ÁP DỤNG SỨ ĐIỆP
TRONG BỐI CẢNH HIỆN TẠI :
Nhiệm vụ giải
kinh là phải đặt các Tiên Tri vào chính bối cảnh lịch sử của họ, và nghe được
những gì Đức Chúa Trời muốn nói gì với dân Y-sơ-ra-ên qua họ, sau đó tìm hiểu Lời
Đức Chúa Trời muốn phán gì cho chúng ta qua các sấm truyền thi ca linh cảm từng
được truyền phán cho dân tộc của Ngài thời xưa. Thứ nhất, một khi chúng ta được
nghe những gì Đức Chúa Trời đã phán dạy họ, dù hoàn cảnh của chúng ta có rất
khác xa đi chăng nữa, chúng ta sẽ vẫn thường nghe lại chúng một lần nữa ngay
trong các hoàn cảnh tình hình của chúng ta theo một cách khác. Ngày nay sự phán
xét của Đức Chúa Trời vẫn luôn luôn chờ đợi những kẻ “bán kẻ nghèo lấy một đôi
dép" (A-mốt 2:6), hoặc lợi dụng tôn giáo làm chiếc áo
choàng để che đậy lòng tham lam và sự bất nghĩa (Ê-sai 1:10-17), hoặc pha lẫn
các tội thờ thần tượng hiện đại (như thái độ tự xưng là công chính) với Phúc Âm
của Đấng Christ (Ô-sê 13:2-4). Các tội này cũng chính là các tội
trong thời đại của Giao Ước Mới nữa.
Nhưng ngoài các
loại ứng dụng ấy ra, còn ba vấn đề khác cần được đề cập: một là phải cẩn trọng,
một vấn đề nữa là về mối quan tâm và một vấn đề khác nữa là về sự lợi ích.
1. Cần thận trọng
về các lời tiên báo tương lai
Ngay từ đầu
chúng ta đã lưu ý rằng công tác chính của các tiên tri không phải là báo trước
tương lai xa. Lẽ dĩ nhiên là họ có tiên báo các biến cố tương lai, nhưng phần lớn
là tương lai mà bây giờ đã trở thành quá khứ rồi. Nghĩa là họ nói về sự phán
xét hay cứu rỗi sắp đến trong một tương lai tương đối rất gần với dân
Y-sơ-ra-ên, chứ không phải là tương lai của chính chúng ta. Chúng ta phải thận trọng
là muốn thấy lời tiên tri của các vị ứng nghiệm, chúng ta phải “nhìn lui trở lại”
các thời kỳ mà đối với các vị là tương lai, nhưng đối với chúng ta thì đã là
quá khứ. Nguyên tắc giảng kinh này cần được minh họa.
Về trường hợp các sứ điệp tiên tri vốn chú trọng vào một tương lai gần chứ không phải một tương lai xa, chúng tôi đề nghị bạn đọc một mạch các chương từ 25-39 của sách Ê-xê-chi-ên. Cần lưu ý là nhiều sấm ký trong khối lớn tài liệu này vốn liên quan đến số phận của các dân tộc khác chứ không phải là dân Y-sơ-ra-ên, tuy dân Y-sơ-ra-ên cũng được đề cập tới. Điều quan trọng là phải thấy rằng những gì Đức Chúa Trời nói về số phận của các dân tộc ấy và phần ứng nghiệm thì đã đến “chỉ trong vòng vài thập kỷ” sau khi các lời tiên tri ấy được công bố, nghĩa là phần lớn là trong thế kỷ thứ sáu T.C.. Lẽ dĩ nhiên là nguyên tắc này cũng có những ngoại lệ cá biệt. Ê-xê-chi-ên 37:15-28 mô tả thời đại Tân Ước, và các phước hạnh mà Đức Chúa Trời sẽ đổ xuống trên Hội Thánh thông qua Đấng Mết-si-a. Nhưng phần lớn các lời tiên tri, kể cả những lời tiên tri trong hai chương 38 và 39 (hãy tra cứu một bộ sách chú giải về hai chương này) đều liên quan đến các thời kỳ về biến cố Cựu Ước.
Về trường hợp các sứ điệp tiên tri vốn chú trọng vào một tương lai gần chứ không phải một tương lai xa, chúng tôi đề nghị bạn đọc một mạch các chương từ 25-39 của sách Ê-xê-chi-ên. Cần lưu ý là nhiều sấm ký trong khối lớn tài liệu này vốn liên quan đến số phận của các dân tộc khác chứ không phải là dân Y-sơ-ra-ên, tuy dân Y-sơ-ra-ên cũng được đề cập tới. Điều quan trọng là phải thấy rằng những gì Đức Chúa Trời nói về số phận của các dân tộc ấy và phần ứng nghiệm thì đã đến “chỉ trong vòng vài thập kỷ” sau khi các lời tiên tri ấy được công bố, nghĩa là phần lớn là trong thế kỷ thứ sáu T.C.. Lẽ dĩ nhiên là nguyên tắc này cũng có những ngoại lệ cá biệt. Ê-xê-chi-ên 37:15-28 mô tả thời đại Tân Ước, và các phước hạnh mà Đức Chúa Trời sẽ đổ xuống trên Hội Thánh thông qua Đấng Mết-si-a. Nhưng phần lớn các lời tiên tri, kể cả những lời tiên tri trong hai chương 38 và 39 (hãy tra cứu một bộ sách chú giải về hai chương này) đều liên quan đến các thời kỳ về biến cố Cựu Ước.
Quá nhiệt thành
trong việc đồng hóa các biến cố Tân Ước với lời tiên tri Cựu Ước có thể dẫn tới
nhiều hậu quả kỳ quặc. Câu trong Ê-sai 49:23 đề cập các vua
“sẽ cúi mặt sát đất ở trước mặt ngươi” nghe ra khá giống với việc ba nhà thông
thái đến viếng con trẻ Giê-xu (Ma-thi-ơ 2:1-11) để khuyến
khích nhiều người cho rằng mấy lời này của Ê-sai ám chỉ Đấng Mết-si-a. Một lời
lý giải như thế đã bỏ qua bối cảnh (cả các vua lẫn các hoàng hậu đều được đề cập;
vấn đề của khúc sách này là việc phục hồi địa vị cho dân Y-sơ-ra-ên sau cuộc
lưu đày), ý định (ngôn ngữ của lời sấm này nhằm chứng minh xứ Y-sơ-ra-ên sẽ rất
được trọng vọng một khi Đức Chúa Trời đã phục hồi địa vị cho nó), văn phong (là
thi ca biểu tượng, dùng hình ảnh các vua của các dân các nước tự xem họ là bà
con cùng một vú nuôi với dân tộc Y-sơ-ra-ên, và liếm bụi đất dưới chân dân tộc ấy)
và từ ngữ (Magi - các nhà thông thái là các nhà hiền triết/chiêm tinh gia, chứ
không phải là các vua). Chúng ta phải thận trọng, đừng khiến cho các lời tiên
tri, hay bất luận một thành phần nào trong Kinh Thánh nói những gì mà chúng ta
thích cho là câu ấy muốn nói. Chúng ta phải lắng nghe điều mà “Đức Chúa Trời”
muốn cho câu nói ấy.
Lẽ dĩ nhiên là
cũng phải lưu ý rằng một số các lời tiên tri về tương lai gần đã được đặt vào bối
cảnh của một tương lai rộng lớn có tính lai thế, và nhiều khi dường như chúng
đã bị hòa lẫn vào trong đó. Chúng tôi lại sẽ đề cập vấn đề này trong chương 13.
Hiện tại, xin lưu ý lý do của việc ấy là Thánh Kinh vẫn thường nhìn thấy các
hành động của Đức Chúa Trời trong lịch sử tạm thời trong viễn tượng của kế hoạch
toàn diện của Ngài cho cả lịch sử nhân loại. Cho nên cái tạm thời phải được
nhìn thấy trong viễn tượng của kế hoạch đời đời. Sự việc cũng giống như khi ta
nhìn vào hai cái đĩa; cái nhỏ hơn nằm trong cái lớn hơn theo cách nhìn thẳng; rồi
theo viễn cảnh của lịch sử nối tiếp nhau, việc trước đi trước, việc sau đi sau,
nên theo cách nhìn trắc diện (nhìn ngang) ta sẽ thấy là việc trước thật ra đã
cách xa với việc sau.
Như thế, trong
các sách tiên tri, có một số sự việc có vẻ như thuộc vào số các biến cố cuối
cùng của thời đại (thí dụ, Giô-ên 3:1-3; SoXp 3:8-9; Xa-cha-ri 14:9). Nhưng những
cuộc phán xét tạm thời thường được đề cập gắn liền với các biến cố cuối cùng ấy
không thể cũng bị đẩy vào trong cái tương lai ấy.
Ngoài ra chúng
ta cũng cần lưu ý rằng ngôn ngữ lai thế theo bản tính thường có nghĩa bóng. Nhiều
khi chính các hình bóng ấy diễn tả các biến cố sau cùng bằng ngôn ngữ của thi
ca, nhưng không nhất thiết có ý định báo trước chính các biến cố ấy. Một thí dụ
là trong Ê-xê-chi-ên Ê-xê-chi-ên 37:1-4 sử dụng ngôn ngữ đề cập sự sống lại của
kẻ chết, một biến cố mà chúng ta biết là sẽ xảy ra vào lúc “kết thúc” của thời
đại này; qua Ê-xê-chi-ên, Đức Chúa Trời đã tiên báo việc dân Y-sơ-ra-ên sẽ từ
cuộc lưu đày Ba-by-lôn hồi hương vào thế kỷ thứ sáu (cc.12-14). Như thế, một biến
cố mà đối với chúng ta đã là quá khứ rồi (như đã được mô tả trong E-xơ-ra Exo Er 1:1-2:68) đã được nói
tiên tri theo nghĩa bóng bằng ngôn ngữ lai thế, dường như đó là một biến cố của
ngày tận thế vậy.
2. Lời tiên tri
và ý nghĩa thứ hai
Một số chỗ trong
Tân Ước có những câu trích dẫn được bảo là từ Cựu Ước, nhưng dường như những
khúc sách ấy trong Cựu Ước không đề cập điều mà Tân Ước cho là Cựu Ước đề cập.
Nghĩa là những khúc sách như thế dường như vốn có ý nghĩa rõ ràng trong bối cảnh
nguyên thủy của chúng trong Cựu Ước, nhưng lại được một tác giả Tân Ước dùng với
ý nghĩa khác hẳn.
Chẳng hạn, hai
câu chuyện về cách thức Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên đã được cung cấp nước bằng
phép lạ là khiến nước từ các tảng đá chảy ra trong sa mạc, một lần tại
Rê-phi-đim (Xuất Ai-cập 17:1-7) và một lần tại Ca-đe (Dân số ký 20:1-13). Các câu chuyện
này có vẻ khá đơn giản và rất rõ ràng trong các bối cảnh nguyên thủy của chúng.
Nhưng trong ICo1Cr 10:4 dường như Phao-lô muốn đồng hóa từng trải
đó của dân Y-sơ-ra-ên với cuộc gặp gỡ với Đấng Christ. Ông nói: “(Họ) uống một
thứ uống thiêng liêng; vì họ uống nơi một hòn đá thiêng liêng theo mình, và đá ấy
tức là Đấng Christ.” Trong cả hai câu chuyện trong Cựu Ước, đã chẳng hề có ý muốn
nói bóng gió gì về một tảng đá có ý nghĩa gì khác hơn là một tảng đá. Phao-lô
đã ban cho tảng đá một ý nghĩa thứ hai, đồng hóa nó với “Đấng Christ.” Ý nghĩa
thứ hai này thường được gọi là sensus plenior (ý nghĩa đầy đủ hơn).
Nhờ suy nghĩ, ta có thể thấy là Phao-lô đã dùng suy luận loại suy. Thật ra, ông ngụ ý nói rằng: “Với họ, tảng đá ấy giống như Chúa Cứu Thế đối với chúng ta - Ngài là một nguồn nâng đỡ, tiếp trợ theo đúng như cách mà những điều thuộc linh nâng đỡ, chu cấp cho chúng ta vậy.” Ngôn ngữ của Phao-lô trong mấy câu 2-4 vốn đầy nghĩa bóng. Ông muốn người Cô-rinh-tô hiểu rằng từng trải của dân Y-sơ-ra-ên trong sa mạc có thể được hiểu như có nghĩa bóng, ám chỉ chính từng trải của họ với Chúa Cứu Thế, nhất là tại Bàn Tiệc Thánh.
Nhờ suy nghĩ, ta có thể thấy là Phao-lô đã dùng suy luận loại suy. Thật ra, ông ngụ ý nói rằng: “Với họ, tảng đá ấy giống như Chúa Cứu Thế đối với chúng ta - Ngài là một nguồn nâng đỡ, tiếp trợ theo đúng như cách mà những điều thuộc linh nâng đỡ, chu cấp cho chúng ta vậy.” Ngôn ngữ của Phao-lô trong mấy câu 2-4 vốn đầy nghĩa bóng. Ông muốn người Cô-rinh-tô hiểu rằng từng trải của dân Y-sơ-ra-ên trong sa mạc có thể được hiểu như có nghĩa bóng, ám chỉ chính từng trải của họ với Chúa Cứu Thế, nhất là tại Bàn Tiệc Thánh.
Ngày nay, chúng
ta là các độc giả hiện đại rất khó có thể tự mình nhận thấy những điểm giống
nhau này theo cách Phao-lô đã mô tả nó. Nếu Phao-lô không viết mấy lời trên
đây, chúng ta có thể đồng hóa đám mây và biển với phép báp-tem (c.2) hoặc tảng
đá với Chúa Cứu Thế (c.4) hay không? Nói khác đi, chúng ta có thể tự mình xác định
một sensus plenior hay ý nghĩa thứ hai nào đến một mức độ chắc chắn nào đó hay
không? Câu trả lời là không. Đức Thánh Linh đã cảm thúc Phao-lô để viết về một
mối liên hệ tương tự giữa dân Y-sơ-ra-ên trong sa mạc với sự sống trong Chúa Cứu
Thế mà chẳng cần phải theo các quy luật thông thường nào về bối cảnh , ý định ,
bút pháp và chữ nghĩa cả (xem mục Tiên Tri Là Người Tiên Báo Tương Lai ở phần
trên). Đức Thánh Linh đã hướng dẫn Phao-lô mô tả sự kiện dân Y-sơ-ra-ên đã nhận
được nước từ những tảng đá nhiều hơn một lần bằng thứ ngôn ngữ theo nghĩa bóng
và không bình thường là có một tảng đá đã “đi theo” họ. Nhiều chi tiết khác nữa
trong ngôn ngữ mô tả mà Phao-lô dùng trong 10:1-4 (những từ ngữ
không theo nghĩa đen như “tổ phụ chúng ta” trong câu 1 và “thứ ăn thiêng liêng”
và “thứ uống thiêng liêng” (cc 3-4) đều cũng rõ ràng là bất bình thường như thế.
Tuy nhiên, chúng
ta không phải là các trước giả được linh cảm để viết Kinh Thánh. Chúng ta không
được phép làm điều mà Phao-lô đã làm. Các mối liên hệ theo nghĩa bóng mà ông đã
được linh cảm để tìm ra giữa Cựu Ước và Tân Ước là đáng tin cậy. Nhưng chẳng thấy
có chỗ nào trong Kinh Thánh dạy chúng ta rằng: “Hãy đi và làm giống như thế.”
Cho nên nguyên tắc là: Sensus plenior (ý nghĩa đầy đủ hơn ) là một chức năng của
sự linh cảm , chứ không phải là của sự soi sáng . Cùng một Đức Thánh Linh đã
linh cảm một tác giả Cựu Ước viết ra một số từ ngữ hay khúc sách nào đó, có thể
linh cảm một tác giả Tân Ước bỏ qua việc tôn trọng bối cảnh, ý hướng, bút pháp
và chữ nghĩa thông thường để đồng nhất hóa số từ ngữ hoặc khúc sách đó để cho
nó có thêm một ý nghĩa thứ hai. Nhưng chúng ta không phải là những tác giả được
linh cảm. Chúng ta chỉ là các độc giả được soi sáng. Linh cảm là động cơ thúc đẩy
nguyên thủy để trước tác Kinh Thánh theo cách thức nào đó. Soi sáng là cái nhìn
thông tuệ để hiểu điều các tác giả Kinh Thánh đã viết. Chúng ta không thể viết
lại hay tái định nghĩa Kinh Thánh viện lẽ là mình đã được soi sáng. Chúng ta chỉ
có thể tin nhận được một sensus plenior đến một mức độ nào sau khi đã có sự kiện
xảy ra mà thôi. Một sự việc không thể được nhận diện quả quyết như là một
sensus plenior từ Cựu Ước do chúng ta tự quyền quyết định, trừ phi khi sự việc
đã được nhận diện là một sensus plenior trong Tân Ước.
Các sách nghiên
cứu Kinh Thánh, sách giải nghĩa, Thánh Kinh Đại Cương và các bản dịch Kinh
Thánh có những cột hướng dẫn tham cứu đều có xu hướng chỉ ra những khúc sách
tiên tri trong Cựu Ước có một ý nghĩa thứ hai trong Tân Ước. Một số thí dụ tiêu
biểu, nơi Tân Ước có thêm một ý nghĩa thứ hai là: Ma-thi-ơ 1:22-23 (Ê-xê-chi-ên 7:14) 2:15 (Ô-sê 11:1) 2:17-18 (Giê-rê-mi 31:15) Giăng 12:15 (Xa-cha-ri 9:9).
Chúng ta chỉ cần lấy một trong những trường hợp trên đây để minh họa cho hiện tượng về ý nghĩa thứ hai đã được gán cho một khúc sách tiên tri: Ma-thi-ơ 2:15. Trong Ô-sê 11:1 chúng ta đọc thấy: “Khi Y-sơ-ra-ên còn thơ ấu , ta yêu dấu nó (và ) ta đã gọi con trai ta ra khỏi Ai Cập .”
Chúng ta chỉ cần lấy một trong những trường hợp trên đây để minh họa cho hiện tượng về ý nghĩa thứ hai đã được gán cho một khúc sách tiên tri: Ma-thi-ơ 2:15. Trong Ô-sê 11:1 chúng ta đọc thấy: “Khi Y-sơ-ra-ên còn thơ ấu , ta yêu dấu nó (và ) ta đã gọi con trai ta ra khỏi Ai Cập .”
Trong sách Ô-sê,
bối cảnh là việc dân Y-sơ-ra-ên được cứu khỏi Ai Cập nhờ biến cố Xuất Ai Cập. Ý
định là muốn chứng minh thế nào Đức Chúa Trời đã yêu mến dân Y-sơ-ra-ên chẳng
khác gì yêu mến chính con trai của Ngài vậy. Văn phong là phép song đối đồng
nghĩa trong thi ca theo đó “con trai ta” được buộc chặt với dân Y-sơ-ra-ên.
Cách dùng chữ là theo nghĩa bóng: chẳng có gì để thắc mắc trong việc dân
Y-sơ-ra-ên đã được nhân cách hóa thành một “con trai” trong câu này. Ngôi thứ
hai trong Thượng Đế Ba Ngôi, là Chúa Cứu Thế đã không được đề cập bằng ý nghĩa
“rõ ràng” trong câu Kinh Thánh này.
Nếu chúng ta
không có câu Ma-thi-ơ 2:15 trong Kinh Thánh của mình, có lẽ chúng
ta sẽ không xem câu này trong sách Ô-sê như là một lời tiên tri chỉ Chúa Giê-xu
người Na-xa-rét. Nhưng Ma-thi-ơ vốn có điều mà chúng ta không có. Ông có được
uy quyền linh cảm từ cùng một Đức Thánh Linh đã cảm thúc Ô-sê viết ra Ô-sê 11:1. Cùng một Đức
Thánh Linh ấy đã cảm thúc ông quyết định rằng lời lẽ mà Ô-sê đã dùng có thể được
tái sử dụng trong một bối cảnh, ý định, bút pháp và kết hợp với một số lời lẽ
(từ ngữ, chữ nghĩa) khác đề cập Đấng Mết-si-a. Đức Thánh Linh đã “đặt” những lời,
những chữ chọn lọc đó trong sách Ô-sê để chúng có thể sẵn sàng được tái sử dụng
kết hợp với các biến cố trong cuộc đời của Chúa Giê-xu. Ma-thi-ơ đã không áp dụng
các từ ngữ này cho Chúa Giê-xu căn cứ vào một nguyên tắc hay một tiến trình giải
kinh hay giảng kinh tiêu biểu nào cả. Thay vào đó, ông chỉ lấy các từ ngữ ấy từ
bối cảnh nguyên thủy của chúng và “cho” chúng một ý nghĩa hoàn toàn mới mẻ. Ông
có thẩm quyền để làm việc ấy. Chúng ta chỉ có thể đọc và tán thưởng điều ông đã
làm. Tuy nhiên, chúng ta không thể tùy tiện làm công việc như vậy đối với bất kỳ
một khúc sách nào cả.
3. Tin và sống
Thông qua các sách tiên tri, Đức Chúa Trời kêu gọi dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa đời xưa giữ thế cân bằng giữa niềm tin đúng và hành động đúng. Dĩ nhiên đó cũng chính là sự quân bình mà Giao Ước đòi hỏi (Gia-cơ 1:27; 2:18; Ê-phê-sô 2:8-10). Điều Đức Chúa Trời muốn nơi dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa cũng là điều Ngài muốn nơi chúng ta. Các sách tiên tri có thể được dùng như những lời nhắc nhở của Đức Chúa Trời đối với chúng ta là phải quyết định thực hành giao ước của Ngài. Với những ai vâng giữ các điều kiện của Giao Ước Mới (yêu mến Đức Chúa Trời và yêu mến người lân cận mình) thì kết quả đời đời, cuối cùng sẽ là phước hạnh, mặc dầu có thể họ không nhận được chúng trong đời này. Đối với những kẻ không tuân giữ, thì hậu quả sẽ chỉ có thể là sự rủa sả, bất chấp những kẻ ấy có được sống sung sướng đến đâu trên đất này. Lời cảnh cáo trong Ma-la-chi 4:6 vẫn còn hiệu lực.
Thông qua các sách tiên tri, Đức Chúa Trời kêu gọi dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa đời xưa giữ thế cân bằng giữa niềm tin đúng và hành động đúng. Dĩ nhiên đó cũng chính là sự quân bình mà Giao Ước đòi hỏi (Gia-cơ 1:27; 2:18; Ê-phê-sô 2:8-10). Điều Đức Chúa Trời muốn nơi dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa cũng là điều Ngài muốn nơi chúng ta. Các sách tiên tri có thể được dùng như những lời nhắc nhở của Đức Chúa Trời đối với chúng ta là phải quyết định thực hành giao ước của Ngài. Với những ai vâng giữ các điều kiện của Giao Ước Mới (yêu mến Đức Chúa Trời và yêu mến người lân cận mình) thì kết quả đời đời, cuối cùng sẽ là phước hạnh, mặc dầu có thể họ không nhận được chúng trong đời này. Đối với những kẻ không tuân giữ, thì hậu quả sẽ chỉ có thể là sự rủa sả, bất chấp những kẻ ấy có được sống sung sướng đến đâu trên đất này. Lời cảnh cáo trong Ma-la-chi 4:6 vẫn còn hiệu lực.
II. CÁC BƯỚC CĂN
BẢN ĐỂ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu một
sách tiên tri có thể dường như là điều khó khăn. Thật không phải dễ đọc một
sách tiên tri thông suốt từ đầu đến cuối. Phần đông người đọc sách tiên tri thấy
rằng thật khó tìm ra bố cục rõ ràng. Chủ đề dường như thay đổi luôn. Ngôn ngữ
thường là thi ca và biểu tượng. Thời gian thay đổi từ quá khứ, đến hiện tại, đến
tương lai; đôi khi ngay trong cùng một đoạn. Những khải tượng, phần tường thuật
và phần tiên tri trộn lẫn nhau, không có một trình tự rõ ràng nào. Thường thật
khó tìm thấy một sự sắp đặt về niên đại.
Đó là một số
trong những khó khăn trong việc nghiên cứu một sách tiên tri. Nó có vẻ như thể
chúng ta đang đi vào một khu rừng hoang! Chúng ta tìm đường như thế nào?
Các bước căn bản trong việc nghiên cứu một sách tiên tri gồm:
Các bước căn bản trong việc nghiên cứu một sách tiên tri gồm:
1. Tìm những
thông tin (chỉ dẫn ) về niên đại và địa điểm : Những thông tin sơ khởi này thường
ở đầu sách. Tìm ra càng nhiều càng tốt về bối cảnh lịch sử (từ các sách Các
Vua, Sử Ký...)
2. Tìm những
thông tin về đời tư của các nhà tiên tri , sự kêu gọi và kinh nghiệm của họ về
Đức Chúa Trời : Những thông tin này có khi có ngay trong sách tiên tri. Nhưng
cũng có khi cần tham khảo trong các sách Các Vua, Sử ký...
3. Đọc lướt qua
cả sách : Tìm những chỉ dẫn khác về bối cảnh lịch sử, tình huống lúc đó và những
điểm nhấn mạnh chính của nhà tiên tri.
Bước này trong thực tế được lập đi lập lại nhiều lần, mỗi lần tìm những phương diện khác nhau. Mỗi lần đọc, bạn sẽ tìm thấy điều mới nào đó trong ánh sáng của những bước khác mà bạn thực hiện.
Bước này trong thực tế được lập đi lập lại nhiều lần, mỗi lần tìm những phương diện khác nhau. Mỗi lần đọc, bạn sẽ tìm thấy điều mới nào đó trong ánh sáng của những bước khác mà bạn thực hiện.
4. Tìm những chỉ
dẫn về kết cấu của sách : Những chỉ dẫn này không phải luôn luôn dễ tìm. Có khi
những lời tiên tri được sắp xếp theo thứ tự niên đại (Ê-xê-chi-ên). Có khi sẽ
có một nhóm những lời tiên tri nhắc lại với các nước ngoại bang (ví dụ Giê-rê-mi 46:51). Có khi có một
tường thuật lịch sử (như Ê-sai 36:1-39:8). Có khi có một loạt những khải
tượng (như A-mốt 7:1-9:15; Xa-cha-ri 1:1-6:15), có khi không
có những chỉ dẫn rõ ràng , nhưng sự nghiên cứu cẩn thận có thể tìm ra một đề
tài căn bản.
Việc nghiên cứu
kết cấu giúp cho chúng ta thấy một bức tranh tổng quát về sách và các phần của
nó, khiến dễ nắm và dễ nhớ hơn, dồng thời cũng giúp chúng ta thấy những điểm nhấn
mạnh chính của nhà tiên tri - những gì ông bao hàm, những gì ông bỏ qua, cách
ông sắp xếp nó - cũng giúp chúng ta nắm được những điểm chính của sứ điệp của
ông ta.
5. Tìm những chủ
đề quan trọng và những câu chìa khóa : Những chủ đề hiển nhiên sẽ xuất hiện
cách rõ ràng. Những chủ đề khác có thể cần được khám phá bằng sự quan sát kỹ
hơn. Có thể câu nhất định nào đó sẽ nổi bật như những tóm lược của các chủ đề
này. Có thể được, cần thuộc lòng những câu chìa khóa để dễ ghi nhớ các chủ đề.
6. Tóm tắt của
chủ đề chính và sứ điệp của sách : Đến đây có thể tóm tắt sách một cách toàn thể.
Chỉ ra những chủ đề chính của nó và sứ điệp tổng quát của nhà tiên tri, trong bối
cảnh lịch sử của nó.
Sáu bước trên đây sẽ cho chúng ta nắm cách căn bản bất cứ sách tiên tri nào. Ngoài ra để nghiên cứu một sách tiên tri, chúng ta cũng cần thực hiện thêm những bước khác, chẳng hạn:
Sáu bước trên đây sẽ cho chúng ta nắm cách căn bản bất cứ sách tiên tri nào. Ngoài ra để nghiên cứu một sách tiên tri, chúng ta cũng cần thực hiện thêm những bước khác, chẳng hạn:
7. So sánh những
chủ đề chính và sứ điệp của sách với các tiên tri khác và các phần khác của
Kinh Thánh : Đây là việc làm sẽ đưa ra nhiều tia sáng cả sách mà chúng ta đang
nghiên cứu, lẫn các sách khác.
8. Nghiên cứu
chi tiết các phần , chương hoặc đoạn , đặc biệt của sách : Trong phần còn lại của
loạt bài này, chúng ta sẽ lược khảo các sách tiên tri trong Cựu Ước, theo Kinh
Điển Hy Bá và theo thứ tự lịch sử, nghĩa là theo niên đại. Chúng ta sẽ bắt đầu
với sách A-mốt, vì lời tiên tri của ông là sớm nhất trong các lời tiên tri
thành văn.
SÁCH TIÊN TRI
A-MỐT
I. NHÀ TIÊN TRI
VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ
A-mốt quê quán ở
Thê-cô-a, một thị trấn nhỏ, cách Giê-ru-sa-lem khoảng mười hai dặm về phía Nam.
Ông vốn không phải là nhà tiên tri hay con trai của một nhà tiên tri (A-mốt 7:14). Ông cũng
không phải là thầy tế lễ hay một người của trường các tiên tri. Ông vốn là người
chăn chiên và săn sóc những cây vả rừng. Chắc ông vốn có học thức, vì sách ông
viết chứng tỏ ông có văn tài. Có lẽ ông từng đi xa, đi nhiều để bán lông chiên.
Các địa điểm ông đề cập có lẽ là những nơi ông từng đặt chân đến.
Trong sách A-mốt,
chúng ta thấy một trong nhiều trường hợp trong Kinh Thánh, về việc Đức Chúa Trời
kêu gọi một người lúc người ấy đang bận rộn với công việc hằng ngày của mình (1:1) Đức Chúa Trời
đã kêu gọi A-mốt lúc ông đang cầm cây gậy chăn chiên trên tay, để sai ông đi ra
tập họp dân sự đang bị tan lạc của Ngài. Nên nhớ là Đa-vít đang chăn chiên và
Ghê-đê-ôn thì đang ở tại sân đạp lúa, khi được Đức Chúa Trời sai phái.
Tại miền cao
nguyên hoang vu xa hơn Thê-ca-a, A-mốt đã trực tiếp được Đức Chúa Trời huấn luyện
để trở thành nhà tiên tri. Tác phẩm thật đẹp của ông đầy dẫy những hình ảnh về
miền núi non quê nhà của ông. Cũng như Đa-vít, ông từng chiêm ngưỡng các vì sao
và nhìn xa hơn nữa để trông thấy Đấng đã tạo ra chúng. Ông không phải là người ở
tại triều đình như Ê-sai, cũng không phải một thầy tế lễ như Giê-rê-mi, mà chỉ
là một công nhân tầm thường. Tuy được sinh trưởng trong xứ Giu-đa, ông lại nói
tiên tri tại xứ Y-sơ-ra-ên và về người Y-sơ-ra-ên.
A-mốt không phải
là nhà tiên tri duy nhất thời mình. Đức Chúa Trời đã phái rất đông đảo các sứ
giả đến để cứu dân Ngài khỏi sự hủy diệt họ phải đương đầu, không tránh né vào
đâu được. Thuở thiếu thời, chắc ông từng biết Giô-na, và có lẽ cả Ê-li nữa.
Ô-sê là bạn đồng công với ông. Chắc hai người đã biết rõ nhau. Có lẽ họ cũng từng
cộng tác với nhau trong các chiến dịch truyền đạo. Lúc công tác của A-mốt sắp
chấm dứt, thì Ê-sai và Mi-chê xuất hiện. Lúc còn trẻ, hai nhân vật này chắc từng
được nghe A-mốt giảng đạo nhân một vòng đi truyền giáo của ông. Hai nhà tiên
tri trẻ tuổi ấy chắc đã lãnh hội được nhiều điều từ con người vô địch đó của Đức
Giê-hô-va.
A-mốt nói tiên
tri lúc Ô-xia ngự trên ngôi Giu-đa và Giê-rô-bô-am II làm vua Y-sơ-ra-ên. Đó là
một thời kỳ thịnh vượng. Biên cương của vương quốc thời Đa-vít lại được thâu hồi.
Tiền bạc vào như nước, và quân đội chiến thắng khắp nơi. A-mốt và Ô-sê nói tiên
tri cho xứ Y-sơ-ra-ên (vương quốc miền Bắc), còn Ê-sai và Mi-chê hành chức tại
vương quốc Giu-đa ở miền Nam.
Dưới thời hai
nhà vua vừa kể trên, hai vương quốc đều đạt tới tột đỉnh thịnh vượng (II.Sử ký 26:1-23 và II.Các Vua 14:25). A-sy-ri vẫn
chưa dấy lên như một cường quốc đi chinh phục thế giới. Ý nghĩa về một số phận
khủng khiếp sắp xảy đến cho vương quốc họ là điều dường như hoàn toàn không thể
nào có được đối với người Y-sơ-ra-ên. Họ đang được vui hưởng thái bình. Các lân
quốc đều không đủ mạnh để gây rắc rối cho họ (A-mốt 6:1-13). Họ chỉ nghĩ đến
vui chơi và hưởng thụ (2:6-8; 5:11, 12; 6:4-6). Đức Chúa Trời
cố đánh thức dân Ngài để họ cảm biết cơ nguy sắp xảy đến, cho nên Ngài phái hai
chứng nhân đến, đó là Ô-sê và A-mốt.
A-mốt hết sức
kính sợ Đức Chúa Trời đến nỗi ông không còn sợ ai nữa cả. Một học giả hiện đại
khảo cứu về A-mốt, người chăn chiên ở Thê-cô-a đã tuyên bố: “A-mốt rao truyền một
thông điệp vượt trước thời đại ông rất xa đến nỗi hầu hết nhân loại và một số
đông người trong cả Cơ-đốc giáo vẫn chưa theo kịp ông.” Những lời lẽ táo bạo của
ông vốn có từ tám trăm năm trước Chúa chúng ta.
Nhưng sự can đảm
ấy vẫn không được cả dân Y-sơ-ra-ên thời đó, lẫn người của thời đại chúng ta
ngày nay chú ý. Lẽ dĩ nhiên là bạn sẽ nhận thấy trong số các tội ác mà A-mốt tố
cáo, có một vài tội cũng giống y như các tội ác đang lộng hành ngày nay. Ở đây,
bạn nghe giọng ông cất lên chống lại sự vô độ, theo một ý nghĩa rộng rãi hơn việc
chỉ uống rượu quá chén rất nhiều. Nếu ông phải nói tiên tri trước nhất là cho
thời đại này của chúng ta, giọng ông chắc phải cất lên như sấm sét để chống lại
sự lạm dụng các việc làm cứ ngày càng tăng thêm trong sự vô độ chưa từng thấy,
cũng chưa ai có thể tưởng tượng nổi, mà nếu nếp sống xa họa của người
Y-sơ-ra-ên đã đẩy họ vào. Nhưng lời lẽ của A-mốt đã vạch trần nguyên nhân thầm
kín của tất cả những tội lỗi ấy: đó là vì các con cái Y-sơ-ra-ên đã từ bỏ luật
pháp của Đức Giê-hô-va, và không tuân giữ các giới mạng Ngài. Một khi chúng ta
học tập tuân giữ luật pháp của Đức Chúa Trời, thì đồng thời, chúng ta cũng tôn
trọng luật pháp của quốc gia mình nữa. Bí quyết để giữ trọn luật pháp của Đức Chúa
Trời là tình yêu thương.
Qua sách A-mốt,
chúng ta thấy A-mốt là người khiêm nhu - Ông không hề giấu diếm gì về gia tư của
mình; A-mốt là người khôn ngoan - Ông không giảng “trên đầu” dân chúng; A-mốt
là người khéo léo - Ông được dân chúng chú ý bằng cách kết án các kẻ thù của họ
trước; A-mốt là người bất khuất - Ông không nói cho êm tai người ta, mà dám nói
sự thật; A-mốt là người tận trung - Thông điệp của ông là “Đức Giê-hô-va phán.”
Chàng mục tử trẻ
tuổi, chất phác A-mốt rất thành thật thẳng thắn về chính mình, khiến người nghe
ông cảm thấy hết sức thoải mái. Ông luôn luôn dùng vai mình để húc thẳng (A-mốt 1:2). Ông đã không
khiếm khuyết cả trong việc nói thẳng với chính Giê-rô-bô-am II những điều vua ấy
phải làm. Đức Chúa Trời cần một người can đảm truyền rao thông điệp của Ngài,
và A-mốt đã không phụ lòng Ngài. Dân Y-sơ-ra-ên cần có một nhà tiên tri dám đập
tan những miếng vảy cá trong mắt họ, để cho họ biết các hậu quả chắc chắn cho
việc họ thờ thần tượng mà ra, và A-mốt đã vạch trần cả hai điều ấy mà không hề
sợ hãi: Đức Chúa Trời ghê tởm tội lỗi. Tội lỗi phải bị trừng phạt. Người phạm tội
“phải đau khổ”
Giê-rô-bô-am đã
đưa dân Y-sơ-ra-ên lên đến tột đỉnh quyền thế. Vương quốc được cường thịnh và
hoà bình với các kẻ thù. A-mốt biết rằng nếu ông rao truyền bức thông điệp của
Đức Chúa Trời, ông sẽ trở thành người thất nhân tâm nhất, và thiên hạ sẽ bảo
ông là kẻ réo gọi cho tai họa giáng xuống.
Khi đối diện với
Gô-li-át, chắc Đa-vít cũng không can đảm hơn A-mốt lúc ông đứng trước mặt
Giê-rô-bô-am, kẻ thờ hình tượng, “người khiến cho Y-sơ-ra-ên phạm tội.” Hãy lắng
nghe ông trong một vài cách nói độc nhất vô nhị của ông. A-mốt đã nói tiên tri
rằng: “Kẻ giương cung sẽ chẳng đứng vững được” (2:15;). Các cung thủ thiện chiến
của Giê-rô-bô-am vốn có thói quen áp sát kẻ thù. Họ chẳng bao giờ lùi bước. Thật
dại dột biết bao khi bảo rằng các cung thủ bách phát bách trúng của Y-sơ-ra-ên
không đứng vững được dù là nơi nào, lúc nào! A-mốt nói tiếp: “Kẻ có chân lẹ
làng sẽ chẳng lánh khỏi được” sao? Bảo rằng những kẻ chạy bộ nhanh nhẹn trong
dân Y-sơ-ra-ên lại dùng tốc độ của họ để chạy trốn khỏi bãi chiến trường chăng?
Phải chăng nhà tiên tri hỗn láo ấy đã điên rồi? Vị sứ giả lại thét lên như sấm
“Người cỡi ngựa sẽ không thế cứu mình” Trên toàn thế giới, chẳng hề có những kỵ
sĩ nào giống như đoàn kỵ binh bất khả chiến bại của Giê-rô-bô-am.
Lời lẽ của A-mốt
đạt đến tuyệt đỉnh trong câu này: “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Như kẻ chăn
chiên chỉ gỡ được hai giò hay một tai ra khỏi họng sư tử, thì những con cái
Y-sơ-ra-ên, là những kẻ ngồi tại Sa-ma-ri nơi góc giường và trên thảm của
Đa-mách, cũng sẽ được cứu cách như vậy” (3:12). Câu nói nghe
như một lời chế giễu. Một quốc gia Y-sơ-ra-ên hùng cường, mà lại bị ví với một
con chiên khốn nạn - hay đúng hơn là những mảnh vụn của một con chiên khốn nạn
bị sư tử ăn thịt.
Thế nhưng đó quả
là chuyện đã xảy ra. Trong vòng không đầy năm mươi năm, xứ Y-sơ-ra-ên hoàn toàn
bị tiêu diệt, và số người còn sống sót đáng thương không được cả cái tình trạng
như chiếc giò con chiên được kéo ra khỏi hàm kẻ cắn xé. Đó là bức tranh về sự
ghê tởm tội lỗi của Đức Chúa Trời.
Trả lời cho tất
cả các câu hỏi tại sao các đại đế quốc đều sụp đổ, lời đáp lại luôn luôn là tội.
Nguyên nhân bí mật khiến một vĩ nhân thảm bại là tội. Mong rằng A-mốt có thể
giúp bạn thấy rõ tội lỗi trong ánh sáng đích thực của nó.
Nếu một chiếc tàu chạy ngoài biển mà đi sai đường, sẽ có gì xảy ra? Phải, sẽ có một rắc rối nào đó, mà kết cuộc sẽ là một vụ đắm tàu nhưng một thuyền trưởng cố ý thực hiện một chuyến đi sai thì thế nào? Chắc tâm trí ông ta phải có điều gì bất ổn. Cho nên chẳng có gì để ngạc nhiên khi có những nhà tiên tri như A-mốt truyền rao lời cảnh cáo rõ ràng cho dân chúng về con đường sai lạc của tội lỗi.
Nếu một chiếc tàu chạy ngoài biển mà đi sai đường, sẽ có gì xảy ra? Phải, sẽ có một rắc rối nào đó, mà kết cuộc sẽ là một vụ đắm tàu nhưng một thuyền trưởng cố ý thực hiện một chuyến đi sai thì thế nào? Chắc tâm trí ông ta phải có điều gì bất ổn. Cho nên chẳng có gì để ngạc nhiên khi có những nhà tiên tri như A-mốt truyền rao lời cảnh cáo rõ ràng cho dân chúng về con đường sai lạc của tội lỗi.
II. SỨ ĐIỆP TIÊN
TRI A-MỐT
A. RAO TRUYỀN SỰ
PHÁN XÉT CÁC NƯỚC (A-mốt 1-2)
Người truyền đạo
nhà quê chất phác ấy đã bỏ nhà tại xứ Giu-đa, đi ba mươi sáu cây số đến Bê-tên
thuộc vương quốc miền Bắc, để giảng dạy cho vương quốc Y-sơ-ra-ên. Tại sao Đức
Chúa Trời lại sai ông đến Bê-tên? Chắc chắn là Giê-ru-sa-lem cũng cần đến chức
vụ của ông. Nhưng Đức Chúa Trời muốn cho người Y-sơ-ra-ên phải được nghe một lời
cảnh cáo mạnh mẽ. Bê-tên là kinh đô tôn giáo của vương quốc miền Bắc. Tại đó,
người ta thờ hình tượng. Họ đã thờ lạy con bò vàng thay vì Đức Giê-hô-va. Dân
chúng cảm thấy không cần phải được nghe giảng dạy (I.Các Vua 12:25-33).
A-mốt bắt đầu giảng
dạy cho các đám đông đang tụ tập tại Bê-tên, vì hôm ấy là ngày thánh lễ, bằng
cách rao ra sự phán xét của Đức Giê-hô-va đối với sáu lân quốc: Đa-mách
(Sy-ri), Ga-xa, Ty-rơ, Ê-đôn, Am-môn, và Mô-áp. Rồi ông lui gần lại để công bố
sự phán xét chống lại Giu-đa (A-mốt 2:4) và chống lại
chính xứ Y-sơ-ra-ên (2:6), rồi cuối cùng là chống lại toàn dân (3:12). Cách nhập đề
của A-mốt thật khôn khéo. Chúng ta luôn luôn muốn nghe về số phận không may của
kẻ thù mình. Riêng về số phận của chính mình, thì thật là khó chấp nhận, nhưng
chúng ta vẫn bị bắt buộc phải chấp nhận.
Khi dân chúng
nghi ngờ uy quyền của ông. A-mốt nêu ra một loạt, một loạt bảy câu hỏi để chứng
tỏ Đức Giê-hô-va đã tiết lộ điều bí mật của Ngài cho ông. Do đó, ông phải nói
tiên tri (3:3-8).
A-mốt tố cáo tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên rõ ràng hơn là Ô-sê (2:1-16). Ông nói về nếp
sống dễ dãi và vô tâm, về sự xa hoa của họ, việc họ áp bức kẻ nghèo, họ nói dối,
lường gạt, và tệ hại hơn hết là sự giả hình của họ trong việc thờ phượng. Đức
Giê-hô-va buồn lòng vì dân Ngài không chịu chú ý đến những lời cảnh cáo của
Ngài “Dầu vậy, các ngươi không chịu trở lại cùng ta” (4:6). Sau đó là lời
mời: “Hãy tìm kiếm ta, thì các ngươi sẽ sống” (5:4).
Sách A-mốt được
bắt đầu bằng lời phán xét các lân quốc của Y-sơ-ra-ên.
Đa-mách bị ngăm dọa vì nó đã xâm lăng Y-sơ-ra-ên (1:3; II.Các Vua 10:32, 33).
Ga-xa và Ty-rơ bị phán xét vì đã liên minh với Ê-đôm trong việc xứ ấy xâm lấn Giu-đa (A-mốt 1:6, 9; II.Sử ký 21:16,17; 28:18).
Ê-đôm bị phán xét vì cứ tiếp tục thù nghịch (A-mốt 1:11, đối chiếu với Áp-đia 1:10-12).
Am-môn bị phán xét vì tấn công Ga-la-át (A-mốt 1:13).
Mô-áp bị phán xét vì cớ những việc làm theo ngoại đạo (2:1, II.Các Vua 3:27).
Giu-đa bị phán xét vì khinh thường luật pháp của Đức Chúa Trời (A-mốt 2:4; II.Sử ký 3:19; II.Các Vua 25:9).
Y-sơ-ra-ên bị phán xét vì sự bất nghĩa (A-mốt 2:6; II.Các Vua 17:17-23).
Đa-mách bị ngăm dọa vì nó đã xâm lăng Y-sơ-ra-ên (1:3; II.Các Vua 10:32, 33).
Ga-xa và Ty-rơ bị phán xét vì đã liên minh với Ê-đôm trong việc xứ ấy xâm lấn Giu-đa (A-mốt 1:6, 9; II.Sử ký 21:16,17; 28:18).
Ê-đôm bị phán xét vì cứ tiếp tục thù nghịch (A-mốt 1:11, đối chiếu với Áp-đia 1:10-12).
Am-môn bị phán xét vì tấn công Ga-la-át (A-mốt 1:13).
Mô-áp bị phán xét vì cớ những việc làm theo ngoại đạo (2:1, II.Các Vua 3:27).
Giu-đa bị phán xét vì khinh thường luật pháp của Đức Chúa Trời (A-mốt 2:4; II.Sử ký 3:19; II.Các Vua 25:9).
Y-sơ-ra-ên bị phán xét vì sự bất nghĩa (A-mốt 2:6; II.Các Vua 17:17-23).
Các quốc gia
trên thế giới, dầu có hùng cường đến mức nào đi nữa, vẫn không thể thoát khỏi sự
phán xét của Đức Chúa Trời. Chính Ngài dấy các vương quốc lên và hạ xuống. Quyền
thế lẫy lừng của các Pha-ra-ôn đã biến thành hư vô. Nã-phá-luân tưởng mình sẽ
thống trị thế giới, nhưng lại bị cầm tù, trên đảo Saint Helana. Vị hoàng đế thiết
lập đế quốc La-mã tưởng mình có thể hành động bất chấp Đức Chúa Trời, nhưng chẳng
bao lâu đã bị triệt hạ. Trong trận Thế Chiến II, nhiều kẻ cầm quyền tưởng họ có
thể tận diệt được tuyển dân của Đức Chúa Trời để thống trị cả thế giới, nhưng
những kẻ ngăn trở kế hoạch tối hậu của Đức Chúa Trời bao giờ cũng bị hạ xuống. Thi thiên 2:1-12.
B. SỰ PHÁN XÉT
Y-SƠ-RA-ÊN (A-mốt 3-6)
A-mốt được kêu gọi
để nói về một sự trừng phạt nào đó (A-mốt 3:1-15). Nếu loài người
cứ chối bỏ lời cảnh cáo vẫn được nhắc đi nhắc lại của Đức Chúa Trời, họ sẽ bị
hình phạt (5:1-27). A-mốt bảo người Y-sơ-ra-ên là tham lam, bất
nghĩa, ô uế và phàm tục (2:6-12), và họ viện lẽ mình là tuyển dân của Đức
Chúa Trời để tự bào chữa (3:2). Ông nhắc nhở họ rằng điều đó càng khiến
họ nặng tội thêm. Người Y-sơ-ra-ên thấy mối liên hệ giữa họ với Đức Chúa Trời một
cách khác hẳn. Họ cho đó chỉ là một việc có tính cách hình thức bề ngoài. Họ
khoe khoang họ là tuyển dân nên sẽ chẳng có điều tai họa nào thật sự giáng trên
họ được. Chúng ta thấy nhiều kẻ tự xưng là Cơ-đốc nhân ngày nay cũng sa vào
cùng một trường hợp nguy hiểm đó. Họ tưởng cứ làm thuộc viên tín đồ của một chi
hội là được cứu rỗi. Họ tưởng Đức Chúa Trời đang ban đặc ân cho họ, thì Ngài
không thể nào kết tội họ (5:21, 23, 24).
Thoạt tiên, Đức Chúa Trời trừng phạt các tội lỗi của sáu nước láng giềng của Y-sơ-ra-ên. Rồi nhà tiên tri chuyển sang Giu-đa và Y-sơ-ra-ên. Tội của Giu-đa là chống lại luật pháp của Đức Chúa Trời, biểu lộ bằng việc thờ hình tượng. Chỉ đến thời gian bị lưu đày, người Do Thái mới hoàn toàn thoát khỏi tội đó. Sự trừng phạt xứ Giu-đa được ứng nghiệm khi Nê-bu-cát-nết-sa phá hủy thành Giê-ru-sa-lem (2:5).
Thoạt tiên, Đức Chúa Trời trừng phạt các tội lỗi của sáu nước láng giềng của Y-sơ-ra-ên. Rồi nhà tiên tri chuyển sang Giu-đa và Y-sơ-ra-ên. Tội của Giu-đa là chống lại luật pháp của Đức Chúa Trời, biểu lộ bằng việc thờ hình tượng. Chỉ đến thời gian bị lưu đày, người Do Thái mới hoàn toàn thoát khỏi tội đó. Sự trừng phạt xứ Giu-đa được ứng nghiệm khi Nê-bu-cát-nết-sa phá hủy thành Giê-ru-sa-lem (2:5).
A-mốt cũng kết
án Y-sơ-ra-ên. Y-sơ-ra-ên là một tuyển dân. Họ biết luật pháp của Đức Chúa Trời.
Do đó, tội họ cũng nặng hơn. A-mốt vạch rõ việc họ thi hành luật pháp một cách
bất công. Họ “bán người công nghĩa để lấy bạc.” Ông kể ra cách áp bức gian ác của
họ. Họ đã quên mất sự công nghĩa. Kẻ giàu thì tàn ác, và muốn thấy người nghèo
bị áp bức. Ngay giữa vòng các Cơ-đốc nhân ngày nay, người ta vẫn coi trọng tiền
bạc hơn tính tình. Trong Hội Thánh, không có gì nguy hiểm hơn là trao quyền
hành, thế lực cho những người có của cải mà không phải là những Cơ-đốc nhân thận
trọng, chăm lo việc Chúa.
A-mốt gọi phụ nữ
thời ông là “bò cái của Ba-san”, vì họ chỉ lo sống xa hoa, vui chơi mà thôi. (4:1). Đó là bức
tranh nhà tiên tri dùng mô tả những người đàn bà tàn ác, vô tâm, không biết suy
nghĩ. Ông ví họ với những con bò cái nặng nề, lì lợm, sẵn sàng giày đạp lên tất
cả những gì dưới chân để tìm cái ăn cho no bụng.
Cả đến các của lễ
và lễ lạc có tính cách tôn giáo của dân chúng cũng trở thành điều đáng ghê tởm.
Đức Chúa Trời phán: “Ta ghét những kỳ lễ của các ngươi” (5:21). Khi hành
hương từ Ghinh-ganh đến Bê-tên, họ chỉ gây thêm tội lỗi mà thôi, bởi vì đó chỉ
là hình thức bề ngoài, pha lẫn với việc thờ hình tượng (5:4-6). Đức Chúa Trời
đòi hỏi cách ăn nết ở xứng đáng với chính Ngài, chớ không phải là các của lễ rỗng
tuếch, vô nghĩa. A-mốt kêu gọi họ hãy chú ý đến việc Đức Chúa Trời đã gây ra nắng
hạn, tai họa, và động đất, nhưng họ vẫn không chịu ăn năn.
Phải, trước khi
trừng phạt, Đức Chúa Trời luôn luôn cảnh cáo, và mở một lối thoát. Ngài tố giác
tội lỗi, đồng thời, cũng đề nghị một phương thuốc chữa trị tội lỗi. Việc dân
Y-sơ-ra-ên cứ bỏ qua những lời cảnh cáo đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, đã
đưa họ đến chỗ phải nhận lấy sự đoán phạt của Đức Chúa Trời (5:1-27). Nếu dân
Y-sơ-ra-ên biết tìm cầu Đức Giê-hô-va, thì “Ngày của Đức Giê-hô-va” được đề cập
trong 5:20
chắc là không giáng trên họ. Nhưng họ đã không tìm cầu Ngài, nên vào ngày đó,
các chiến sĩ A-sy-ri đã đổ ập đến.
C. NHỮNG KHẢI TƯỢNG
1. Những khải tượng
về sự đoán phạt Y-sơ-ra-ên:
A-mốt nói về sự đoán phạt sắp giáng trên dân y-sơ-ra-ên trong năm khải tượng.
A-mốt nói về sự đoán phạt sắp giáng trên dân y-sơ-ra-ên trong năm khải tượng.
(1) Cào cào cắn
xé, 7:1-3
Trong khải tượng đầu tiên, nhà tiên tri thấy những cánh đồng xanh và “Nầy, Ngài (Đức Chúa Trời) làm nên những cào cào ... cắn nuốt cỏ” A-mốt cầu nguyện: “Gia-cốp há có thể đứng được sao?” (nghĩa là: Ai sẽ giải thoát cho Y-sơ-ra-ên?). Đức Chúa Trời đáp: “Điều đó (nạn đói) sẽ không xảy ra đâu.”
Trong khải tượng đầu tiên, nhà tiên tri thấy những cánh đồng xanh và “Nầy, Ngài (Đức Chúa Trời) làm nên những cào cào ... cắn nuốt cỏ” A-mốt cầu nguyện: “Gia-cốp há có thể đứng được sao?” (nghĩa là: Ai sẽ giải thoát cho Y-sơ-ra-ên?). Đức Chúa Trời đáp: “Điều đó (nạn đói) sẽ không xảy ra đâu.”
(2) Lửa thiêu nuốt,
7:4-6
Trong khải tượng này, ông thấy một ngọn lửa khủng khiếp đến nỗi hút cạn cả nước và hầu như thiêu hủy cả đất nữa. A-mốt cầu nguyện “Gia-cốp há có thể đứng được sao?) Đức Chúa Trời đáp: “Điều đó (lửa) cũng sẽ không xảy đến”.
Trong khải tượng này, ông thấy một ngọn lửa khủng khiếp đến nỗi hút cạn cả nước và hầu như thiêu hủy cả đất nữa. A-mốt cầu nguyện “Gia-cốp há có thể đứng được sao?) Đức Chúa Trời đáp: “Điều đó (lửa) cũng sẽ không xảy đến”.
(3) Dây chuẩn mực,
7:7-11
Trong khải tượng nầy, A-mốt thấy Đức Chúa Trời đo thành phố để phá hủy đi. Việc đo đạc đó cho thấy dân Y-sơ-ra-ên đã bị sai lệch quá xa như thế nào. Lần này, A-mốt không còn lòng dạ nào để cầu nguyện nữa. Dân Y-sơ-ra-ên chắc chắn phải bị đoán phạt: “Ta sẽ không còn đi qua nó nữa”.
Trong khải tượng nầy, A-mốt thấy Đức Chúa Trời đo thành phố để phá hủy đi. Việc đo đạc đó cho thấy dân Y-sơ-ra-ên đã bị sai lệch quá xa như thế nào. Lần này, A-mốt không còn lòng dạ nào để cầu nguyện nữa. Dân Y-sơ-ra-ên chắc chắn phải bị đoán phạt: “Ta sẽ không còn đi qua nó nữa”.
(4) Giỏ trái cây
mùa hạ, 8:1-14
“Trái cây mùa hạ” trong khải tượng thứ tư ám chỉ những vật “chẳng bao lâu sẽ bị hư thối”. Giỏ trái cây phơi bày sự thật đáng buồn là dân Y-sơ-ra-ên cũng như một giỏ trái cây chín quá độ, bề ngoài trông rất đẹp đẽ nhưng bên trong đã bị hư thối. Dân tộc phạm tội đã “chín muồi” cho sự đoán phạt.
“Trái cây mùa hạ” trong khải tượng thứ tư ám chỉ những vật “chẳng bao lâu sẽ bị hư thối”. Giỏ trái cây phơi bày sự thật đáng buồn là dân Y-sơ-ra-ên cũng như một giỏ trái cây chín quá độ, bề ngoài trông rất đẹp đẽ nhưng bên trong đã bị hư thối. Dân tộc phạm tội đã “chín muồi” cho sự đoán phạt.
(5) Chúa đứng gần
bàn thờ, 9:1-10
Khải tượng cuối cùng cho thấy Đức Chúa Trời đứng bên bàn thờ, dạy A-mốt đập nát các ngạch cửa rồi rải các mảnh vụn trên đầu dân chúng. Toàn thể số người đang thờ phượng sẽ bị tan lạc, và bị giết bằng gươm. Việc này ám chỉ sự tan lạc cuối cùng. Các khải tượng kết thúc bằng sự đoán phạt nhưng Đức Chúa Trời chấm dứt quyển sách bằng một viễn tượng tươi sáng.
Khải tượng cuối cùng cho thấy Đức Chúa Trời đứng bên bàn thờ, dạy A-mốt đập nát các ngạch cửa rồi rải các mảnh vụn trên đầu dân chúng. Toàn thể số người đang thờ phượng sẽ bị tan lạc, và bị giết bằng gươm. Việc này ám chỉ sự tan lạc cuối cùng. Các khải tượng kết thúc bằng sự đoán phạt nhưng Đức Chúa Trời chấm dứt quyển sách bằng một viễn tượng tươi sáng.
2. Các khải tượng
liên quan đến tương lai: (7:1-9:15).
Chúng ta không biết A-mốt đã giảng tại Bê-tên bao lâu, nhưng biết rằng đã có rất đông người được nghe thông điệp bất khuất của ông. Khi ông nói về số phận các lân quốc, họ đã đổ xô đến với ông và lắng nghe từng lời nói của ông từ đầu chí cuối.
Chúng ta không biết A-mốt đã giảng tại Bê-tên bao lâu, nhưng biết rằng đã có rất đông người được nghe thông điệp bất khuất của ông. Khi ông nói về số phận các lân quốc, họ đã đổ xô đến với ông và lắng nghe từng lời nói của ông từ đầu chí cuối.
Sau đó, A-ma-xia
là thầy tế lễ của Bê-tên không còn chịu nỗi lời truyền giảng của A-mốt nữa. Cho
nên ông ta cậy vào sức hậu thuẫn của nhà vua để khiển trách A-mốt. Hãy nghe bản
phúc trình của A-ma-xia cho vua: “A-mốt lập nghịch cùng vua, ở giữa nhà
Y-sơ-ra-ên; đất chẳng chịu nổi mọi lời của nó. Thật vậy, nầy, A-mốt nói rằng:
Giê-rô-bô-am sẽ chết” (7:10-11). A-ma-xia bảo A-mốt hãy trở về quê
quán mà lo chuyện riêng của ông.
A-mốt đã bị nhà
tiên tri giả ấy bịt miệng. Ông bị đuổi khỏi xứ Y-sơ-ra-ên. Nhà tiên tri của Đức
Chúa Trời đã không được dành cho quyền tự do ngôn luận. Cả Ê-li lẫn A-mốt đều
không được yên thân tại xứ Y-sơ-ra-ên. Khi A-mốt nhận thấy người Y-sơ-ra-ên
không chịu nghe mình, thì trở về Giu-đa, viết lại mọi điều ông đã nói thành
sách, để toàn dân có thể đọc và hiểu.
Cũng như phần
đông các nhà tiên tri, A-mốt cho chúng ta biết về một tương lai sáng lạn cho
tuyển dân của Đức Chúa Trời. Một lần nữa, toàn xứ sẽ trở thành một vương quốc
dưới quyền cai trị của nhà Đa-vít (9:11, 12). Đền tạm của
Đa-vít - lúc ấy đã bị triệt hạ và xé nát - sẽ được dựng lại (Công vụ 15:16, 17). Dân
Y-sơ-ra-ên sẽ được phục hồi địa vị, được đưa trở về xứ họ, và được hưng vượng.
Một dân tộc hạnh phúc sẽ ở trong một xứ phước hạnh.
Nên nhớ luôn rằng
người Do Thái tan lạc khắp thế giới, đang trở về tập họp nhau lại tại Đất hứa.
Quốc gia ấy sẽ lại cường thịnh. Giê-ru-sa-lem sẽ trở thành kinh đô của một
vương quốc hùng cường. Những người Y-sơ-ra-ên ăn năn tin Chúa sẽ là chứng nhân
của Đức Chúa Trời (A-mốt 9:13-15).
Khi tội lỗi gia
tăng, thì loài người cần được đối xử theo cách A-mốt đã nói. Chúng ta vốn quá mềm
yếu, quá dễ dãi với các tội lỗi thông thường của thiên hạ. Chúng ta quên mất
phương pháp tố giác. Chúng ta đánh mất năng lực của sự bất mãn cách công nghĩa.
Với A-mốt thì không như vậy. Ông là một nhà tiên tri cầm dây chuẩn mực trên
tay. Bức tường cong vạy bao giờ cũng oán ghét đường thẳng. Cho nên người ta đã
ghét A-mốt. Cho nên thiên hạ vẫn ghét chúng ta, nếu chúng ta nói toạc ra. Tuy
nhiên hãy luyện tập để dám nói, dầu phải trả bất cứ giá nào. Đến đây, xin chúng
ta hãy nhớ lại con người với ngọn roi bện bằng dây, đang dẹp sạch đền thờ (Giăng 2:13).
Ăn năn không phải
chỉ là dễ dàng hay thản nhiên đến với Đức Chúa Trời và nói rằng: “Tôi rất tiếc.”
Phải là sự ăn năn thành thật hơn hết mới có thể cất được tội lỗi đi. Sự cứu chuộc
rất đắt giá. Đấng Christ đã trả giá ấy. Sự cứu rỗi là việc đích thân thiết lập
mối liên hệ giữa cá nhân ấy với Đức Chúa Trời. Không gì có thể thay thế việc ấy
được (Xem 1:12).
SÁCH TIÊN TRI
Ô-SÊ
I. NHÀ TIÊN TRI
VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Đồng thời với
A-mốt, tiên tri Ô-sê cũng nói tiên tri cho vương quốc phía Bắc, gọi là
“Y-sơ-ra-ên.” Ông nói tiên tri trong đời trị vì của Giê-rô-bô-am II, vua
Y-sơ-ra-ên. Ông sống tại vương quốc miền Bắc đó, khi những nét huy hoàng của thời
trị vì kéo dài suốt bốn mươi mốt năm của Giê-rô-bô-am bắt đầu phai tàn để rơi
vào bóng tối lúc nửa đêm của cuộc lưu đày. Ông hành chức vụ vào thế kỷ thứ 8
trước Thiên Chúa. Đây là một giai đoạn sôi động của lịch sử thế giới. La-mã và
Carthage đều được thành lập trong giai đoạn này. Tàu bè của người Phê-ni-xi đi
về phía Tây chỉ đến hải cảng cuối cùng là Ta-rê-si, một thuộc địa của Phê-nê-xi
ở phía Nam Tây-Ban-Nha. Nhưng vào thời của Ô-sê, các tàu ấy còn chạy thêm lên
phía Bắc, đến tận các mỏ thiếc ở Cornwall.
Một sự kiện quan
trọng khác nữa là trong giai đoạn ấy, Đức Thích Ca đã thực hiện một công cuộc cải
cách tôn giáo tại Ấn-Độ, mà kết quả là sự ra đời của Phật giáo. Đây là một thời
kỳ sôi động và biến chuyển. Nó có nhiều điểm giống như thế kỷ thứ 16 sau Chúa Cứu
Thế vậy.
Chúng ta biết rất
ít về Ô-sê, ngoại trừ việc ông có một đời sống gia đình thật buồn thảm. Sách
Ô-sê mô tả ông là một con người tử tế, thành thật và giàu tình cảm. Bản chất
giàu tình cảm của ông khiến ông gắn bó với gia đình.
Đời tư cùng với
sự kêu gọi và kinh nghiệm về Đức Chúa Trời của nhà tiên tri được chép trong
chương 1 và 3. Hai chương này gồm cả ký truyện và tự truyện. Cuộc hôn nhân của
Ô-sê là bức tranh về mối tương quan của Y-sơ-ra-ên với Đức Chúa Trời. Ô-sê đã
không sắp xếp cuộc hôn nhân của ông với Gô-me, theo sáng kiến riêng của ông
nhưng do Đức Chúa Trời khởi xướng. Ý niệm về hôn nhân xuất hiện ở Ô-sê 2:16;.
Trong câu này, Đức Giê-hô-va nói cách dịu dàng với quốc gia Y-sơ-ra-ên, Ngài được
mô tả là chồng và Y-sơ-ra-ên là vợ. Điều này nhắc chúng ta nhớ đến giao ước của
Đức Chúa Trời với Y-sơ-ra-ên.
Lòng trung thành
keo sơn của Y-sơ-ra-ên đối với Đức Chúa Trời đã không kéo dài được lâu. Khi dân
Y-sơ-ra-ên vào Palestine, họ đã gặp các dân tộc thờ phượng Ba-anh. Một số đông
người Y-sơ-ra-ên bị lôi cuốn vào các hình thức thờ lạy và dâng hiến cho thần
này.
Tuy nhiên, còn
hơn khước từ sự thờ phượng Đức Giê-hô-va hoàn toàn, người Y-sơ-ra-ên đã cho
phép sự thờ phượng Đức Giê-hô-va và Ba-anh song hành, cho đến lúc cuối cùng sự
thờ phượng ngoại bang trở nên ưu thế hơn. Vì cớ sự ngoại tình thuộc linh của
Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời đã hình phạt quốc gia này. Các tên của con của Ô-sê
có ý nghĩa tiên tri về việc này. Trong lịch sử Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời đã
dùng các nhà tiên tri để cảnh cáo con dân Ngài.
Các nhân vật sống
đồng thời với Ô-sê là A-mốt, Ê-sai và Mi-chê. Ông đã được gọi là Giê-rê-mi của
vương quốc miền Bắc. Chắc bạn còn nhớ là Giê-rê-mi đã nói tiên tri cho xứ
Giu-đa. Trong sách Ô-sê, “Y-sơ-ra-ên” ám chỉ mười chi phái hợp thành vương quốc
miền Bắc; “Giu-đa” có nghĩa là hai chi phái Giu-đa với Bên-gia-min, hợp thành
vương quốc miền Nam. Ô-sê vốn không được huấn luyện tại trường các tiên tri, mà
chỉ là một người thường, được Đức Chúa Trời gọi để truyền giảng cho dân
Y-sơ-ra-ên một thông điệp rõ ràng, là Đức Chúa Trời yêu thương họ.
II Các Vua 15-17
là những trang sử chép về giai đoạn mà nhà tiên tri đã sống. Như chúng ta đã biết,
đó là một thời kỳ bất ổn định. Tội lỗi lan tràn. Hoàng kim thời đại của
Giê-rô-bô-am II qua rồi, và một áng mây đen đang vần vũ bên trên xứ Y-sơ-ra-ên.
Sau khi Giê-rô-bô-am băng, sáu vua đã nối nhau kế vị trong một thời gian ngắn.
Trong vòng hai mươi năm, bốn vị đã bị ám sát. Vào khoảng giữa giai đoạn Ô-sê
thi hành chức vụ, một phần lớn dân sự đã bị quân đội A-sy-ri bắt đi. Vào cuối đời
Ô-sê, vương quốc bị xóa khỏi bản đồ sau khi Sa-ma-ri thất thủ. Nhà tiên tri vẫn
còn sống để thấy các lời tiên tri của mình ứng nghiệm.
Ô-sê đã đề cập
nhiều lần hai nước lớn mà Đức Chúa Trời sẽ dùng trong sự phán xét Y-sơ-ra-ên,
là Ai-cập và A-sy-ri. Đây là hai "siêu cường." Trong nửa đầu thế kỷ
thứ 8 cả hai nước đều suy yếu. Nhưng độ trước sau năm 750 T.C. sức mạnh của
A-sy-ri bắt đầu dấy lên dưới sự trị vì của Vua Tiếc-lác Phi-lê-se. Nước này bắt
đầu bành trướng đế quốc. Trong nhiều năm tiếp theo sau cái chết của
Giê-rô-bô-am II (753 T.C.), các Vua Y-sơ-ra-ên đã thực hiện các nỗ lực thất vọng
hoàn toàn, hoặc với Ai-cập, hoặc với A-sy-ri, để tranh giành thắng lợi với nhau
(xem II.Các Vua 15:19, 29; 17:4). Giống như A-mốt,
Ô-sê vẽ một bức tranh đen tối về sự phán xét. Nhưng có một số điểm đáng chú ý
khác. Những điều này được liên kết với những gì chúng ta biết về câu chuyện đời
sống kỳ lạ của Ô-sê, mà đã có ảnh hưởng mạnh trên sứ điệp của ông.
II. NỘI DUNG VÀ
SỨ ĐIỆP TIÊN TRI Ô-SÊ
Cấu trúc của
sách Ô-sê thực ra khá đơn giản. Ba chương đầu có liên quan với những biến cố
trong đời sống của Ô-sê, đặc biệt là cuộc hôn nhân của ông. Trong khi suy gẫm
câu chuyện bất thường này, chúng ta thấy Ô-sê đã bị bao bọc một cách sâu xa, cảm
động trong cuộc hôn nhân đáng buồn của ông. Nó phản ánh mối tương quan của
Y-sơ-ra-ên với Đức Chúa Trời.
Các chương 4-14
chứa đựng một loạt các sứ điệp được đưa ra cho Y-sơ-ra-ên. Thật khó theo dõi bất
cứ một diễn tiến rõ ràng nào. Những chương đó là một loạt bùng nổ chống lại tội
lỗi của Y-sơ-ra-ên, mô tả phản ứng của Đức Chúa Trời và sự phán xét chắc chắn đến.
Hướng đến sự cuối cùng có những ám chỉ về sự ăn năn và phục hồi và hình ảnh tốt
đẹp sau cùng về sự tha thứ của Đức Chúa Trời (Ô-sê 14:1-9)
Người hùng của
sách nầy, nhà tiên tri Ô-sê là người tình cao thượng nhất trong số các tình
nhân của văn chương. Chúng ta thấy tình yêu của ông mạnh mẽ đến nỗi ngay cả các
hành động tệ bạc của một người vợ bất trung vẫn không dập tắt đi được. Xin đọc
Ô-sê 1:1
để biết một chút về tiểu sử của nhà tiên tri ấy. Chúng ta nghe những lời đầu
tiên mà chính Đức Chúa Trời phán với Ô-sê (1:2).
Điểm nhấn mạnh đặc
biệt của sứ điệp Ô-sê là "Tình yêu vững bền của Đức Chúa Trời ." Giao
ước là một thỏa hiệp tay đôi, bởi đó mỗi bên bảo chung lòng trung thành bền vững
(không thay đổi) đối với bên kia. Bên mạnh hơn bảo vệ bên yếu hơn khỏi những kẻ
thù, trong khi bên yếu hơn bảo đảm sự thần phục luôn luôn đối với bên mạnh hơn.
Khi dân Y-sơ-ra-ên đi vào Đất Hứa, Đức Giê-hô-va bày tỏ sự thành tín bền vững của
Ngài, chiến đấu cho họ. Đổi lại, lòng trung thành bền vững được đòi hỏi nơi dân
Y-sơ-ra-ên. Vì thế, mối tương quan giao ước có nghĩa là phẩm chất của lòng
trung thành bền vững phải được tỏ ra bởi cả hai phía.
Cựu Ước có một từ
liệu Hi-bá-lai được dùng để mô tả mối tương quan này "chesed." Từ
"chesed" xuất hiện ít nhất 6 lần trong sách Ô-sê và có vị thế quan trọng
trong sứ điệp của ông. Từ này có nghĩa là "lòng tốt trìu mến,"
"đức nhân ái," "sự thương xót" (2:19; 6:6 và 10:12). Từ
"chesed" (6:4; 12:7; 4:1) cũng có thể được
dịch là "tình yêu giao ước" đặt căn bản trên sự thỏa hiệp giữa hai
phía.
Ô-sê đã công bố
sứ điệp với niềm hy vọng mãnh liệt. Ông nhận thức rằng sự ngoại tình của Gô-me
đã không thể hủy diệt tình yêu của Ô-sê dành cho bà, cũng như sự thất tín của
Y-sơ-ra-ên không thể hủy diệt tình yêu vững bền của Đức Giê-hô-va dành cho họ.
A. MỘT CÂU CHUYỆN
TÌNH KỲ DỊ
Bắt đầu ngay ở
đoạn 1, chúng ta thấy một thanh niên cưới một thiếu nữ không xứng với mình.
Chàng thật lòng yêu nàng. Đức Chúa Trời phán dạy chàng làm một việc mà chính
chàng cũng lấy làm ghê tởm. Đó là việc gì? (1:2, 3). Thật là một thử thách gay go.
Nhưng cũng như trường hợp của Ê-sai, Ô-sê phải làm một dấu hiệu cho dân
Y-sơ-ra-ên.
Ô-sê được phán dạy
phải cưới một người vợ mà tính nết chẳng ra gì, nói trắng ra, là một gái giang
hồ, Đức Chúa Trời đã dùng điều đó làm một dấu hiệu chỉ cho dân sự Ngài thấy rằng
Ngài vẫn yêu họ bất chấp tội lỗi của họ. Mọi sự dường như rất kỳ dị đối với
chúng ta. Nhưng Đức Chúa Trời đang vẽ ra bức tranh về ân điển cứu chuộc của
Ngài. Ân điển là một ân huệ mà kẻ thụ lãnh chẳng có gì xứng đáng để tiếp lấy. Ở
đây, chúng ta thấy dân Y-sơ-ra-ên thật chẳng xứng đáng chút nào với tình yêu của
Đức Giê-hô-va, nhưng Ngài vẫn dốc đổ tình yêu ấy hết sức dồi dào trên họ. Đức
Chúa Trời không chọn người công nghĩa, mà chọn các tội nhân “Nhưng Đức Chúa Trời
tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì
Đấng Christ vì chúng ta chịu chết” (Rô-ma 5:8). Cách Đức Chúa
Trời đối xử với dân Y-sơ-ra-ên là bức tranh mô tả cách Ngài đối xử với chúng ta
ngày nay. “Nhưng sự ấy có nghĩa hình bóng, và họ đã lưu truyền để khuyên bảo
chúng ta kẻ ở gần cuối cùng các đời” (ICo1Cr 10:11).
Ô-sê vâng lời Đức
Chúa Trời và đi cưới Gô-me (Ô-sê 1:3). Tên ông bây giờ là tên của Gô-me. Nhà
cửa, danh tiếng, ân huệ của Đức Chúa Trời, các tiện nghi vật chất của ông bấy
giờ đều là của Gô-me. Ông đã cho nàng tất cả những gì mình có. Để đáp lại, tên
họ, danh tiếng của dòng dõi, tình yêu của Ô-sê, tất cả đều bị người đàn bà chẳng
ra gì đó lấy làm vật hi sinh đặt trên bàn thờ của sự sỉ nhục. Việc ấy thật giống
trường hợp Chúa Giê-xu chúng ta biết bao! Chẳng những Ngài chỉ đến với chúng ta
lúc chúng ta đang sống trong tội lỗi, mà Ngài còn chịu chết nhục nhã tại
Gô-gô-tha vì cớ chúng ta, để tất cả những gì Ngài có, đều có thể trở thành của
chúng ta (Tit Tt 2:14).
Gô-me bỏ nhà, bỏ
chồng trẻ tuổi của nàng là Ô-sê với hai đứa con trai và một đứa con gái mà ông
phải nuôi dưỡng, chăm sóc. Ngựa quen đường cũ, nàng lại sa vào vũng lầy tội lỗi
của thời đó, và cuối cùng bị đưa đi làm nô lệ. Nhưng trải qua mọi điều đó, Ô-sê
vẫn chung thủy với nàng. Ông vẫn yêu thương, vẫn cố tìm đủ cách để đưa nàng trở
về với đời sống gia đình đầy hạnh phúc. Nhưng nàng không chịu. Thật là một bức
tranh đáng buồn về sự ngoan cố của người ta! Thật là một bức tranh kỳ diệu về
tình thương của Đức Chúa Trời.
Ô-sê cưới phải một
người vợ bất trung là Gô-me làm sao, thì cũng vậy, Đức Chúa Trời đã cưới dân
Y-sơ-ra-ên bất trung cho Ngài. Từng trải đó của Ô-sê giúp ông hiểu rõ lòng yêu
thương của Đức Chúa Trời khi Ngài mong mỏi dân Y-sơ-ra-ên lầm lạc trở về nhà với
Ngài. Chắc ông đã vừa nói vừa khóc vì tấm thảm kịch đã xảy ra trong chính đời sống
ông. Ông đã hoàn toàn dấn thân cho sứ mạng. Chính nhờ những đau khổ mà Ô-sê đã
trải qua mà sứ điệp của ông trở nên mạnh mẽ, như Milton đã nói, “Người giỏi chịu
đựng đau khổ, sẽ càng có hi vọng làm được việc lớn.”
B. TÌNH YÊU CỦA
ĐỨC CHÚA TRỜI ĐỐI VỚI DÂN NGÀI
Đức Chúa Trời
thường dùng hôn nhân tượng trưng cho mối liên hệ giữa Ngài với dân Y-sơ-ra-ên
“Chàng rể mới vui mừng vì vợ mới mình, Đức Chúa Trời cũng vui mừng vì ngươi” (Ê-sai 62:5). “Ta là chồng
ngươi” (Giê-rê-mi 3:14).
Dân Y-sơ-ra-ên là cô dâu của Đức Chúa Trời, còn Hội Thánh là tân nương của
Chiên Con. Đức Chúa Trời đã phán về dân Y-sơ-ra-ên “Ta sẽ cưới ngươi cho ta đời
đời” (Ô-sê 2:19).
Đức Chúa Trời vẫn chung thủy với vợ Ngài, là dân Do Thái. Ngài đã yêu mến họ bảo
vệ họ và ban ân tứ rời rộng cho họ. Nhưng họ đã bỏ Đức Chúa Trời và chạy theo
các thần khác. Họ bất tuân các luật lệ Ngài. Cũng như vợ của Ô-sê, họ đã bội lời
thề của hôn nhân đã sa vào vòng nô lệ, tội lỗi và sỉ nhục. Cũng như Gô-me, dân
Y-sơ-ra-ên đã quên người từng đem đến cho mình các phước hạnh và sự sung mãn
trong quá khứ (2:8).
Trong tác phẩm
Whatever Became of Sin , nhà tâm lý học Karl Menninger định nghĩa khá sâu sắc rằng
tội lỗi là “khước từ tình yêu của tha nhân.” Nhưng quan trọng hơn hết, thì tội
lỗi là khước từ tình yêu của Đức Chúa Trời (Thi thiên 51:4).
C. SA NGÃ LÀ MỘT
SỰ KIỆN LỊCH SƯ
Nhưng tại sao
chúng ta lại kinh ngạc về sự sa ngã, thối lui, của dân Y-sơ-ra-ên? Đó không phải
đúng là kinh nghiệm bản thân của mọi người chúng ta sao? Lịch sử của loài người
là lịch sử của sự sa ngã, và nó sẽ cứ tiếp tục như vậy trải qua các thời đại.
Sau khi được tạo dựng, loài người được sống phước hạnh trong vườn Ê-đen, nhưng chẳng bao lâu, lại tuột xuống tận đáy vực sâu. Từ lúc bị đuổi khỏi vườn Ê-đen (Sáng thế ký 3:23) cho đến thời kỳ nước lụt, loài người cứ đi xuống dốc mãi (8:20). Loài người cứ tuột dốc đến độ chẳng còn biết Đức Chúa Trời là ai, để tự nâng cao chính mình (11:4). Sự đoán phạt làm lộn xộn tiếng nói đã giáng trên họ. Ap-ra-ham được Chúa kêu gọi và ban cho lời hứa (12:1) để trở thành tổ phụ Y-sơ-ra-ên. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên, tuyển dân của Đức Chúa Trời, cứ xuống dốc cho đến khi họ tự thấy mình ở dưới chân đồi là xiềng xích nô lệ của Ai-cập. Và rồi luật Môi-se được ban bố (Xuất Ai-cập 19:8). Trải qua cả giòng lịch sử quốc gia, dân Y-sơ-ra-ên đã gặp nhiều cảnh thăng trầm. Thời đại của Ô-sê đã cho thấy điều đó.
Sau khi được tạo dựng, loài người được sống phước hạnh trong vườn Ê-đen, nhưng chẳng bao lâu, lại tuột xuống tận đáy vực sâu. Từ lúc bị đuổi khỏi vườn Ê-đen (Sáng thế ký 3:23) cho đến thời kỳ nước lụt, loài người cứ đi xuống dốc mãi (8:20). Loài người cứ tuột dốc đến độ chẳng còn biết Đức Chúa Trời là ai, để tự nâng cao chính mình (11:4). Sự đoán phạt làm lộn xộn tiếng nói đã giáng trên họ. Ap-ra-ham được Chúa kêu gọi và ban cho lời hứa (12:1) để trở thành tổ phụ Y-sơ-ra-ên. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên, tuyển dân của Đức Chúa Trời, cứ xuống dốc cho đến khi họ tự thấy mình ở dưới chân đồi là xiềng xích nô lệ của Ai-cập. Và rồi luật Môi-se được ban bố (Xuất Ai-cập 19:8). Trải qua cả giòng lịch sử quốc gia, dân Y-sơ-ra-ên đã gặp nhiều cảnh thăng trầm. Thời đại của Ô-sê đã cho thấy điều đó.
Kinh Thánh cho chúng
ta biết rằng loài người sẽ phạm tội, sẽ làm tan nát tấm lòng yêu thương của Đức
Chúa Trời cho đến cuối cùng; nhưng một Đức Chúa Trời kỳ diệu và nhẫn nhục đã chịu
đựng điều đó qua các thời đại. Hiện trạng của dân Do Thái đã được mô tả trong Ô-sê 3:4.
Từ ngày Titus
phá hủy thành Giê-ru-sa-lem (70 S.C.) tình trạng của dân Do Thái được nghiệm
đúng với phần mô tả của Ô-sê ở đây.. Họ là một dân tộc bị tan lạc khắp mặt đất,
đi từ xứ này qua xứ khác, từ thành phố này sang thành phố nọ.. Họ bị đánh cho
tan lạc, bị khinh dể và thường bị oán ghét nữa (Xem Phục truyền 28:63-65). Nhưng xin chú
ý đến việc đang xảy ra cho họ ngày nay. Ô-sê 3:5 mô tả tương lai
huy hoàng của người Do Thái. Trong Đấng Christ, họ sẽ được trả lại các vua, các
quan trưởng, của lễ, trụ tượng, ê-phót, Thê-ra-phim và tất cả. Dân Do Thái có một
tương lai quang vinh.
D. TỘI LỖI VÀ LỜI
KÊU GỌI ĂN NĂN
Qua Ô-sê Đức
Chúa Trời đã chỉ ra tội lỗi của Y-sơ-ra-ên. Sổ đen ghi tội lỗi của họ là giả dối
(4:1) phóng túng (4:11) sát nhân (5:2) trộm cướp (7:1) áp bức (12:7). Đức Chúa Trời
đã dùng nhiều hình ảnh để ám chỉ tội lỗi của Y-sơ-ra-ên như người vợ ngoại tình
(3:1) kẻ say sưa bị
rượu đốt cháy (4:11); con bò cái tơ bất trị (4:16) một đám trộm
cướp (6:9)
những kẻ tà dâm (7:4) nóng hừng như lò lửa (7:7) chiếc bánh chưa quay, nửa sống
nửa chín (7:8)
bồ câu ngây dại (7:11) như cung giở trái - bắn không chính xác (7:16) bị nuốt (8:8) như khí mạnh
chẳng ai ưa thích (8:8) con lừa rừng (8:9).
Ở đây, chúng ta
nghe có tiếng phán từ phương Bắc, là nơi cư trú của dân Y-sơ-ra-ên (4:1). Từ hai trăm
năm trước, mười chi phái đã ly khai với Giu-đa để thiết lập một vương quốc độc
lập lấy tên là Y-sơ-ra-ên. Họ liền bắt đầu thờ hình tượng. Đức Chúa Trời đã sai
Ê-li, rồi Ê-li-sê đến cảnh cáo họ, nhưng vô ích. Họ không chịu trở lại với Đức
Chúa Trời. Bây giờ, chúng ta được nghe một giọng nói mới mẻ. Đó là tiếng kêu
gào của Ô-sê: “Hãy trở về cùng Đức Giê-hô-va” là tiếng kêu gọi cần thiết nhất của
nhà tiên tri. Thông điệp của ông là: Hãy trở lại cùng Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ
trở lại cùng các ngươi.
Tên Ô-sê có
nghĩa là “cứu rỗi.” Ông là tiếng phán của Đức Chúa Trời cho dân sự. Họ không chịu
nghe thông điệp của ông vì lời kêu gọi của ông nhằm vào một dân tộc sa ngã và từ
một Đức Chúa Trời đang đau buồn vì cớ tội lỗi của con cái Ngài. Nên nhớ là dân
Y-sơ-ra-ên có một tên luôn luôn liên quan với tội sa ngã. Nó được dùng ba mươi
lần trong sách này. Đó là Ép-ra-im. “Hỡi Y-sơ-ra-ên hãy trở lại cùng Giê-hô-va
Đức Chúa Trời ngươi, vì ấy là tại tội lỗi ngươi làm cho ngươi sa ngã” (14:1).
Lời Đức Chúa Trời
là tấm gương soi. Soi gương không phải để xem chúng ta đẹp đến mức nào nhưng để
thấy các tì vết, để thấy những điều sai lầm hầu sửa đổi lại. “Hỡi con cái
Y-sơ-ra-ên, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va; vì Đức Giê-hô-va có sự kiện cáo với
dân đất này” (4:1).
E. HI VỌNG CỦA
Y-SƠ-RA-ÊN
Đọc Ô-sê chương
11-14 chúng ta thấy ánh sáng đã loé lên trong các đoạn sách cuối cùng này.
Chúng vẽ ra cho chúng ta một bức tranh về các phước hạnh tối hậu của một vương
quốc Y-sơ-ra-ên trong tương lai. Chúng ta nhìn thoáng qua và trông thấy tấm
lòng đầy tình yêu thương của Đức Chúa Trời, khi với tư cách một người cha, Ngài
phán rằng “Khi Y-sơ-ra-ên còn thơ ấu, ta yêu dấu nó; ta gọi con trai ta ra khỏi
Ê-díp-tô” (11:1).
Khi Đức Chúa Trời
nhìn vào vùng đất bao la đầy vẻ huy hoàng của các đế quốc, Ngài tuyển chọn dân
Y-sơ-ra-ên để làm dân Ngài không phải vì họ là một dân tộc đông đảo nhất hay
giàu có nhất thế giới (Phục truyền 7:6-8). Trái lại, Ngài đã chọn họ như
một đứa bé nô lệ yếu đuối, chẳng có gì đẹp đẽ, hấp dẫn để làm đối tượng cho
tình yêu thương, sự chăm sóc và các phước hạnh của Ngài (Ô-sê 11:1).
Bấy giờ
Ba-by-lôn là một dân tộc hùng mạnh đang phô bày toàn thể nét huy hoàng của nó với
nhiều hứa hẹn về một tương lai phú cường. Ở phía Nam là vẻ rực rỡ của Ai-cập nổi
tiếng với các loại gấm vóc sang trọng nạm đầy châu ngọc qua các thời đại. Ở
phía Bắc, dân Hê-tít vốn có văn hóa và thế lực, và tàu bè của người Phê-ni-xi
thì đầy trên các mặt biển. Nhưng Đức Chúa Trời đã không chọn các dân tộc ấy.
Ngài chọn Y-sơ-ra-ên như một đứa bé nô lệ tại Ai-cập, đang sống trong cảnh nô lệ
khủng khiếp, phải làm gạch mà không có rơm, để có thể dốc đổ xuống đó tình yêu
thương và các phước hạnh của Ngài (Xuất Ai-cập 3:1-22).
Chúng ta chẳng
bao giờ hiểu nổi sự chọn lựa của Đức Chúa Trời. Ngài chọn những vật yếu ở thế
gian để làm hổ thẹn những vật mạnh (Xem ICo1Cr 1:27). Bất cứ có ai
yêu mến Đức Chúa Trời, thì cũng là vì Ngài đã yêu mến người ấy trước (IGi1Ga 4:19).
Y-sơ-ra-ên đã được
thừa nhận là một quốc gia trong lịch sử khi họ ra khỏi Ai-cập, nhưng càng lớn mạnh,
lại càng ngoan cố không chịu vâng lời, luôn luôn bội nghịch. Các nhà tiên tri
càng cảnh cáo, họ càng lìa xa Đức Chúa Trời. Họ chẳng tỏ ra biết ơn Đức Chúa Trời
chút nào về mọi phước hạnh trong xứ họ. Nhưng trong khi sống tự do, họ quên mất
Đức Chúa Trời để sa vào tội lỗi, vào sự thờ hình tượng, và đâm đầu vào cảnh tù
đày (Ô-sê 11:2).
Dân Y-sơ-ra-ên đã học xong chương trình huấn luyện dành cho họ tại các chợ bán
nô lệ của người A-sy-ri và Ba-by-lôn (4:6, 7).
Đức Chúa Trời đã
tỏ ra nhơn từ đối với chúng ta, đã dốc đổ tình yêu thương Ngài xuống trên chúng
ta. Ngài đã sai nhiều nhà tiên tri và giáo sư đến với chúng ta, và đặt chúng ta
giữa cảnh sung túc, hoa lệ. Nhưng càng bị cảnh cáo bao nhiêu, chúng ta lại càng
sẵn sàng để đi sai lạc bấy nhiêu, và càng được học hỏi nhiều bao nhiêu, chúng
ta lại càng tự cao tự mãn bấy nhiêu. Các dân các nước ngày nay đang tự giáo dục
họ lìa xa Đức Chúa Trời. Dân Y-sơ-ra-ên cũng vậy. Đức Chúa Trời dạy dân
Y-sơ-ra-ên rằng một khi dân sự từ chối ánh sáng, thì ánh sáng sẽ bị cất đi (5:6).
Chúng ta phải hiểu
rõ thái độ của Đức Chúa Trời đối với tội lỗi. Ngài phán: “Tiền công của tội lỗi
là sự chết” (Rô-ma 6:23) “Chớ hề dối mình, Đức Chúa Trời không
chịu khinh dể đâu, vì hễ ai gieo giống chi, lại gặt giống ấy” (GaGl 6:7).
F. ÂN ĐIỂN CỦA ĐỨC
CHÚA TRỜI
Chúng ta thấy ân
điển dốc đổ dồi dào cả trong Cựu ước lẫn Tân ước. Ở đây, Đức Giê-hô-va phán với
dân Y-sơ-ra-ên rằng: “Ta đã dùng dây nhơn tình, dùng xích yêu thương kéo chúng
nó đến” (Ô-sê 11:4).
Đấng Christ đã dùng sợi dây nhơn tình- dây của một con người - để kéo chúng ta
đến khi Ngài trở thành người để chịu chết thay chúng ta. Đức Chúa Trời rất đau
lòng về dân sự phản loạn Ngài, nhưng Ngài sẽ không từ bỏ họ. Lòng nhân từ
thương xót của Ngài đã bùng cháy lên và Ngài phán: “Ta sẽ chữa lành bịnh bội nghịch
của chúng nó. Ta sẽ lấy lòng tốt yêu chúng nó” (14:4). “Nhưng nơi
nào tội lỗi gia thêm, thì ân điển lại càng dư dật hơn nữa” (Rô-ma 5:20).
Đức Chúa Trời đã
đe dọa dân Y-sơ-ra-ên bằng cơn thạnh nộ Ngài, nhưng bây giờ Ngài đề nghị ban ân
điển cho họ. Đức Chúa Trời kêu gọi dân Y-sơ-ra-ên hãy trở lại và ăn năn (Ô-sê 14:1-3). Rồi Ngài hứa
ban cho họ mọi phước hạnh (14:4-8).
Trong Ô-sê 1:11, Đức Chúa Trời bảo với dân Y-sơ-ra-ên rằng có một ngày Giu-đa và Y-sơ-ra-ên sẽ được hiệp nhau lại và sẽ có chung một đầu (quan trưởng). Họ đang trông chờ Đấng Mết-si-a sắp đến đó; Ngài sẽ làm vua họ. Đức Chúa Trời lại hứa điều đó trong Ô-sê 3:1-5. Xin đọc Ô-sê 9:17 để thấy tình trạng của người Do Thái ngày nay: họ đang “đi dông dài trong các nước.” Đức Chúa Trời còn làm hơn là việc chỉ tha thứ sự sa ngã của họ; Ngài sẽ chữa lành họ và cất đi nguyên nhân của tội đó.
Trong Ô-sê 1:11, Đức Chúa Trời bảo với dân Y-sơ-ra-ên rằng có một ngày Giu-đa và Y-sơ-ra-ên sẽ được hiệp nhau lại và sẽ có chung một đầu (quan trưởng). Họ đang trông chờ Đấng Mết-si-a sắp đến đó; Ngài sẽ làm vua họ. Đức Chúa Trời lại hứa điều đó trong Ô-sê 3:1-5. Xin đọc Ô-sê 9:17 để thấy tình trạng của người Do Thái ngày nay: họ đang “đi dông dài trong các nước.” Đức Chúa Trời còn làm hơn là việc chỉ tha thứ sự sa ngã của họ; Ngài sẽ chữa lành họ và cất đi nguyên nhân của tội đó.
14:1-9 là đoạn sách
quan trọng nhứt trong cả Kinh Thánh dành cho người sa ngã. Hãy đọc những lời kỳ
diệu mà Đức Giê-hô-va đã phán cho người Y-sơ-ra-ên sa ngã trong Ô-sê 14:4: “Ta sẽ chữa
lành sự bội nghịch của chúng nó. Ta sẽ lấy lòng tốt yêu chúng nó; vì cơn giận
ta đã xây khỏi nó rồi.” Tấm lòng quảng đại của Đức Chúa Trời vốn đầy dẫy tình
thương, nhưng tội lỗi chúng ta ngăn trở không cho Ngài nói với chúng ta tất cả
tình thương đó. Cũng như dân Y-sơ-ra-ên, có lẽ bạn đã từng trải niềm vui khi
các chướng ngại vật đều bị triệt hạ, và tình yêu thương đã được đổ ra. “Ta sẽ
như là sương móc cho Y-sơ-ra-ên; nó trổ hoa như bông huệ” (14:5). Sương móc ám
chỉ sự hiện diện của Đức Thánh Linh. Hãy xem Đức Chúa Trời mô tả niềm vui sẽ ngự
trị giữa dân Ngài như thế nào, sau khi họ đã được chữa lành.
So sánh với A-mốt, vị tiên tri đồng thời với Ô-sê,
chúng ta thấy những điểm như sau:
i) A-mốt đã tỏ ra rằng việc giữ nghi lễ tôn giáo
không có hiệu quả, nếu sự công chính không tỏ ra trong cách cư xử trong xã hội
của họ. Ô-sê đã thêm rằng của lễ và vật hy sinh hoàn toàn không thể chấp nhận
được đối với Đức Giê-hô-va, nếu dân Y-sơ-ra-ên đã không tỏ ra
"chesed" (tình yêu giao ước) của họ.
ii) Chữ chìa khóa của A-mốt là "sự công
chính" (A-mốt 5:24). Chữ chìa khóa của Ô-sê là "tình yêu giao ước"
(chesed). Ô-sê nhấn mạnh đến tình yêu vững bền của Đức Chúa Trời. Điều này gợi
lên ý niệm về giao ước, được ràng buộc với sự lựa chọn của Đức Chúa Trời đối với
dân Y-sơ-ra-ên. A-mốt biết và tin mối tương quan giao ước đó. Nhưng ông không
chọn dùng từ liệu "chesed" để chỉ về nó, vì A-mốt nhấn mạnh đến trách
nhiệm của người được lựa chọn, và sự hình phạt sẽ chắc chắn đến vì Y-sơ-ra-ên
đã quên điều này. A-mốt cũng nhấn mạnh những đòi hỏi của Đức Chúa Trời đối với
Y-sơ-ra-ên và những đòi hỏi của sự công nghĩa của Ngài.
SÁCH TIÊN TRI MI-CHÊ
I. NHÀ TIÊN TRI
VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Mi-chê thuộc
vương quốc Giu-đa, đã nói tiên tri đồng thời với Ê-sai và Ô-sê. Mi-chê là một
nhà truyền đạo ở thôn quê sống cách phía Nam Giê-ru-sa-lem chừng hai mươi dặm,
tại thị trấn Mô-rê-sết, tại biên giới xứ Phi-li-tin. Ông truyền giảng tại đó đồng
thời với Ê-sai truyền giảng tại Giê-ru-sa-lem và Ô-sê trong xứ Y-sơ-ra-ên.
Mi-chê là nhà tiên tri của giới bình dân và của sinh hoạt đồng quê. Ê-sai truyền
giảng cho triều đình tại Giê-ru-sa-lem. Mi-chê biết rất rõ các đồng bào nhà quê
của ông. Hãy đọc xem ông nói phần trang bị đích thực của ông là gì: “Nhưng ta,
ta được đầy dẫy sức mạnh, sự xét đoán, và lòng bạo dạn bởi thần của Đức
Giê-hô-va, để rao ra cho Gia-cốp về sự phạm pháp nó, cho Y-sơ-ra-ên về tội lỗi
nó” (Mi-chê 3:8).
Mi-chê nói tiên
tri về Sa-ma-ri, kinh đô của Y-sơ-ra-ên, và Giê-ru-sa-lem, kinh đô của Giu-đa,
nhưng gánh nặng của chức vụ tiên tri của ông là Giu-đa. Thời kỳ ông
sống thật là khó khăn. Bên trong các vách thành là sự áp bức, còn bên ngoài thì
kẻ thù sắp đến gần. Tình trạng ở cả hai vương quốc Giu-đa và Y-sơ-ra-ên đều giống
nhau. Trong đời của Mi-chê, thì các vua cầm quyền là Giô-tham, A-cha và
Ê-xê-chia.
Nhà
tiên tri tố giác các tội lỗi của xã hội thời ông (Mi-chê 2:2). Những tội lỗi
của quốc gia được đề cập tới như thờ hình tượng (1:7; 6:16) tham lam (2:2) áp bức (2:2) bạo động (2:2; 3:10; 6:12; 7:2) tiên tri giả lọng
hành (2:6,
11) các quan trưởng
tham nhũng (3:1-3) các nhà tiên tri ích kỷ (5-7) các thầy tế lễ tham
nhũng (3:11)
hối lộ (3:9,
11; 7:3) bất lương (6:10, 11).
Mi-chê cảm thấy
một cách sâu sắc những gian ác xã hội đó. Ông
thấy kẻ giàu ngược đãi người nghèo. Ông cảm thấy tiếng kêu than về các tội
lỗi ấy đã thấu đến trời. Không có một giai cấp nào là không bị ảnh hưởng xấu của
nạn tham nhũng: từ các quan trưởng, các thầy tế lễ, cho đến dân chúng đều bị
tiêm nhiễm như nhau (2:2, 8, 9, 11; 3:1-3, 11). Mi-chê muốn cho dân chúng biết rằng mỗi một hành động tàn ác
phạm đến một người, là làm nhục Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời bị chọc giận
vì cớ cách ăn nết ở của dân chúng và các nhà cầm quyền. Bất chấp tình trạng đó,
dân chúng vẫn cố thực thi các nghi lễ tôn giáo. Mi-chê vạch trần tính cách vô
ích của tất cả những việc làm ấy (6:7, 8).
Trong
đời của Mi-chê, vương quốc Y-sơ-ra-ên ở miền Bắc đã bị bắt đi đày. Dân Y-sơ-ra-ên
đã không chịu nghe lời cảnh cáo của các nhà tiên tri. Còn người Giu-đa thì có
nghe, nên được triển hạn một trăm năm mươi năm. Mi-chê
biết rằng các tội lỗi đó của dân tộc sẽ đưa đến sự sụp đổ của quốc gia.
“Sự công bình làm cho nước cao trọng, song tội lỗi là sự hổ thẹn cho các dân tộc”
(ChCn 14:34). Tuy nhiên,
trong ân sủng của Chúa, Ngài vẫn giữ số “dân còn sót lại.” Từ ngữ “dân còn sót lại” thường được các nhà tiên tri dùng. Từ ngữ
này có nghĩa là một phần nhỏ của dân tộc mà Đức Chúa Trời luôn luôn giữ lại cho
chính Ngài (Mi-chê 2:12; 4:7; 5:3, 7, 8; 7:18).
Sách Mi-chê có thể được chia làm ba phần, mỗi phần đều bắt đầu bằng câu “Hãy nghe” (1:2; 3:1; 6:1). Và mỗi phần đều được kết thúc bằng một lời hứa: (1) lời hứa giải cứu (2:12, 13) (2) lời hứa đánh đuổi các kẻ thù trong xứ, 5:10, 15 (3) Việc làm ứng nghiệm lời hứa với Ap-ra-ham, 7:20.
Sách Mi-chê có thể được chia làm ba phần, mỗi phần đều bắt đầu bằng câu “Hãy nghe” (1:2; 3:1; 6:1). Và mỗi phần đều được kết thúc bằng một lời hứa: (1) lời hứa giải cứu (2:12, 13) (2) lời hứa đánh đuổi các kẻ thù trong xứ, 5:10, 15 (3) Việc làm ứng nghiệm lời hứa với Ap-ra-ham, 7:20.
II. SỨ ĐIỆP TIÊN
TRI MI-CHÊ
A. SỨ ĐIỆP CHO
CÁC DÂN LIÊN QUAN ĐẾN TỘI LỖI CỦA DÂN Y-SƠ-RA-ÊN
(Mi-chê 1:1-2:12)
Khi quyển sách bắt đầu, chúng ta nghe tiếng gọi lớn: “Hỡi hết thảy các dân, hãy nghe! Hỡi đất và mọi vật chứa trên đất, hãy lắng tai! Nguyền xin Chúa Giê-hô-va từ đền thánh Ngài, nguyền xin Chúa làm chứng nghịch cùng các ngươi!”(1:2).
Khi quyển sách bắt đầu, chúng ta nghe tiếng gọi lớn: “Hỡi hết thảy các dân, hãy nghe! Hỡi đất và mọi vật chứa trên đất, hãy lắng tai! Nguyền xin Chúa Giê-hô-va từ đền thánh Ngài, nguyền xin Chúa làm chứng nghịch cùng các ngươi!”(1:2).
Đức Chúa Trời
không ngủ. Ngài biết rõ tình trạng đáng buồn của dân Ngài. Ngài sẽ ngồi lại để
phán xét dân mình. Vậy, Đức Giê-hô-va đang đến để đưa dân Y-sơ-ra-ên ra phán
xét vì những việc làm sai trái của nó. Sa-ma-ri và Giê-ru-sa-lem bị tuyên án là
có tội trước vị Đại Thẩm Phán của vũ trụ. Bị bắt làm tù binh và đưa đi đày là số
phận của họ. Đức Chúa Trời quở trách họ vì bất công xã
hội, bất trung, không thành thật, và thờ thần tượng. Tội lỗi của họ là gì (2:1-11; 1:6-9)?
Mi-chê bảo cho họ
biết rằng Sa-ma-ri, thủ đô của Y-sơ-ra-ên rồi sẽ thất thủ (1:6-7). Một sự phán
xét tương tự cũng sẽ giáng trên Giu-đa. Tội lỗi của
Giu-đa đã được mô tả là một vết thương không thể chữa lành. Có một số
các loại bệnh chỉ có thể chữa được bằng cách tiêu diệt cả con bệnh lẫn căn bệnh
mà thôi. Toàn dân Giu-đa sẽ bị bắt đi đày, vì Đức Chúa Trời nhận thấy rằng sự
áp bức, bạo tàn và bất công của nó là vô phương chữa trị. Xin chú ý các thành
phố của xứ Giu-đa được đề cập trong mấy câu cuối cùng của sách Mi-chê. Hãy nhìn
vào bản đồ thì bạn sẽ thấy chúng đều vây quanh thành phố quê hương của nhà tiên
tri.
Tội thờ
thần tượng của dân Y-sơ-ra-ên đã lan tràn nhanh chóng đến Giê-ru-sa-lem và thành vững bền
La-ki (1:13).
Chính sự tràn lan đáng sợ của tội thờ thần tượng và những điều xấu xa gian ác
khủng khiếp của nó sang xứ Giu-đa dưới thời vua A-cha, đã khiến Mi-chê phải đặc
biệt tố giác nó. Việc
áp bức bóc lột kẻ nghèo (2:2), phụ nữ và trẻ con bị đuổi ra khỏi nhà (2:9) cũng
đều bị nhà tiên tri quở trách. Trong Mi-chê 2:1-11, tội lỗi của
dân chúng đã bị vạch trần một cách trắng trợn. Đức Chúa Trời sẽ giáng đau khổ
và xấu hổ trên họ vì cách lạm quyền cậy thế vô tâm đó của họ.
Chúng ta ngày
càng nhận thức được phần giá trị xã hội của Phúc Am của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Hễ
Phúc Am đi đến đâu, chúng ta đều thấy tình hình được cải thiện và một tình
huynh đệ được đặt trên cơ sở là mọi người đều là con cái của Đức Chúa Trời. Hết lòng thờ phượng Đức Chúa Trời bao giờ cũng làm nảy sinh
những cách hành đạo chứng minh rằng đời sống người ta đã được biến đổi.
Toàn thể các giáo sĩ đều làm chứng cho việc nầy theo nhiều phương diện kỳ diệu
nhất.
B. SỨ ĐIỆP CHO
CÁC NHÀ CẦM QUYỀN VỀ SỰ GIÁNG LÂM CỦA CHÚA CỨU THẾ (Mi-chê 3-5)
“Hỡi các trưởng
của Gia-cốp và các ngươi là kẻ cai trị nhà Y-sơ-ra-ên, hãy nghe!” (3:1). Đức Chúa Trời
nói gì về họ? Hãy đọc Mi-chê 3:1-4, Đức Chúa Trời
ví sánh lòng tham lam và tự tôn tự đại của họ cho dù phải làm đổ máu, với tội
ăn thịt người. Các nhà cầm quyền đã cắn nuốt xâu xé kẻ nghèo, những người vô
phương tự vệ (2:2, 3).
Đất nước đã sắp
sụp đổ đến nơi, và các quan trưởng cũng như các thầy tế lễ phải chịu trách nhiệm
về việc ấy. Đức Chúa Trời tố giác tội lỗi của các nhà cầm quyền (3:9), tội nhận hối
lộ của các thẩm phán (3:11), những trái cân và cây cân giả. Đức Chúa Trời mô tả
số người nầy trong Mi-chê 3:5. Các kẻ tiên tri làm lầm lạc dân ta, là
kẻ cắn răng bằng răng mình và rao rằng: Bình an!
Bằng tấm
lòng tan vỡ, Mi-chê nói về sự phán xét của Đức Chúa Trời trên xứ Giu-đa vì cớ tội
lỗi của họ. Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ sẽ bị phá hủy (3:12; 7:13). Dân
Giu-đa sẽ bị bắt đày sang Ba-by-lôn (4:10). Nhưng dường
như ông hối hả nói ra lời lẽ của sự phán xét, và gói ghém bức thông điệp bằng
tình yêu và lòng nhân từ thương xót của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sẽ đưa dân
sự Ngài từ cuộc lưu đày trở về (4:1-8; 7:11; 14:17). Mi-chê là một
nhà tiên tri của hi vọng. Ông luôn luôn nhìn xa hơn sự trừng phạt,
phán xét để thấy ngày vinh quang khi chính Chúa Cứu Thế sẽ trị vì, khi hòa bình
sẽ phủ trùm trên đất. Đức Chúa Trời đã có lời hứa. Đấng Mết-si-a sẽ giáng lâm,
Ngài sẽ được sinh ra tại Bết-lê-hem (4:8; 5:2-4)
Rồi dân
Y-sơ-ra-ên từ các dân các nước họ bị tan lạc sẽ được tập họp (4:6). Ôi, ước gì
Chúa Bình An sẽ sớm đến, và khiến cho mọi việc nầy được ứng nghiệm. Chúng ta
cùng với Thánh Giăng trên đảo Bát-mô, cầu nguyện rằng: “Đấng làm chứng cho những
điều ấy, phán rằng: Phải, ta đến mau chóng - A-men, lạy Đức Chúa Giê-xu, xin
hãy đến!”
Bết-lê-hem
bé nhỏ, nhỏ nhất trong số các thị trấn của Giu-đa, sẽ được tôn vinh vì sự ra đời
của Đấng Mết-si-a của Đức Chúa Trời, là Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta. Ngài sẽ chiến thắng, không phải bởi quyền thế,
cũng chẳng phải là bởi năng lực, nhưng là bởi Thánh Linh Ngài. Ngài giáng sinh
như một hài nhi bé bỏng để đem sự cứu rỗi đến cho cả thế gian đang rất cần một
Đấng Cứu Chuộc. Lời tiên tri xưa cũ đã 700 năm kể từ Mi-chê 5:2-5,
cùng với ngôi sao của đêm Chúa Giáng Sinh, đã dẫn đường cho các nhà hiền triết
đến Giê-ru-sa-lem để tìm gặp vị Tân Nương.
Sau đây là những lời tiên tri
liên hệ đến Đấng Christ:
-Địa điểm Chúa
sanh ra, 5:2
-Đấng Christ là Vua, 2:12, 13
-Đấng Christ cai trị khắp thế gian bằng đức công chính, 4:1, 7
-Giê-ru-sa-lem, kinh đô của Nước của Chúa Cứu Thế, 4:1-2
-Nước của Chúa Cứu Thế tràn lan khắp thế gian, 4:2
-Hòa bình của Nước của Chúa Cứu Thế, 4:3
-Hưng thịnh, phước hạnh của Nước của Chúa Cứu Thế, 4:4
-Công chính, nền tảng của Nước của Chúa Cứu Thế, 4:6; 4:2.
-Đấng Christ là Vua, 2:12, 13
-Đấng Christ cai trị khắp thế gian bằng đức công chính, 4:1, 7
-Giê-ru-sa-lem, kinh đô của Nước của Chúa Cứu Thế, 4:1-2
-Nước của Chúa Cứu Thế tràn lan khắp thế gian, 4:2
-Hòa bình của Nước của Chúa Cứu Thế, 4:3
-Hưng thịnh, phước hạnh của Nước của Chúa Cứu Thế, 4:4
-Công chính, nền tảng của Nước của Chúa Cứu Thế, 4:6; 4:2.
Sách Mi-chê đã được trích dẫn
ba lần
(1) Bởi các trưởng
lão xứ Giu-đa: Giê-rê-mi 26:18, trích dẫn Mi-chê Mi-chê 3:12
(2) Bởi các bác
sĩ đến Giê-ru-sa-lem: Ma-thi-ơ 2:5, 6 trích dẫn Mi-chê Mi-chê 5:2
(3) Bởi Chúa
Giê-xu khi sai phái mười hai sứ đồ: Ma-thi-ơ 10:35, 36 trích dẫn
Mi-chê Mi-chê 7:6.
Xem thêm Ê-sai 2:2-4;
41:15; Ê-xê-chi-ên 22:27; SoXp 3:19.
C. SỨ ĐIỆP CHO TUYỂN DÂN VỀ THÁCH THỨC CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
(Mi-chê 6-7) .
“Hỡi các núi, và các nền hằng vững chắc của đất, hãy nghe lời đối nại của Đức Giê-hô-va! Vì Đức Giê-hô-va có sự đối nại với dân Ngài, và Ngài sẽ đối nại với Y-sơ-ra-ên.”
Y-sơ-ra-ên đã chẳng đếm xỉa gì đến Đức Chúa Trời. Ngài bảo họ hãy nhớ lại xem Ngài từng đối xử tốt với họ như thế nào, và Ngài đã giữ giao ước với họ như thế nào (Mi-chê 6:3). Bị lương tâm cắn rứt, dân chúng đã nêu câu hỏi họ phải làm thế nào cho Đức Chúa Trời được đẹp lòng. Họ thành tâm hỏi rằng chẳng hay các của lễ thiêu có làm được điều đó hay không (6:6-7).
Con người luôn
luôn tìm cách đáp lại các ân điển tốt lành của Đức Chúa Trời bằng một nghi thức
tôn giáo mặt ngoài đó hoặc một số tài vật. Nhưng phải nhớ rằng của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời ấy là tâm
thần đau thương. Đức Chúa Trời ôi! lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể
đâu (Thi thiên 51:17). Đức Chúa Trời muốn mọi người phải có
cách ăn ở công chính, và sự từng trải cá nhân đích thực. Do có thái độ bất
chính nên dân sự đã phải nhận chịu nhiều hậu quả khó tin nổi. Đức Chúa Trời vốn
là một Quan An Công Bình (Mi-chê 1:3, 5; 3:12). Thánh Phao-lô đã dạy
chúng ta phải làm gì để báo đáp các hành vi nhân từ thương xót của Đức Chúa Trời?
(Rô-ma 12:1-2). Cách tốt nhất để báo đáp các ân điển của
Đức Chúa Trời là tiếp nhận ân điển Ngài.
D. NHỮNG ĐIỀU THIẾT YẾU ĐƠN GIẢN CỦA TÔN GIÁO CHÂN
THẬT
Kinh Thánh Cựu Ước
đưa ra cho chúng ta một câu định nghĩa cho tôn giáo. Đức Chúa Trời đòi hỏi
ngươi điều gì? (Mi-chê 6:8). So với những câu định nghĩa cho tôn
giáo của loài người ngày nay, thì điều đó là thế nào?
Làm sự Công bình - Môn đạo đức học toàn hảo cho mọi đời sống.
Ưa sự nhơn từ - Tôn trọng tha nhân, khi công lý chưa được thực thi.
Bước đi cách khiêm nhường với Đức Chúa Trời - Từng trải cá nhân với Đức Chúa Trời.
Làm sự Công bình - Môn đạo đức học toàn hảo cho mọi đời sống.
Ưa sự nhơn từ - Tôn trọng tha nhân, khi công lý chưa được thực thi.
Bước đi cách khiêm nhường với Đức Chúa Trời - Từng trải cá nhân với Đức Chúa Trời.
Thánh Phao-lô đã gọi đó là tâm tình của
Chúa Cứu Thế.
“Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có” (Phi-lip 2:5). Nếu tôn giáo
của bạn chỉ là một túi tham không đáy, những ngôi thánh đường đồ sộ nhiều nghi
lễ tỉ mỉ, thì chúng ta chẳng có được gì cả. Mọi sự đều phải được đổ đầy bằng tâm
tình của Chúa Cứu Thế. Chúng ta phải thờ phượng Ngài với lòng chân thành do Thánh
Linh hướng dẫn (Giăng 4:24 bản dịch diễn ý). Đức Chúa Trời
muốn chúng ta có nhiều hơn là một bài tín điều thật đẹp đẽ, dù nó có thuộc linh
và đúng thật đến mức độ nào. Ngài muốn cho tâm tính của Chúa Cứu Thế được biểu
hiện bằng sinh hoạt hằng ngày của chúng ta, và được phô bày trong mọi cách ăn nết
ở của chúng ta, trong nhà riêng của chúng ta và tại những nơi chúng ta làm ăn
buôn bán. Tôn giáo của bạn có qua nổi các trắc nghiệm nầy không?
Điều lý thú là khi tóm tắt cùng một vấn đề nầy (Ma-thi-ơ 23:23), Chúa Cứu Thế đã dùng các từ ngữ công bình (phán xét), thương xót, và trung tín. Như thế là Ngài đã đánh đồng đức tin (trung tín) với việc bước đi cách khiêm nhường với Đức Chúa Trời, một cách so sánh hết sức phù hợp.
Điều lý thú là khi tóm tắt cùng một vấn đề nầy (Ma-thi-ơ 23:23), Chúa Cứu Thế đã dùng các từ ngữ công bình (phán xét), thương xót, và trung tín. Như thế là Ngài đã đánh đồng đức tin (trung tín) với việc bước đi cách khiêm nhường với Đức Chúa Trời, một cách so sánh hết sức phù hợp.
SÁCH TIÊN TRI SÔ-PHÔ-NI
I. NHÀ TIÊN TRI VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Chúng ta được biết
rất ít về tiên tri Sô-phô-ni, trước giả sách nầy. Có hai sự kiện về tiểu sử ông
xuất hiện trong câu đầu của sách tiên tri do ông viết. Chúng ta biết rất có thể ông là một vương tử xứ
Giu-đa, vì là hậu duệ của Ê-xê-chi-ên. Lập trường của ông là tố giác
các tội lỗi của hàng vương tử, vì chính ông là dòng dõi quý tộc. Ông sống dưới
thời trị vì của minh quân Giô-si-a. Tên ông có nghĩa là “người được Đức Giê-hô-va giấu kín.”
Sô-phô-ni khởi sự
chức vụ của ông vào những năm đầu đời trị vì của Giô-si-a (641-610 T.C.). Năm
mươi năm đã trôi qua từ khi Na-hum công bố lời tiên tri của ông. Ba người trong
các hậu duệ của Ê-xê-chi-ên đã nối ngôi vua ấy (II.Các Vua 20:21). Trước Giô-si-a, là hai nhà vua gian ác, thờ
hình tượng, nên toàn dân đều làm đủ thứ công việc gian ác. Bất công xã hội
và bại hoại đạo đức lan tràn khắp nơi. Kẻ giàu thì vơ vét những gia tài đồ sộ bằng
cách nghiền nát người nghèo. Tình trạng thật là thê thảm khi vua Giô-si-a, mới
được mười sáu tuổi, thực hiện việc cổ xúy cho một cơn phục hưng tôn giáo. Vua
trở thành một trong các quân vương được yêu chuộng nhất Giu-đa. Vua cầm búa để
triệt hạ các bàn thờ và hình tượng. Lời lẽ của Sô-phô-ni chắc đã khích lệ được
các nhà cải cách rất nhiều.
Từ Mi-chê đến Sô-phô-ni, chúng ta đi từ thế
kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ bảy T.C.. Tiên tri Sô-phô-ni sống đồng thời với tiên
tri Giê-rê-mi. Hai nhà tiên tri khác của thế kỷ thứ bảy là Na-hum và Ha-ba-cúc.
Thế kỷ thứ bảy
T.C. bắt đầu với vua Ê-xê-chia cai trị quốc gia Giu-đa. Vua Ê-xê-chia được nối
ngôi bởi con là Ma-na-se (686-642 T.C.) (II.Các Vua 20:21). Theo lời truyền
khẩu của người Do Thái, trong đời trị vì của Ma-na-se, Ê-sai đã chịu tuận đạo.
Hiển nhiên là đã không có việc nói tiên tri tự do nào được cho phép trong đời
trị vì này. Rất có thể đã có thời kỳ bách hại tôn giáo lớn lao. Những câu mở đầu
của các sách Ê-sai, Mi-chê, Giê-rê-mi và Sô-phô-ni cho thấy những nhà tiên tri
này có lẽ đã sống trong đời trị vì lâu dài của Ma-na-se. Sau nhiều năm cai trị
với hành vi cực kỳ gian ác, Ma-na-se đã bị bắt lưu đày sang Ba-by-lôn. Trong
cơn buồn bã, ông đã cầu nguyện xin Đức Chúa Trời thương xót (II.Sử ký 33:12, 13).
Ma-na-se đã thực
hiện các chính sách của A-cha nhưng Giô-si-a đã bắt đầu cuộc cải cách tôn giáo
vào khoảng 622 T.C.. Động cơ thúc đẩy cuộc cải cách là việc tìm thấy cuốn sách
Luật Pháp. Trong đời trị vì của Giô-si-a, một biến chuyển lớn đã xảy ra trong
cán cân quyền lực giữa các quốc gia. Vào năm 612 T.C., Ba-by-lôn đã trở thành
siêu cường trong vùng, khi quân đội của họ đánh và san bằng thành phố thủ đô của
A-sy-ri. Vua Giô-si-a đã tham dự vào cuộc tranh chấp quyền lực quốc tế (II.Các Vua 23:19-30). Quân đội Ai-cập
lúc đó đang tiến ngang Palestine để liên kết với quân đội bị đánh bại của
A-sy-ri, trong nỗ lực cản trở tham vọng của Ba-by-lôn muốn trở thành bá chủ thế
giới.
Lời tiên tri của
Sô-phô-ni đã được nói ra ngay trước cuộc cải cách của Giô-si-a (đã bắt đầu độ
trước hoặc sau năm 622 T.C.). Những lời đó có thể đã giúp khuyến khích cải
cách. Trong khi, sự kêu gọi của Giê-rê-mi xảy ra sau cuộc cải cách của Giôsia.
Vì thế, Sô-phô-ni là tiên tri đầu tiên trong các nhà
tiên tri của thế kỷ thứ 7 T.C..
II. SỨ ĐIỆP TIÊN TRI SÔ-PHÔ-NI
Sô-phô-ni
vạch rõ Đức Chúa Trời vừa yêu thương mà cũng vừa nghiêm khắc. SoXp 1:2; 3:17 cho chúng ta thấy
hai đặc tính ấy. Nhà tiên tri đã báo trước số phận khủng khiếp của Ni-ni-ve (SoXp 2:13) và việc này đã
xảy ra năm 612 T.C..
Chúng ta nghe Sô-phô-ni tố giác nhiều hình thức thờ hình tượng:
cả Ba-anh lẫn Minh-côm hay Mô-lóc đều bị kết án (1:1-2:3). Việc thờ hình
tượng đó đã bị diệt trừ dưới thời trị vì của Giô-si-a. Chắc người có phần lớn
trách nhiệm trong cuộc phục hưng dưới thời Giô-si-a chính là Sô-phô-ni. Ông là
nhà tiền phong trong Phong trào Cải Cách đó. Truyền thuyết cho chúng ta biết
Giê-rê-mi là bạn đồng sự với ông.
Lúc mới bắt đầu
đọc sách nầy, chắc bạn phải kinh hãi về nội dung của nó. Sách toàn nói về những
lời tố giác, đe dọa và thịnh nộ. Đức Chúa Trời đang dò xét dân chúng: “Ta sẽ
dùng đèn đuốc lục soát trong Giê-ru-sa-lem, sẽ phạt những kẻ đọng trong cặn rượu”
(1:12). Tuy nhiên, tại đây chúng ta cũng thấy được ân sủng và tình
yêu của Đức Chúa Trời, vì “Chúa sửa phạt kẻ Ngài yêu; hễ ai mà Ngài nhận làm
con thì cho roi cho vọt” (HeDt 12:6). Sách bắt đầu bằng đau buồn, nhưng kết
thúc bằng ca hát. Phần đầu của sách đầy dẫy sự buồn bã, ảm đạm, nhưng
phần cuối lại chép một trong những bài tình ca êm dịu nhất Cựu Ước. Sô-phô-ni
cho thấy rằng
(1) một phần những
người còn sót lại trung tín, sẽ được giải cứu khỏi cuộc lưu đày;
(2) người ngoại
đạo sẽ ăn năn tin Chúa; (3) có một ngày, người ta sẽ có thể thờ phượng Đức Chúa
Trời bất cứ nơi nào, chớ không phải chỉ tại Giê-ru-sa-lem mà thôi (SoXp 2:11; Giăng 4:21).
A. GIU-ĐA BỊ DÒ XÉT (Sô-phô-ni 1)
Đức Giê-hô-va
đang ở giữa xứ để thi hành việc phán xét (3:5 và 1:17). Trước hết,
Ngài dò xét xứ Giu-đa và truyền rao lời chúc dữ trên tất cả những kẻ thờ thần
tượng. Toàn xứ phải được giải phóng khỏi việc thờ thần tượng. Đức Giê-hô-va không
thể để cho một điều đáng ghê tởm như thế tồn tại. Chúng ta thấy các
nhà cầm quyền bị tố giác y như mọi giai cấp tội nhân (1:7-13). Họ là (1) những
kẻ thờ thần tượng (1:4-5) những kẻ khi thì chỉ Đức Chúa Trời mà thề, lúc
khác lại chỉ Mo-lóc mà thề (1:5) những kẻ đã xây bỏ Đức Giê-hô-va (1:6). Đức Chúa Trời
sẽ khiến một ngọn lửa giáng trên những kẻ ấy. Nó sẽ đánh vào cả đất, nhưng đặc
biệt là vào cư dân Giê-ru-sa-lem. “Ngày của Đức Giê-hô-va” là một ngày đáng sợ.
Ngài gọi dân sự, khiến họ run rẩy trước mặt Ngài. Ngài đang “ở giữa” xứ để phán
xét nó.
“Ngày của Đức Giê-hô-va” được đề cập bảy lần
trong sách tiên tri nầy. Hầu như không có ngoại lệ, là mỗi lần từ ngữ ngày
được dùng trong Kinh điển nó đều có nghĩa là một giai đoạn thời gian. Nếu một
con số được dùng trước nó, như bốn mươi ngày, ba ngày, thì đó là một ngày gồm
hai mươi bốn giờ. Nhưng khi ngày được dùng một mình, như ngày của những người
thanh giáo hay ngày của Lincoln, thì ý muốn nói là giai đoạn mà các nhân vật ấy
đã sống. Cho nên khi nào Lời Chúa chép về “Ngày của Đức Giê-hô-va” nó có nghĩa
là ngày mà Đức Giê-hô-va làm việc đặc biệt. Với người Do Thái vào thời của Sô-phô-ni nó có nghĩa là lúc Đức
Chúa Trời sẽ đối xử với dân Ngài bằng sự trừng phạt và lưu đày. Ngày
của Đức Giê-hô-va (Chúa) trong tương lai là giai đoạn có cơn đại nạn và Thiên
hi niên (KhKh 6:1-17).
Dân Giu-đa được truyền dạy rằng “Ngày của Đức Giê-hô-va” sắp đến, lúc sẽ có một
cuộc tính sổ đặc biệt.
Sô-phô-ni dùng cụm
từ này để chỉ về sự phán xét sắp đến trên Giu-đa (SoXp 1:7). A-mốt trước
đây cũng đã nói về đề tài này (A-mốt 5:18-20; SoXp 1:14-16). Một cách đơn
giản, "Ngày của Đức Giê-hô-va'có nghĩa là ngày mà Đức Giê-hô-va sắp hành động.
Trong thời A-mốt, dân sự đã nghĩ Đức Chúa Trời sẽ hành động theo đặc ân của họ.
A-mốt đã tỏ cho họ biết rằng Đức Chúa Trời chỉ có thể phạt họ y như tội lỗi quá
lớn lao của họ. Các nhà tiên tri không luôn luôn dùng cùng từ liệu khi nói về
Ngày của Đức Giê-hô-va. Vì thế thật cần để có thể nhận ra khi ý niệm được ám chỉ,
dù tư liệu chính xác không được nói đến. A-mốt nói về Ngày của Đức Giê-hô-va
như là thời kỳ phán xét đối với Y-sơ-ra-ên. Sô-phô-ni nói rằng đó chính là thời
kỳ phán xét cho Y-sơ-ra-ên và cho các nước (1:18).
B. CÁC DÂN CÁC NƯỚC BỊ DÒ XÉT (2:1-15)
Sau khi nhà tiên
tri kêu gọi dân sự tìm kiếm Đức Giê-hô-va (2:1-3) để có chỗ ẩn
náu trong ngày thạnh nộ của Đức Giê-hô-va, ông tuyên bố rằng chẳng gì có thể cứu
được đất nước dân tộc khỏi sự hoạn nạn ngoài ra việc ăn năn thật. Hãy tìm kiếm
Đức Giê-hô-va, tìm kiếm sự công bình, tìm kiếm sự nhu mì là lời khuyên của ông.
Rồi ông quay sang năm dân tộc ngoại đạo là Phi-li-tin, Mô-gi, Am-môn,
Ê-thi-ô-bi, và A-sy-ri. Họ sẽ bị cơn giận của Đức Chúa Trời thăm phạt vì sự
kiêu ngạo và sỉ vả dân của Đức Giê-hô-va (2:10). Cảnh hoang
tàn của Ni-ni-ve đã được mô tả bằng những lời lẽ chính xác lạ lùng (2:13-15). Mọi việc đó
đã bắt đầu ứng nghiệm vào những cuộc chinh phục của Nê-bu-cát-nết-sa.
Sự phán xét các
kẻ thù địa phương của dân Y-sơ-ra-ên đã ứng nghiệm theo đúng nguyên văn (2:4-15). Sự phán xét
các kẻ thù của dân Y-sơ-ra-ên trên toàn thế giới rộng lớn nầy vẫn chưa ứng nghiệm
(3:8; 2:10-11). Đức Chúa Trời
phán rằng các thần tượng của kẻ thù họ sẽ bị đập vỡ, và người ngoại đạo sẽ thờ
phượng Đức Chúa Trời, mỗi người ngay chính đất nước họ (2:11). Thay vì mọi
người phải hành hương đến Giê-ru-sa-lem, họ có thể thờ phượng Đức Chúa Trời ở bất
kỳ nơi nào.
Người Do Thái
tin rằng Giê-ru-sa-lem là nơi để thờ phượng. Người Sa-ma-ri tuyên bố rằng Núi
Ga-ri-xim phải là trung tâm tôn giáo, nhưng Sô-phô-ni dạy rằng sự thờ phượng
thuộc linh không lệ thuộc vào nơi chốn nào cả, mà vào sự hiện diện của Đức Chúa
Trời. Loài người luôn luôn tìm cách thiết lập những nơi thánh và đền miếu. Từ rất
lâu rồi, Rô-ma và Mecca đã trở thành “thánh địa” trong số hằng trăm địa danh
khác nữa. Loài người đã tạo ra lắm nhiêu khê để có thể đến thờ phượng tại các địa
điểm ấy. Tại Ấn Độ, nhiều ngàn người phải hành hương đến Benares, là thánh địa
thiêng liêng nhất của Ấn giáo để thờ phượng và để tắm mình dưới sông Ganges, và
cùng mang về với họ nước của sông ấy.
C. DÂN Y-SƠ-RA-ÊN ĐƯỢC PHỤC HƯNG (3:1-20)
Nhà
tiên tri kết thúc bằng những lời hứa kỳ diệu nhất về sự phục hưng của dân
Y-sơ-ra-ên trong tương lai và tình trạng phước hạnh của dân Chúa sau khi được
thanh tẩy trong những ngày sau rốt (3:1-20). Số dân sót lại
được cứu chuộc sẽ trở về Si-ôn là những con người được tẩy sạch, khiêm hạ, có
niềm tin, và đầy vui mừng cùng với các của lễ của họ. Họ sẽ định cư trong xứ,
có Đức Chúa Trời “ở giữa họ” (3:15, 17). Bấy giờ,
Si-ôn sẽ là địa điểm được ưa thích giữa các dân các nước, và là một người phước
hạnh cho cả đất như lời hứa đã được báo trước của Đức Chúa Trời ngay từ thời
nguyên thủy với Ap-ra-ham (Sáng thế ký 12:1-3).
Niềm vui của
Sô-phô-ni (SoXp 3:14-20) có thể ám chỉ một điều gì đó bên cạnh
cái ngày mà số dân còn sót lại sẽ hồi hương sau cuộc lưu đày Ba-by-lôn. Sự phán
xét càng tệ hại hơn đối với Giu-đa sẽ xảy ra tiếp sau lần hồi hương đó. Từ trước
cho đến đó, nó chỉ bị khổ sở chút ít mà thôi. Cũng chẳng có gì xảy ra giống như
thế vào ngày Chúa Cứu Thế giáng lâm. Chắc nó phải ám chỉ cái ngày mà chính Chúa
Giê-xu sẽ ngự trên ngôi Đa-vít, khi dân Ngài sẽ được tập họp lại từ bốn góc đất
(3:19). Lời tiên tri
nầy sẽ được ứng nghiệm đầy phước hạnh trong thời đại của vương quốc, khi Chúa Cứu
Thế tái lâm trên thế gian nầy để lấy đại quyền đại vinh mà trị vì.
SÁCH TIÊN TRI
NA-HUM
Hai nhà tiên tri tiếp theo mà chúng ta sẽ nghiên cứu ở hai niên đại khác nhau, nhưng lời tiên tri có đặc tính giống nhau. Cả hai mô tả sự phán xét của Đức Chúa Trời trên một quốc gia khác hơn Y-sơ-ra-ên hoặc Giu-đa. Đó là Na-hum, thuộc thế kỷ thứ bảy T.C., cùng với Sô-phô-ni, Giê-rê-mi và Ha-ba-cúc; và Áp-đia, thuộc thế kỷ thứ sáu T.C., cùng với Ê-xê-chi-ên và về sau là A-ghê và Xa-cha-ri.
I. NHÀ TIÊN TRI
VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Na-hum, trước giả
viết quyển sách nầy, là một người quê quán ở Ên-cốt. Trong xứ A-sy-ri, gần các
phế tích của Ni-ni-ve, có một ngôi mộ mà dân bản địa bảo là của Na-hum. Nhưng
phần lớn các học giả có thẩm quyền nghĩ rằng địa danh Ên-cốt nầy thuộc xứ
Ga-li-lê. Ngày nay, nó chỉ còn là một phế tích hoang tàn đổ nát.
Về tên người
cũng như về thông điệp truyền giảng, “Na-hum” có nghĩa là “an ủi” cho Giu-đa.
“Đức Giê-hô-va là tốt lành, làm đồn lũy trong ngày hoạn nạn, và biết những kẻ ẩn
náu nơi Ngài” (Na-hum 1:7). Đề mục lớn của Đức Chúa Trời cho dân
sự Ngài, là dân Giu-đa được giải cứu và kẻ thù của họ là người A-sy-ri sẽ bị hủy
diệt. Ca-bê-na-um, nơi Đấng Yên Ui đã làm nhiều phép lạ, có nghĩa là “làng của
Na-hum” (an ủi). Thị trấn nơi nhà tiên tri Na-hum ra đời là Ên-cốt, vốn ở sát
bên đó.
Có lẽ Na-hum là
người quê quán ở Ga-li-lê, sống vào thời trị vì của minh quân Ê-xê-chia, và của
nhà đại tiên tri Ê-sai. Chắc lúc quân đội A-sy-ri bạo tàn xâm lăng quê hương
ông và bắt đi mười chi phái của Y-sơ-ra-ên, ông đã lánh nạn xuống vương quốc
Giu-đa ở phía Nam. Có lẽ ông đã đến trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem, nơi mà bảy năm
sau đó, ông chứng kiến cảnh San-chê-ríp vây thành phố ấy, mà kết quả là phép lạ
đã hủy diệt đạo quân A-sy-ri. Chắc bạn còn nhớ là đã có 185.000 người ngã chết
chỉ trong một đêm, như đã được ghi chép trong II.Các Vua 19:35. Có lẽ Na-hum Na-hum 1:2 ám chỉ việc ấy.
Ông đã viết sách nầy ngay sau biến cố đó.
Chủ đề
sách nầy là sự phá hủy Ni-ni-ve, thành phố mà Giô-na đã cảnh cáo. Ni-ni-ve là một
bị cáo mà Đức Chúa Trời sai Na-hum đến để công bố sự phán xét công nghĩa của
Ngài đối với nó. Trong việc phán xét Ni-ni-ve, chúng ta nhìn thấy Đức Chúa Trời
đang phán xét một thế gian tội lỗi. Na-hum đã viết sách của ông chừng một
trăm năm mươi năm sau cuộc phục hưng của thời Giô-na, khi nhà tiên tri ấy đã
khiến được Ni-ni-ve ăn năn “trong tro bụi.” Lòng nhân từ mà không được chú ý,
thì cuối cùng sẽ đưa đến sự đoán phạt.
Chắc lúc đó, dân
thành Ni-ni-ve đã thật lòng ăn năn, nhưng tình trạng ấy đã không tồn tại được
lâu. Họ lại sa vào cùng chính những tội lỗi mà họ từng ăn năn. Ni-ni-ve, vinh
quang của người A-sy-ri, đã đạt đến mức độ trở thành lời thách đố hoàn toàn cố
ý đối với Đức Chúa Trời hằng sống. Họ không phải chỉ là những kẻ sa ngã! Mà họ
cố ý chối bỏ Đức Chúa Trời mà họ từng tin nhận (II.Các Vua 18:25, 30, 35; 19:10-13).
Đức Chúa Trời đã sai Na-hum tiên báo số phận khủng khiếp cuối cùng và sự suy sụp hoàn toàn của Ni-ni-ve với đế quốc ấy. Đế quốc A-sy-ri đã được xây lên bằng bạo lực. Người A-sy-ri là những đại chiến sĩ. Họ luôn luôn đi ra chinh chiến để cướp bóc. Họ xây dựng quốc gia của họ bằng cách cướp phá các dân tộc khác. Họ làm mọi sự để gây khủng khiếp kinh hoàng. Họ bảo sở dĩ họ làm như vậy là vâng theo lời thần họ dạy bảo. Đức Chúa Trời đã định cho người A-sy-ri phải mai một đi cách tàn bạo và khác thường. Mọi điều đó đã xảy ra khoảng tám mươi sáu năm sau. Hãy đọc sự hung ác, tàn bạo như thú dữ của dân tộc ấy (Na-hum 2:11, 12).
Đức Chúa Trời đã sai Na-hum tiên báo số phận khủng khiếp cuối cùng và sự suy sụp hoàn toàn của Ni-ni-ve với đế quốc ấy. Đế quốc A-sy-ri đã được xây lên bằng bạo lực. Người A-sy-ri là những đại chiến sĩ. Họ luôn luôn đi ra chinh chiến để cướp bóc. Họ xây dựng quốc gia của họ bằng cách cướp phá các dân tộc khác. Họ làm mọi sự để gây khủng khiếp kinh hoàng. Họ bảo sở dĩ họ làm như vậy là vâng theo lời thần họ dạy bảo. Đức Chúa Trời đã định cho người A-sy-ri phải mai một đi cách tàn bạo và khác thường. Mọi điều đó đã xảy ra khoảng tám mươi sáu năm sau. Hãy đọc sự hung ác, tàn bạo như thú dữ của dân tộc ấy (Na-hum 2:11, 12).
A-sy-ri hưởng được
một thời gian sáng chói ba trăm năm. Đế quốc ấy đã cương quyền cả thế giới.
Ni-ni-ve là kinh đô của đế quốc hùng cường đó. Vào năm 721 T.C., nó hủy diệt
Y-sơ-ra-ên và đe dọa Giu-đa, nhưng Đức Chúa Trời thấy rõ là đế quốc ấy đã đến
ngày tàn. Thông điệp của Na-hum chứng tỏ Đức Chúa Trời có thể giải quyết một
dân tộc gian ác và phản loạn như thế nào. Ngài sẽ tận diệt họ.
Định mệnh khủng
khiếp dành cho thành phố Ni-ni-ve được triển hạn chừng một trăm năm mươi năm.
Sau ngày Giô-na công bố, nhưng cuối cùng rồi nó cũng sụp đổ. Lời tiên tri của
Na-hum không kêu gọi ăn năn, nhưng là lời khẳng định về một số phận khủng khiếp
chắc chắn và dứt khoát (1:9; 3:18, 19). Tên A-sy-ri sẽ
hoàn toàn bị tuyệt diệt (1:14). Đức Chúa Trời đã đào mồ để chôn nó.
Lời tiên tri của
Na-hum rất có thể đồng thời với những năm đầu của chức vụ Giê-rê-mi, có cùng sự
nhấn mạnh về sự phán xét của Đức Chúa Trời trên các nước. Nhưng ông tập trung
trên một thành phố ngoại giáo lớn đặc biệt là Ni-ni-ve (1:1), thủ đô của
A-sy-ri (3:18).
Đức Chúa Trời đã
dấy A-sy-ri lên để hình phạt dân sự của Ngài. Thành Ni-ni-ve bị sụp đổi trước
liên minh quân sự của Ba-by-lôn và Mê-đi vào năm 612 T.C.. Vì Na-hum nói tiên
tri có liên quan đến sự hủy diệt sắp đến của Ni-ni-ve, nên niên đại của lời
tiên tri phải trước năm 612 T.C.. Nhà tiên tri Na-hum tham khảo một biến cố lịch
sử nổi tiếng trong thời ông (3:8-10). Đây là sự hủy
diệt của thành Nô A-môn (tức Thebes), thủ đô cổ của Ai-cập, bởi quân đội
A-sy-ri năm 663 T.C.. Vậy, lời tiên tri Na-hum phải được nói giữa năm 663 T.C.
và năm 612 T.C..
II. SỨ ĐIỆP TIÊN
TRI NA-HUM
A. ĐỨC CHÚA TRỜI
LÀ VỊ THẨM PHÁN (1:1-7)
Trong Na-hum 1,
chúng ta thấy Đức Chúa Trời là Vị Thẩm Phán thánh khiết
ngồi trên ghế của tòa án trên thiên đàng, phán xử thành phố Ni-ni-ve gian ác.
Vụ án được trình bày. Đức Chúa Trời nầy là một Đức Chúa
Trời công bằng, do đó Ngài phải báo thù mọi tội ác.
Có hai điều được
tiết lộ về cá tính của vị Thẩm Phán của cả thế gian nầy. Có một câu khẳng định
các thuộc tính cao quí và đầy quyền năng của Đức Chúa Trời, cấu tạo thành phần
nền tảng cho mọi hành động của Ngài đối cùng loài người. Bài học nầy cho chúng
ta một cơ hội tuyệt vời để giới thiệu các thuộc tính của Đức Chúa Trời.
Khải tượng của
nhà tiên tri về Đức Chúa Trời trong Na-hum 1:2-7 cho thấy với tư
cách là Thẩm phán, Ngài là Đức Chúa Trời hay ghen, báo thù, đầy sự thạnh nộ
(furious); cưu giận (wrathful); có quyền lớn; chẳng cầm kẻ mắc tội là vô tội; tức
giận (indiguant). Với tư cách là Cha, thì Đức Chúa Trời chậm giận; tốt lành;
làm đồn lũy trong ngày hoạn nạn; biết những kẻ ẩn náu (nương cậy) nơi Ngài.
Bảy từ ngữ đầu của
khải tượng gợi lên nỗi kinh hoàng. Đức Giê-hô-va ghen và báo thù. Suy nghĩ về Đức
Chúa Trời như thế khiến chúng ta tự xét mình. Chúng ta sẽ thấy rằng trong người
chúng ta chẳng có đức công chính. Tư tưởng nầy phải đẩy chúng ta vào trong vòng
tay yêu thương của một Cứu Chúa vốn là Đấng “Khỏa lấp tội lỗi” chúng ta và mặc
vào cho chúng ta những chiếc áo dài của sự công chính của Ngài.
Xin chú ý là Đức Chúa Trời đã không hấp tấp giáng cơn phán xét của Ngài trên A-sy-ri. Ngài đã kiên nhẫn suốt một thời gian dài. Ngài chậm giận, nhưng rồi sẽ đem sự tàn hại đến. Ngài là một Đức Chúa Trời của công lý tuyệt đối. Ngài là Đức Giê-hô-va, là Giê-hô-va Đức Chúa Trời nhơn từ, thương xót, chậm giận, giàu ơn, kiên nhẫn và sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi. Thế nhưng Ngài chẳng cầm kẻ mắc tội là vô tội. Giô-na từng được ở trong mặt đầu tiên của cá tính nầy của Đức Chúa Trời, tức là tình yêu (Giô-na 4:2). Nhưng Na-hum còn nêu ra mặt thứ hai nữa, tức là phương diện thánh khiết của Đức Chúa Trời khiến Ngài phải đối phó với tội lỗi bằng biện pháp phán xét (Na-hum 1:2, 6). Vị Thẩm Phán thánh khiết nầy vốn công bằng, và là Đấng biện minh (kể là công chính) cho người tin vào Chúa Giê-xu (Rô-ma 3:26) vì Luật Pháp thánh khiết của Ngài đã được thập tự giá của Chúa Cứu Thế đền trả rồi.
Xin chú ý là Đức Chúa Trời đã không hấp tấp giáng cơn phán xét của Ngài trên A-sy-ri. Ngài đã kiên nhẫn suốt một thời gian dài. Ngài chậm giận, nhưng rồi sẽ đem sự tàn hại đến. Ngài là một Đức Chúa Trời của công lý tuyệt đối. Ngài là Đức Giê-hô-va, là Giê-hô-va Đức Chúa Trời nhơn từ, thương xót, chậm giận, giàu ơn, kiên nhẫn và sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi. Thế nhưng Ngài chẳng cầm kẻ mắc tội là vô tội. Giô-na từng được ở trong mặt đầu tiên của cá tính nầy của Đức Chúa Trời, tức là tình yêu (Giô-na 4:2). Nhưng Na-hum còn nêu ra mặt thứ hai nữa, tức là phương diện thánh khiết của Đức Chúa Trời khiến Ngài phải đối phó với tội lỗi bằng biện pháp phán xét (Na-hum 1:2, 6). Vị Thẩm Phán thánh khiết nầy vốn công bằng, và là Đấng biện minh (kể là công chính) cho người tin vào Chúa Giê-xu (Rô-ma 3:26) vì Luật Pháp thánh khiết của Ngài đã được thập tự giá của Chúa Cứu Thế đền trả rồi.
B. BẢN ÁN DÀNH
CHO NI-NI-VE (Na-hum 1:8-14)
Na-hum
1:8-14 nêu
rõ bản án về việc đánh và diệt thành phố Ni-ni-ve băng hoại. Nó bị để lên cân
và nhận thấy là khiếm khuyết. Bản án dành cho Ni-ni-ve, đó là: (1) bị kết án phải
tận diệt (1:8-9) (2)
bị bắt trong lúc những kẻ bảo vệ nó say sưa (1:10) (3)
tên bị xoá (1:14) (4) chính Đức Chúa Trời đào mồ cho nó 1:4).
Chúng ta không
thể đọc nó mà không run rẩy vì cớ tính cách nghiêm trọng của tất cả mọi việc
đó. Na-hum đã công bố sự hủy diệt nầy như một lời tiên tri. Ngày nay, chúng ta
nhìn vào nó như đã là lịch sử rồi. Phải, Đấng Phán Xét đã làm ứng nghiệm mọi việc
đó. Ngày nay, du khách nhìn thấy thành Ni-ni-ve của quá khứ đó vẫn còn nằm
trong đổ nát hoang tàn.
Quyển Sách nầy vẽ
ra cho chúng ta bức tranh về cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời. Hãy đọc lại câu thứ
hai một lần nữa “Giê-hô-va là Đức Chúa Trời ghen và báo thù; Đức Giê-hô-va báo
thù, và đầy sự thạnh nộ. Đức Giê-hô-va báo thù kẻ cừu địch mình và cưu giận cho
kẻ thù mình.” Đây là một bức tranh vẽ Đức Chúa Trời và là một Đức Chúa Trời
đang hành động trong cơn thịnh nộ. Chẳng có gì là thích thú khi được nghe nhắc
lại rằng Đức Chúa Trời là một Đức Chúa Trời của sự giận dữ cũng y như Ngài vốn
là một Đức Chúa Trời của tình yêu. Nhưng cần phải nhớ rằng cả hai thuộc tính ấy
đều vốn là của Ngài. Ngài là một Đức Chúa Trời thánh khiết. Ngài thù ghét tội lỗi.
Ngài sẽ giáng sự phán xét trên nó.
C. THI
HÀNH BẢN ÁN (Na-hum 2:1-13)
Hãy đọc những gì
Đức Chúa Trời đã phán trong hai chương sách ngắn ngủi nầy. Chúng ta thấy một bức
tranh về cuộc bao vây, thất thủ và cảnh hoang tàn của Ni-ni-ve. Tất cả những gì
Đức Chúa Trời có thể làm cho một dân tộc phản loạn và thách đố Ngài, là hủy diệt
nó.
Bức tranh về việc
bao vây, thất thủ của Ni-ni-ve và cảnh hoang vu tiếp theo đó đã được mô tả bằng
tài hùng biện như khắc như họa trong Na-hum 2 và 3. Đức Chúa Trời sẽ kết thúc
nó bằng một nạn lụt tràn ngập tất cả; tên nó sẽ hoàn toàn bị xoá sạch và Ngài sẽ
đào mồ cho nó. Việc các đạo quân tập họp chung quanh Ni-ni-ve, và các lực lượng
đồng loạt giày xéo bên trong thành phố đã được tả vẽ dường như nhà tiên tri khiến
những người nghe ông nhìn thấy tất cả các khung cảnh khủng khiếp của tấm thảm kịch
đó vậy!
Ngoài các vách
thành thì dân Mê-đi đã tập trung những chiếc thuẫn được vẽ thật sáng chói. Các
áo dài có màu điều. Gươm sáng loè, giáo nhấp nhoáng thật là khủng khiếp dưới
ánh mặt trời. Gang thép của xe cộ sáng ngời. Bên trong thành phố thì bọn ma cô
dắt mối đang ngự trị. Đã quá muộn rồi, các vua cố tìm cách lập liên minh với
các giới quý tộc nhằm bảo vệ cho thành phố yêu dấu đã trở tay không kịp. Sông
Ti-gơ-rơ còn gây ra một trận lụt quét sạch hầu hết bức tường thành mà đối với họ,
trông có vẻ như bất khả xâm chiếm. Việc nầy thêm kẻ thù cho họ. Nữ hoàng bị bắt
làm tù binh, và các cung nữ của nữ hoàng thì vây quanh bà ta để kêu khóc, như một
bầy bồ câu vậy!
Tiếng gọi nhau của
dân Mê-đi được nhiều người nghe thấy. Hãy cướp bạc, cướp vàng, vì của báu nó vô
ngần, mọi đồ đạc quí giá nhiều vô số. Thành phố bị cướp bóc, trong khi dân chúng
đứng đó với hai đầu gối chạm vào nhau vì sợ hãi. Ni-ni-ve không còn khiến được
các dân các nước sợ hãi nữa vì Đức Chúa Trời đã kết thúc nó. Việc nầy sẽ xảy đến
cho tất cả các dân các nước gian ác trên thế gian nầy.
Người Mê-đi và người Ba-by-lôn đã hoàn toàn tiêu diệt Ni-ni-ve năm 612 T.C.. Nó từng xuất hiện trên tột đỉnh vinh quang của thế lực của mình. Theo lời tiên tri của Na-hum, thì việc nó đã ứng nghiệm - một lần nước sông Ti-gơ-rơ dâng lên đột ngột đã cuốn đi phần lớn vách thành, giúp cho đạo quân của người Mê-đi và người Ba-by-lôn lật đổ nó luôn (2:6). Một phần của thành phố đã bị lửa hủy diệt (3:13, 15).
Đức Chúa Trời đã đào mồ cho Ni-ni-ve thật sâu và kiến hiệu đến nỗi mọi dấu vết về sự hiện hữu của nó đều biến mất qua nhiều thời đại và di chỉ của nó chẳng còn được ai biết đến. Lúc A-lịch-sơn đại đế đánh trận Arbela gần đó năm 331 T.C., vua ấy thậm chí không biết là tại đấy từng có một thành phố. Khi Xenophon và đạo quân 10.000 người chuyển qua gần đó khoảng 200 năm sau, ông ta tưởng các gò đống hoang tàn kia là một thành phố nào đó của dân Parthian (người Bạt-thê). Lúc Nã phá luân đóng trại gần di chỉ ấy, ông ta cũng chẳng hay biết gì cả.
Người Mê-đi và người Ba-by-lôn đã hoàn toàn tiêu diệt Ni-ni-ve năm 612 T.C.. Nó từng xuất hiện trên tột đỉnh vinh quang của thế lực của mình. Theo lời tiên tri của Na-hum, thì việc nó đã ứng nghiệm - một lần nước sông Ti-gơ-rơ dâng lên đột ngột đã cuốn đi phần lớn vách thành, giúp cho đạo quân của người Mê-đi và người Ba-by-lôn lật đổ nó luôn (2:6). Một phần của thành phố đã bị lửa hủy diệt (3:13, 15).
Đức Chúa Trời đã đào mồ cho Ni-ni-ve thật sâu và kiến hiệu đến nỗi mọi dấu vết về sự hiện hữu của nó đều biến mất qua nhiều thời đại và di chỉ của nó chẳng còn được ai biết đến. Lúc A-lịch-sơn đại đế đánh trận Arbela gần đó năm 331 T.C., vua ấy thậm chí không biết là tại đấy từng có một thành phố. Khi Xenophon và đạo quân 10.000 người chuyển qua gần đó khoảng 200 năm sau, ông ta tưởng các gò đống hoang tàn kia là một thành phố nào đó của dân Parthian (người Bạt-thê). Lúc Nã phá luân đóng trại gần di chỉ ấy, ông ta cũng chẳng hay biết gì cả.
Thành phố nầy
còn bị tố giác một lần nữa, do Sô-phô-ni đưa ra mấy năm sau đó (SoXp 2:13). Năm 612 T.C.,
tất cả đều đã ứng nghiệm. Sự tàn phá thật trọn vẹn đến nỗi mọi dấu vết về đế quốc
A-sy-ri đều đã biến mất. Nhiều học giả nghĩ rằng Thánh Kinh đã đề cập Ni-ni-ve
chỉ là huyền thoại. Dường như một thành phố như thế đã chẳng hề tồn tại bao giờ.
Năm 1845, Layard xác nhận những điều nghi ngờ của người Anh là Claud James
Rich, vào năm 1820 từng nghĩ rằng các gò đống từ Mosul nối dài đến sông
Ti-gơ-rơ là các tàn tích của Ni-ni-ve. Các đống đổ nát ấy vốn là của các cung
điện nguy nga tráng lệ của các vua A-sy-ri, và nhiều ngàn bảng có khắc chữ đã
được khai quật, cho chúng ta biết câu chuyện về A-sy-ri do chính người A-sy-ri
tự tay viết lấy. Thế là thủ đô huy hoàng của một đất nước giàu có nhất và thành
phố lộng lẫy nhất thế giới thời của nó đã được phát kiến, và phần ký thuật của
Thánh Kinh đã được xác nhận.
D. GIEO VÀ GẶT (Na-hum 3:1-19)
Ni-ni-ve đã gieo
gì, thì phải gặt nấy. Đó là luật Trời. Ni-ni-ve đã củng cố tăng cường để chẳng
gì có thể xâm bại nó được. Với những tường thành cao 30 m (90 feet) và rộng đủ
cho 4 chiến xa song hành, một chu vi 80 dặm, được trang hoàng bằng mấy trăm
tháp canh, nó ngồi khoanh tay tự mãn. Một đường hào rộng 40 m (140 feet) và sâu
gần 20 m (60 feet) vây quanh các vách thành rộng lớn ấy. Nhưng Ni-ni-ve đã chẳng
đếm xỉa gì đến Đức Giê-hô-va cả. Cho nên đối với Đức Chúa Trời tất cả chỉ là gạch
và hồ mà thôi! Đế quốc hùng cường với Sanh-ma-na-se, La-gôn và San-chê-ríp đó
đã dấy lên, để rồi Đức Giê-hô-va đánh đổ nó chỉ bằng một cái đánh nhẹ. Các phát
kiến của văn minh đều bất lực khi cần phải chống lại với đội pháo binh của
thiên đàng.
Ni-ni-ve chỉ
bóng về tất cả các dân tộc các nước đang quay lưng lại với Đức Chúa Trời. Trong
thời đại của chúng ta, nhiều nền văn minh kiêu hãnh đang đặt mọi sự dựa vào sức
người và máy móc, mà xem thường Đức Chúa Trời. Chúng ta đã thấy sở dĩ Ni-ni-ve
bị lật đổ là vì tội lỗi của nó (3:1-7); vã rằng sự
giàu có và sức mạnh của nó đã không đủ để cứu nó, (3:8-19). Các dân các
nước thường trông cậy vào thế và lực để tồn tại. Họ quên rằng ấy chẳng phải là
bởi quyền thế, cũng chẳng phải là bởi năng lực, bèn là bởi Thần Ta, Đức
Giê-hô-va vạn quân phán vậy (Xa-cha-ri 4:6). Người nào hay
đất nước dân tộc nào cố ý và cuối cùng chối bỏ Đức Chúa Trời, tức là cố ý để cuối
cùng phải nhận lấy số phận khủng khiếp. Cần cảnh giác đối với việc nầy.
Hãy nghe những lời
cảnh cáo của Thánh Phi-e-rơ nói mấy trăm năm sau đó. II.Phi-e-rơ 3:9-10 “Chúa không chậm
trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia tưởng đâu, nhưng Ngài lấy lòng nhịn
nhục đối với anh em, không muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi
người đều ăn năn. Song le, ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Bấy giờ các từng
trời sẽ có tiếng vang rầm mà qua đi, các thể chất bị đốt mà tiêu tán, đất cùng
mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả.”
Sách Na-hum có thể được chia cách dễ dàng làm 3 phần, mỗi chương là một phần. Chương 1 là lời tuyên bố rằng vì cớ những hành động gian ác của A-sy-ri và hình phạt Đức Chúa Trời sẽ dành cho thành Ni-ni-ve của họ. Chương 2 bao gồm một bài thơ đơn giản, mô tả sự bao vây thành Ni-ni-ve đã bắt đầu. Nó sẽ được theo sau bởi sự cướp phá (cc 7-10). Chương 3 cũng là một bài thơ sống động đơn giản. Trong đó đưa ra những lý do sự sụp đổ của thành Ni-ni-ve (c. 5).
Na-hum, giống
như các tiên tri tiền bối, tin nơi sự công bình của Đức Giê-hô-va (Na-hum 1:7). Vì cớ đó,
Ngài không thể nhìn xem tội cố ý. Ni-ni-ve đã cướp phá các nước và được lợi về
thương mại. Nhưng cả quân đội hùng hậu lẫn sự thành công về thương mại của
Ni-ni-ve đều sẽ không cứu nó khỏi sự phán xét của Đức Giê-hô-va, mà ở đây, như
các nhà tiên tri thường mô tả, được tiêu biểu bằng lửa (3:15).
SÁCH TIÊN TRI
ÁP-ĐIA
I. NHÀ TIÊN TRI
VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Sách ngắn nhất
trong Cựu Ước là sách tiên tri Áp-đia. Chúng ta chẳng biết được gì về nhà tiên
tri đã viết sách nầy. Tên "Áp-đia" có nghĩa là "Tôi Tớ của Đức
Giê-hô-va." Có nhiều tên Áp-đia trong Cựu Ước (chẳng hạn I.Các Vua 18:3-4) nhưng vì không
có các dữ kiện về tiểu sử được đưa ra trong lời tiên tri, nên chúng ta không thể
quy lời tiên tri này cho bất cứ Áp-đia nào.
Trong Tân Ước,
Lu-ca nói với Thê-ô-phi-lơ trong cả sách Phúc Âm lẫn sách Công Vụ Các Sứ Đồ.
Nghĩa đen của "Thê-ô-phi-lơ" là "Bạn của Đức Chúa Trời." Rất
có thể là "Thê-ô-phi-lơ" không phải là tên thật, nhưng đúng hơn là một
"bút danh" hay "bí danh" mô tả ông thuộc hạng người nào.
Tương tự, tên "Áp-đia" có thể đơn giản là sự mô tả khiêm tốn về tác
giả, tự nhận mình là "Tôi Tớ của Đức Giê-hô-va.” Và vì thế có lẽ là một bí
danh.
Trong khi chúng
ta không biết gì về tác giả, thì bối cảnh và mục đích của lời tiên tri khá rõ ràng.
Lời tiên tri là một sự cảnh cáo đối với Ê-đôm, trước khi sự hủy diệt nó xảy ra.
Một cách ngẫn nhiên, một số câu tương đồng được tìm thấy trong sách Giê-rê-mi,
dù được ký thuật trong một thứ tự khác (so sánh Áp-đia 1:1- 4, 5- 6, 8- 9 và Giê-rê-mi 49:7b, 22b, 9-10, 14-16). Điều này cho
thấy sự liên quan giữa Giê-rê-mi và Áp-đia. Như chúng ta đã biết, Na-hum đã xuất
hiện đúng vào buổi đầu của chức vụ Giê-rê-mi, Áp-đia xuất hiện ngay sau đó.
Một sự kiện lịch
sử là lúc người Do Thái trở về từ lưu đày, năm 538 T.C., người Ê-đôm đã bị đuổi
ra khỏi quê hương của họ bởi các chi phái Á-rập lân bang. Vậy, sách Áp-đia phải
được viết vào giữa năm 586 T.C. và 538 T.C..
Nhưng điểm đáng
chú ý hơn hết trong lời tiên tri Áp-đia là người Ê-đôm đã đạt đến tột đỉnh một
lịch sử lâu dài thù nghịch với dân Y-sơ-ra-ên, bởi hành động của họ lúc
Giê-ru-sa-lem sụp đổ. Một thí dụ điển hình được tỏ ra trong sự không giúp đỡ
"anh em Y-sơ-ra-ên" của họ được ghi trong Dân số ký 20:14-21. Sự thù nghịch
kéo dài nhiều năm này luôn được các nhà tiên tri mô tả và kết án. Dần dần chúng
ta được Áp-đia dẫn đến những ý tưởng về tương lai xa hơn: "Ngày của Đức
Giê-hô-va" được dự ngôn ở câu 15.
Về phía nam Biển
Chết và tại biên giới phía Tây của cao nguyên A-ra-bi có một rặng núi đá đỏ
cheo leo và có nhiều đỉnh, được gọi là Sê-i-rơ. Đó là nơi Ê-sau đến định cư sau
khi ông bán quyền trưởng nam cho em mình là Gia-cốp. Sau khi đánh đuổi người
Hô-rít (Sáng thế ký 14:5-6), ông chiếm cả miền núi đó. Sê-la hay Petra, nghĩa
là “Đá” là kinh đô của họ. Petra là một trong các kỳ quan của thế giới. Đó là một
thành phố có một không hai thuộc loại công việc do tay người ta làm nên. Nó ngất
nghễu trên cao như “ổ chim ưng” (Ap 4) giữa miền núi non rất khó đạt tới. Con
đường duy nhất dẫn đến thành phố ấy là một khe đá sâu, dài hơn một dặm, mà hai
bên là những vách đá cheo leo cao hơn 200 m (700 feet). Phần lớn nhà ở tại đó đều
là những hang đá đục trong sa thạch mềm màu đỏ (Ap 3,6), và được xếp đặt tại những
vị trí mà bạn khó tin là chân người có thể leo lên. Ngày nay thành phố này được
mệnh danh là “thành phố trầm lặng của quá khứ đã bị quên lãng”
Dân Ê-đôm là hậu
duệ của Ê-sau. Họ thường đi ra thành từng đoàn để cướp phá, rồi rút về các đồn
lũy bất khả xâm phạm của họ để nuôi dưỡng trong lòng một mối thù cay đắng đối với
người Do Thái - một mối thù đã bắt đầu giữa Gia-cốp với Ê-sau. Họ chẳng bao giờ
quên tiếp tay với bất cứ một đạo quân nào kéo đến tấn công dân Do Thái. Dưới thời
các vua Ma-ca-bê, họ trở thành những kẻ thù khó chịu cho người Do Thái. Trong
thời Chúa Giê-xu, nhờ Hê-rốt, họ được cầm quyền trên xứ Giu-đê. Sau khi
Giê-ru-sa-lem bị Titus phá hủy năm 70 S.C., họ cùng biến mất khỏi các trang sử
ký.
II. SỨ ĐIỆP TIÊN
TRI ÁP-ĐIA
Đây là quyển
sách ngắn nhất trong cả Cựu Ước, chỉ gồm 21 câu, nhưng lại chứa đựng hai chủ đề
quan trọng: số phận của kẻ kiêu ngạo, phản loạn, và sự giải cứu người nhu mì,
khiêm nhường. Một số học giả đã gọi sách Áp-đia là "Bài ca của sự thù
ghét". Tương tự có thể nói về sách Na-hum như thế.
Sách nói thẳng với
Ê-đôm và Si-ôn mà đại diện là Ê-sau với Gia-cốp, hai con trai của Y-sác. Nhưng
sách cũng kêu gọi mọi người chúng ta với hai bản tính: bản tính thuộc về đất,
mà Ê-sau là đại diện ở một bên, vốn rất kiêu ngạo, rất liều lĩnh, và bản tính
thuộc linh mà Gia-cốp là đại diện, gây cay đắng trong gia đình, đưa chúng ta trở
về với thời của hai anh em Gia-cốp và Ê-sau, được mở ra trước mắt chúng ta.
A. SỐ PHẬN KHỦNG
KHIẾP CỦA Ê-ĐÔM (Áp-đia 1:1-16).
Chúng ta thấy cơ
hội khiến lời tiên tri nầy được công bố khi đọc Ap-đia 1:11: “Trong ngày
người lạ cướp của cải đó, dân ngoại quốc vào các cửa thành nó, và bắt thăm trên
thành Giê-ru-sa-lem, thì trong ngày ấy, ngươi (Ê-đôm) đứng bên kia, ngươi cũng
như một người trong chúng nó.” Chắc đó là ngày kinh hoàng, khi Nê-bu-cát-nết-sa
đánh chiếm Giê-ru-sa-lem và khiến nó trở thành một đống hoang tàn. Người Ê-đôm
đã tiếp tay với quân xâm lăng bằng cách chận bắt số dân Y-sơ-ra-ên chạy trốn, đối
xử tàn ác với họ, và bán họ làm nô lệ.
Lời tiên tri nầy
được viết ra vì cuộc liên minh chống lại Giê-ru-sa-lem đó, mà Ê-đôm đã đứng về
phía quân thù (1:7-14). Lời tiên tri của một nhân vật không ai biết, tên
Ap-đia, nghĩa là “một người thờ phượng Đức Giê-hô-va”, đã nhắm vào dân tộc ấy.
Ê-đôm đã đứng mà nhìn trong khi Giê-ru-sa-lem bị cướp phá. Dường như họ, đã tỏ
vẻ thích thú quái ác trước tai họa đang giáng trên dân cư Giê-ru-sa-lem.
Chúng ta đọc thấy
lời tố giác thói vị kỷ, dửng dưng và giờ đây là tinh thần đố kỵ của dân Ê-đôm
lân cận. Nước nầy khư khư giữ lấy thái độ của Ê-sau, vẫn làm mặt xa lạ, để cho
Giê-ru-sa-lem bị cướp phá. Nó thậm chí còn dự vào việc phá hủy và đến để nhận
phần chiến lợi phẩm của mình nữa.
Đức Chúa Trời
truyền lịnh cho dân Y-sơ-ra-ên: “Chớ lấy làm gớm ghiếc người Ê-đôm, vì là anh
em mình. Cũng chớ lấy làm gớm ghiếc người Ê-díp-tô, vì ngươi đã làm khách trong
xứ người,” Nhưng Ê-đôm đã chứng tỏ lòng oán hận khôn nguôi đối với dân
Y-sơ-ra-ên kể từ lúc dân Y-sơ-ra-ên bị chối từ không cho mượn đường để đi ngang
qua xứ ấy trên đường họ vào xứ Ca-na-an (Dân số ký 20:14-21) cho đến ngày
Giê-ru-sa-lem bị dân Canh-đê phá hủy, khi Ê-đôm reo lên: “Hãy hủy hoại, hãy hủy
hoại cho đến tận nền nó đi!” (Thi thiên 137:7).
Vì cớ lòng kiêu
ngạo và mối hận thù tàn bạo của Ê-đôm, nó đã bị lên án để sẽ bị phá hủy hoàn
toàn (Áp-đia 1:3,
4, 10). Chẳng có gì cứu
nổi dân tộc đã phạm lỗi ấy. Năm năm sau ngày Giê-ru-sa-lem bị phá hủy, dân
Ê-đôm bị kéo ra khỏi những ngôi nhà bằng đá của họ, khi Nê-bu-cát-nết-sa đánh
tan quân đội Ê-đôm để vượt qua thung lũng A-ra-ba, là con đường có tính cách
quân sự dẫn đến Ai-cập. Họ không còn tồn tại như một dân tộc nữa vào khoảng năm
150 T.C., rồi tên họ, cũng bị mai một luôn lúc Giê-ru-sa-lem bị người La-mã
đánh chiếm “Người ta sẽ làm cho ngươi như chính mình ngươi đã làm” (c.15).
B. SỰ GIẢI CỨU
SI-ÔN (Ap-đia 17-21)
Sách kết thúc bằng
lời hứa giải cứu Si-ôn “Và nhà Gia-cốp sẽ được sản nghiệp mình” (c.17). Bước đầu
tiên trong việc tái lập tương lai cho dân Do Thái là việc phục hồi những gì vốn
thuộc về họ trước đó. Tuyển dân của Đức Chúa Trời vừa bị Nê-bu-cát-nết-sa bắt
đưa đi đày; xứ thánh địa hoang vu; và Đức Chúa Trời đã bảo cho Ê-đôm biết số phận
của nó. Giê-rê-mi từng rao truyền cùng một lời tiên tri nầy trong chương 49. Có
lẽ cả Giê-rê-mi lẫn Ap-đia đều đã nói về những điều nầy rất nhiều lần. Năm năm
sau đó, Ê-đôm đã thất thủ trước cùng một dân Ba-by-lôn mà nó đã trợ giúp. Số phận
của nó sẽ dường như là nó chưa hề tồn tại vậy. Nghĩa là bị nuốt mất vĩnh viễn.
Đây là lời tiên tri nghịch cùng Ê-đôm. Dân Y-sơ-ra-ên sẽ từ chỗ ngã xuống hiện
tại chổi dậy. Họ sẽ chiếm hữu chẳng những đất đai của họ, mà cả xứ Phi-li-tin
và Ê-đôm nữa. Cuối cùng, họ sẽ vui mừng trong sự trị vì thánh khiết của Đấng Mết-si-a
đã hứa. Tuyển dân của Đức Chúa Trời là người Do Thái sẽ được cơ nghiệp của họ,
mà trong đó, phần đất thân yêu nhất đối với họ là Thánh Địa. Cũng như các nhà
tiên tri khác, Ap-đia báo trước ngày sắp đến của Chúa, và việc thiết lập nước của
Đấng Mết-si-a.
Cũng phải nhớ rằng
Cơ-đốc nhân là người thừa kế các lời hứa sẽ ứng nghiệm khi Chúa Cứu Thế tái
lâm. Người tín hữu sẽ có được mọi sự trong Chúa Cưú Thế (Đọc II.Cô-rinh-tô 6:10).
Việc Đức Chúa Trời
đoán phạt xứ Ê-đôm như kẻ thù rõ rệt của Y-sơ-ra-ên, đáng là lời cảnh cáo cho
các dân các nước ngày nay rằng Đức Chúa Trời vẫn không từ bỏ dân Ngài, và dân tộc
nào áp bức họ, chắc chắn sẽ bị Ngài đoán phạt (Sáng thế ký 12:3).
SÁCH TIÊN TRI
HA-BA-CÚC
I. NHÀ TIÊN TRI
VÀ BỐI CẢNH
Ha-ba-cúc là một
trong những nhà tiên tri của thế kỷ thứ bảy T.C.. Chúng ta không được biết gì về
ông, ngoại trừ những gì được nói đến ở Ha-ba-cúc 1:1.
Thế kỷ thứ bảy
T.C. là thời kỳ của sự bất ổn và lo sợ A-sy-ri đã là cường quốc lớn, đe dọa tất
cả các nước. Khi nó suy yếu, nó được thay thế bởi Ba-by-lôn, tàn bạo, gian ác
và "đế quốc" như A-sy-ri. Các quốc gia nhỏ hơn phải thần phục.
Một biến cố lịch
sử trong sách được đề cập ở 1:5-6. Đức Chúa Trời dấy lên người Canh-đê (đồng
nghĩa với người Ba-by-lôn). Người Ba-by-lôn đã bắt đầu trở lại quyền lực từ độ
năm 627 T.C., khi họ nổi lên chống lại người A-sy-ri. Sự dấy lên của người
Ba-by-lôn xảy ra khoảng giữa năm 627 và 605 T.C.. Đến lúc đó, họ đã chinh phục
A-sy-ri và Ai-cập và đã kiểm soát một cách vững chắc. Vậy, niên đại của lời
tiên tri Ha-ba-cúc là 627-605 T.C..
Cũng như nhiều
người ngày nay, ông không dung hòa được niềm tin của mình về một Đức Chúa Trời
nhân từ, công nghĩa với các sự thật về cuộc đời diễn ra trước mắt. Ông rất bối
rối với thắc mắc “Tại sao” muôn đời. Ngay đến ngày nay, một người có đức tin vẫn
cảm thấy bối rối trước nhiều việc đang xảy ra quanh mình. Chúng ta hỏi: “Tại
sao Đức Chúa Trời lại để cho những tội ác khủng khiếp như vậy xảy ra mà không
ngăn chận? Nếu Đức Chúa Trời là Đấng Toàn Năng, tại sao Ngài lại không chận đứng
loài người lại trong việc đâm đầu vào sự ngông cuồng của họ?”
Vấn đề “Tại sao kẻ ác lại được hưng vượng” đã được đem ra thảo luận. Dường như nó hàm chứa một lời than phiền là Đức Chúa Trời lại để cho một dân tộc vô cùng gian ác hơn, hủy diệt chính dân Ngài vì sự gian ác của họ (1:13). Chúng ta còn thấy cả lời than phiền của nhà tiên tri, là Đức Chúa Trời đã thiếu công bằng trong việc điều khiển thế giới. Tại sao Ngài lại im lặng trong cơn tàn hại? (1:13)
Vấn đề “Tại sao kẻ ác lại được hưng vượng” đã được đem ra thảo luận. Dường như nó hàm chứa một lời than phiền là Đức Chúa Trời lại để cho một dân tộc vô cùng gian ác hơn, hủy diệt chính dân Ngài vì sự gian ác của họ (1:13). Chúng ta còn thấy cả lời than phiền của nhà tiên tri, là Đức Chúa Trời đã thiếu công bằng trong việc điều khiển thế giới. Tại sao Ngài lại im lặng trong cơn tàn hại? (1:13)
Với tất cả những
khó khăn đó đè nặng trong lòng, Ha-ba-cúc đã đến với Đức Chúa Trời bằng lời cầu
nguyện, và nhẫn nhục chờ đợi Ngài trả lời (2:1). Ông leo lên trên tháp canh để
nghe tiếng phán của Đức Chúa Trời. Tấn sĩ Morgan bảo rằng Ha-ba-cúc đã gặp bối
rối khi ông nhìn vào hoàn cảnh quanh mình (1:3), nhưng khi ông chờ đợi và nghe
tiếng phán của Đức Chúa Trời, thì ông đã hát lên (3:18, 19).
Ha-ba-cúc là một nhà tiên tri (1:1), nhưng chúng ta còn thấy một điều đáng chú ý khác nữa nơi ông. Ông là một ca sĩ trong ca đoàn của người Lê-vi tại đền thờ (3:19) hay giúp việc sắp xếp sự thờ phượng ở đó.
Ha-ba-cúc là một nhà tiên tri (1:1), nhưng chúng ta còn thấy một điều đáng chú ý khác nữa nơi ông. Ông là một ca sĩ trong ca đoàn của người Lê-vi tại đền thờ (3:19) hay giúp việc sắp xếp sự thờ phượng ở đó.
Căn cứ vào lời lẽ
của ông, chúng ta càng được biết nhiều hơn về ông với tư cách một tư tưởng gia
và một người có đức tin. Ông sống đồng thời với Giê-rê-mi tại quê nhà, và với
Đa-ni-ên tại Ba-by-lôn.
Đế quốc bá chủ cả
thế giới của người A-sy-ri đã sụp đổ đúng như lời Na-hum nói tiên tri. Bấy giờ,
Ai-cập và Ba-by-lôn đang tranh nhau quyền bá chủ. Trong trận Cạt-kê-mít, 605
T.C. mà vua Giô-si-a bị tử trận, người Ba-by-lôn đã chiến thắng, và hai đại
vương quốc của người Ba-by-lôn và người Canh-đê được thống nhất dưới thời
Nê-bu-cát-nết sa. Ha-ba-cúc biết quá rõ rằng xứ Giu-đa sẽ sụp đổ trước đại cường
quốc đang lên đó. Nhưng một câu hỏi đã nẩy sinh trong trí ông, khiến ông vô
cùng bối rối. Tại sao lại để cho một dân tộc tàn ác như Ba-by-lôn chinh phục một
dân tộc ít gian ác hơn như người Giu-đa? Theo ý ông, thì dường như đây đúng là
vấn đề về một điều ác thấp hơn điều ác. Như vậy thì có ích lợi gì? Đức Chúa Trời
phải bày tỏ kế hoạch tối hậu của Ngài. Xứ Giu-đa cần bị trừng phạt. Đức Chúa Trời
đang lợi dụng Ba-by-lôn để sửa trị Giu-đa, nhưng rồi cũng sẽ đến lượt của
Ba-by-lôn. Nó sẽ hoàn toàn bị xóa tên. Còn về dân sự của Đức Chúa Trời, thì sẽ
có một tương lai huy hoàng và một vương quốc trong đó chính Đức Giê-hô-va sẽ cầm
quyền tể trị.
Sách nầy
dường như là một cuộc đối thoại giữa Đức Chúa Trời với nhà tiên tri. Có hai cuộc đàm
đạo đã được ghi lại, là sách kết thúc bằng một bài thánh ca tôn vinh Đức Chúa
Trời, cho biết mọi thắc mắc đều đã được giải đáp, và nhà tiên tri có một lòng
tin cậy mới mẻ vào Đức Chúa Trời.
II. NỘI DUNG VÀ
SỨ ĐIỆP TIÊN TRI HA-BA-CÚC
A. VẤN NẠN CỦA
HA-BA-CÚC (Ha-ba-cúc 1:1-17)
Sân khấu mở màn
với tiếng kêu của một người gặp một vấn đề mà mình không giải quyết nổi: “Hỡi Đức
Giê-hô-va tôi kêu van mà Ngài không nghe tôi cho đến chừng nào?” (1:1-4)
Ha-ba-cúc đang bấn
loạn và bối rối. Với ông thì dường như Đức Chúa Trời chẳng làm gì cả để gỡ rối
cho tình hình trên thế gian. Ông từng sống dưới những ngày đại cải cách của vua
Giô-si-a làm điều thiện. Ông từng thấy cường quốc A-sy-ri suy tàn và Ba-by-lôn
dưới thời Nê-bu-cát-nết-sa dấy lên chiếm địa vị tối cao. Thế giới chung quanh
ông đang chổi dậy. Bạo lực lan tràn, mà Đức Chúa Trời thì chẳng làm gì để ngăn
chận nó cả.
Nhưng càng tệ hại
hơn nữa, là ông nhìn thấy chính đất nước của ông là xứ Giu-đa, đang tràn ngập
tình trạng vô luật pháp và độc tài. Người công chính bị áp bức (1:4, 13). Dân chúng
đang công khai phạm tội. Họ thờ thần tượng (2:18-19). Họ áp bức bóc
lột kẻ nghèo. Ha-ba-cúc biết rõ thời kỳ nầy thật là đen tối. Ông biết rằng tội
lỗi đang dẫn đường cho một kẻ thù mạnh mẽ xâm lăng Giê-ru-sa-lem.
Ha-ba-cúc đã đặt
vấn đề của ông về Đức Chúa Trời. Ông không triệu tập một ủy ban hay thành lập một
hiệp hội để giải quyết vấn đề của thời đại ấy. Ông đã đến thẳng với Đức
Giê-hô-va và nêu ra vấn đề của mình. Và rồi Đức Chúa Trời đã đáp lời “Hãy nhìn
trong các nước và xem, hãy lấy làm lạ và sững sờ! Vì ta đang làm ra trong ngày
các ngươi một việc, mà dầu có ai thuật lại cho các ngươi, các ngươi cũng không
tin” (1:5).
Đức Chúa Trời đã bảo với Ha-ba-cúc rằng Ngài không dửng dưng với dân mình. Ngài
muốn Ha-ba-cúc hãy nhìn xa hơn hiện tại. Ngài đã hành động rồi. Ngài đã gọi dân
Canh-đê cho công việc trừng phạt xử Giu-đa. Họ là một ngọn roi tàn bạo sẽ tràn
vào trong xứ để hủy diệt nó (1:5-11).
Câu trả lời của
Đức Chúa Trời khiến Ha-ba-cúc kinh hoàng. Ông không thể hiểu nổi tại sao Đức
Chúa Trời lại cho phép những phương tiện đáng sợ như thế xảy đến để trừng phạt
dân Ngài, là dân Giu-đa. Làm thế nào Ngài lại có thể dùng một ngọn roi tàn bạo
như thế? Có thể nào Đức Chúa Trời lại dùng một kẻ thù tàn ác như thế để trừng
phạt chính dân Ngài, khi bản thân Ngài vốn tinh sạch và thánh khiết? Hãy lắng
nghe lời thách thức Đức Chúa Trời của Ha-ba-cúc là hãy biện hộ cho các hành động
của Ngài (1:13).
Các dân các nước
luôn luôn là những bài học cụ thể mà Đức Chúa Trời bày tỏ các quy luật đạo đức
của Ngài (1:12).
B. LỜI ĐÁP CỦA ĐỨC
CHÚA TRỜI (2:1-20)
Lúc bức màn kéo
lên, chúng ta thấy Ha-ba-cúc đang trực diện với khoảnh khắc quan trọng nhất
trong đời ông. Hãy theo dõi ông lúc ông lên chiếc thang của tháp canh để chờ đợi
Đức Chúa Trời. Ông trông đợi Đức Chúa Trời sẽ trả lời cho ông (2:1).
Chung quanh nhà tiên tri, tất cả đều đổ nát hoang tàn. Canh-đê, sắp tràn đến để tiêu diệt nốt những gì còn lại. Chỉ còn một mình Đức Chúa Trời là Đấng ông có thể trông nhờ, cho nên ông nóng lòng chờ đợi Ngài. Và Đức Chúa Trời đã trả lời ông (2:2-20). Đức Chúa Trời thừa nhận sự gian ác của người Canh-đê, nhưng tuyên bố rằng rồi đây, cuối cùng thì chính sự tàn ác của họ sẽ tự tiêu diệt họ. Kiêu ngạo và tàn ác của họ sẽ tự tiêu diệt họ. Kiêu ngạo và tàn ác bao giờ cũng đem đến sự hủy diệt. Nhiều khi loài người phải chờ đợi để biết kết cuộc sẽ ra thể nào. Nhiều khi Đức Chúa Trời phải nhờ đến nhiều thời đại để vạch rõ cho người ta thấy các kế hoạch của Ngài “Hỡi kẻ rất yêu dấu, chớ nên quên rằng ở trước mặt Chúa một ngày như ngàn năm, ngàn năm như một ngày” (II.Phi-e-rơ 3:8). Trắc nghiệm của Đức Chúa Trời bao giờ cũng vạch trần cho thấy con người ta như thế nào. Ngài thiêu hủy chất cặn bã. Thoạt nhìn thì có vẻ như người Canh-đê đang tạm thời được hưng thịnh, nhưng số phận của họ đã bị đoán định rồi. Người công bình thì sống bởi đức tin mình. Ha-ba-cúc 2:4 là trọng tâm của quyển sách.
Chung quanh nhà tiên tri, tất cả đều đổ nát hoang tàn. Canh-đê, sắp tràn đến để tiêu diệt nốt những gì còn lại. Chỉ còn một mình Đức Chúa Trời là Đấng ông có thể trông nhờ, cho nên ông nóng lòng chờ đợi Ngài. Và Đức Chúa Trời đã trả lời ông (2:2-20). Đức Chúa Trời thừa nhận sự gian ác của người Canh-đê, nhưng tuyên bố rằng rồi đây, cuối cùng thì chính sự tàn ác của họ sẽ tự tiêu diệt họ. Kiêu ngạo và tàn ác của họ sẽ tự tiêu diệt họ. Kiêu ngạo và tàn ác bao giờ cũng đem đến sự hủy diệt. Nhiều khi loài người phải chờ đợi để biết kết cuộc sẽ ra thể nào. Nhiều khi Đức Chúa Trời phải nhờ đến nhiều thời đại để vạch rõ cho người ta thấy các kế hoạch của Ngài “Hỡi kẻ rất yêu dấu, chớ nên quên rằng ở trước mặt Chúa một ngày như ngàn năm, ngàn năm như một ngày” (II.Phi-e-rơ 3:8). Trắc nghiệm của Đức Chúa Trời bao giờ cũng vạch trần cho thấy con người ta như thế nào. Ngài thiêu hủy chất cặn bã. Thoạt nhìn thì có vẻ như người Canh-đê đang tạm thời được hưng thịnh, nhưng số phận của họ đã bị đoán định rồi. Người công bình thì sống bởi đức tin mình. Ha-ba-cúc 2:4 là trọng tâm của quyển sách.
Trong khi Na-hum
tuyên cáo số phận của người A-sy-ri và những người Y-sơ-ra-ên có lẽ cũng đã vui
mừng về sự sụp đổ của nó, thì Ha-ba-cúc đã quan ngại. Ha-ba-cúc phải chờ đợi một
cách kiên nhẫn câu đáp của Đức Chúa Trời. Câu đáp chưa rõ ràng, nhưng nó sẽ rõ.
Sứ điệp trọng tâm của câu trả lời là: Người gian ác hoặc bất chính sẽ không thể
tồn tại. Nhưng người công chính sẽ tồn tại, nếu người có đức tin. Đây là câu
chìa khóa của sách (2:4b), là bí quyết để người công chính có thể sống một
cách đích thực, trong ý nghĩa đặc biệt về sự vui hưởng đặc ân của Đức Chúa Trời
trong mọi hoàn cảnh.
Có một câu trong
sách Ha-ba-cúc vốn có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử của công cuộc cải chánh.
Martin Luther đang khi bò lên các bậc cấp của cây Thang Thánh (Scale Sancta) tại
Rô-ma ông đã nhớ lại câu “Người công bình thì sống bởi đức tin mình” (2:4) và điều nầy đã
khiến ông bắt đầu cuộc thánh chiến vĩ đại dẫn đến cuộc cải chánh. Ha-ba-cúc 2:4 đã được trích dẫn
trong Rô-ma 1:17;
GaGl 3:11; HeDt 10:38.
Ha-ba-cúc 2:14, 20 là những bày tỏ
của đức tin và lòng tin cậy mặc dù sự kiêu căng tự phụ, bạo ngược của người
Ba-by-lôn. Chính hai câu này và phần còn lại của 2:6-20 cung cấp câu trả
lời cho câu hỏi của Ha-ba-cúc: Kẻ ác rồi sẽ bại vong. Chỉ có người công chính mới
tồn tại trước mặt Đức Chúa Trời.
C. BÀI CA CỦA
HA-BA-CÚC (3:1-19)
Chương 3 như chúng ta đã biết, là một lời cầu nguyện của Ha-ba-cúc, trong hình thức một thi thiên. Bài thơ ngắn ngủi nầy đã được phổ nhạc và hát vào giờ thờ phượng công cộng của người Do Thái.
Chương 3 như chúng ta đã biết, là một lời cầu nguyện của Ha-ba-cúc, trong hình thức một thi thiên. Bài thơ ngắn ngủi nầy đã được phổ nhạc và hát vào giờ thờ phượng công cộng của người Do Thái.
Trong lời cầu
nguyện của Ha-ba-cúc (3:2), Ha-ba-cúc xin Đức Chúa Trời làm mới lại công việc
này, để làm lại lần nữa những gì Ngài đã làm trước đó, để bày tỏ sự thương xót
trên dân sự Ngài, mặc dù họ đáng bị phán xét. Chúng ta phải nhớ rằng ở 1:5-11, Đức Chúa Trời
đã "hứa" rằng đáp lại sự bạo ngược của Giu-đa sẽ là ngay cả sự bạo
ngược lớn hơn của người Canh-đê. Đây khó có thể là một sứ điệp an ủi. Nó có
nghĩa là sự đau khổ lớn cho quốc gia mà Ha-ba-cúc là một thành viên. Vì vậy, lời
cầu nguyện của Ha-ba-cúc thực sự là một lời cầu xin sự thương xót, sự buông tha
khỏi sự phán xét, vì Đức Chúa Trời lập lại những hành động của Ngài trong quá
khứ.
Trong 3:3-15, Ha-ba-cúc mô tả
công việc Đức Chúa Trời đã làm trong quá khứ như thể trong hiện tại, như ông
"đang thấy" nó đang xảy ra. Tại đây chúng ta thấy nhà tiên tri mô tả
trong thể thơ về các hành động, chiến thắng và giải cứu đầy quyền năng của Đức
Chúa Trời, đã xảy ra lúc Y-sơ-ra-ên xuất Ai-cập.
Trong 3:6, nhà tiên tri
đã dùng 6 động từ cho thấy phản ứng tức thì của ông. Nó dường như có ảnh hưởng
đến toàn thân của ông. Ha-ba-cúc bị đè nặng bởi khải tượng, với nỗi sợ hãi, ngạc
nhiên về sự nhắc nhở này về quyền năng của Đức Chúa Trời. Bây giờ Ha-ba-cúc sẵn
sàng chờ đợi, cho đến khi mục đích của Đức Chúa Trời được thành tựu. Nhưng điều
này có lẽ không dễ làm. Đó là lý do tại sao chúng ta cũng cần xem những lời xác
tín ở 3:17-19.
Trạng thái của Ha-ba-cúc ở đây hoàn toàn khác với trạng thái thắc mắc và phàn
nàn của ông ở chương 1. Có thể sự mặc khải về quyền năng của Đức Chúa Trời đã
ban cho ông một nền tảng mới cho đức tin. Bây giờ ông có những câu trả lời cho
các câu hỏi của ông.
Sau một bài cầu
nguyện thành tâm (3:1-16) vinh quang của Đức Chúa Trời xuất hiện. Đức Chúa
Trời luôn luôn đáp lại lời cầu cứu của dân (người thuộc về) Ngài. Ha-ba-cúc nhận
thức được rằng Đức Chúa Trời đang nắm quyền kiểm soát vũ trụ nầy, và Ngài vẫn
hoàn thành các chủ đích của mình theo đúng kỳ định của Ngài. Ha-ba-cúc học biết
được rằng tự thâm tâm, ông có thể tin cậy Đức Chúa Trời. Ông nhận thức được rằng
mỗi lần ông chỉ nhìn thấy được một phần nhỏ bé của kế hoạch của Đức Chúa Trời
mà thôi. Phải chờ đợi Đức Chúa Trời trình bày cả chương trình của Ngài. Phải biết
rằng đường lối của Đức Chúa Trời là toàn hảo. Mỗi nhà tiên tri đáp ứng khác
nhau đối với cuộc khủng hoảng: Na-hum tập chú vào sự sụp đổ của A-sy-ri, dấu hiệu
của sự công bình của Đức Chúa Trời. Giê-rê-mi rao giảng sự phán xét của Đức
Chúa Trời trên Giu-đa, một sứ điệp không được ưa thích. Còn Ha-ba-cúc lại đặt
các vấn đề: Đức Chúa Trời đang làm gì? Tại sao Ngài làm điều đó? Thái độ của
người công chính đáng phải có là gì?
Đức Chúa Trời
không luôn luôn đáp lời thật thỏa đáng cho chúng ta vì tâm trí giới hạn của
chúng ta không lãnh hội được các tư tưởng về cõi vô hạn. Các tư tưởng của Ngài
vốn cao hơn tư tưởng của chúng ta, các đường lối Ngài cao hơn đường lối chúng
ta” (Ê-sai 55:9),
nhưng chúng ta có thể luôn luôn tin cậy Ngài! “ Vả, chúng ta biết rằng mọi sự
hiệp lại làm ích cho kẻ yếu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn
Ngài đã định” (Rô-ma 8:28).
SÁCH TIÊN TRI
A-GHÊ
I. NHÀ TIÊN TRI
VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Phần đông các
nhà tiên tri của Cựu Ước đã nói tiên tri trước giai đoạn lưu đày. Ê-xê-chi-ên
và Đa-ni-ên thi hành chức vụ trong thời gian lưu đày. Ba sách A-ghê, Xa-cha-ri
và Ma-la-chi là những sách tiên tri sau cùng. Tất cả các nhà tiên tri ấy đều
thuộc về giai đoạn hậu lưu đày. Các vị tiên tri này đã rao giảng cho người Do
Thái sau khi họ trở về Giê-ru-sa-lem. Sau khi hồi hương, có các nhân vật sau
đây nói tiên tri: A-ghê, Xa-cha-ri và Ma-la-chi. Như vậy, bạn sẽ dễ nhớ hơn.
Trong thời gian lưu đày, có hai nhà tiên tri, sau cuộc lưu đày có ba người; như
vậy là trong số mười bảy nhà tiên tri, đã có mười hai vị thi hành chức vụ trước
giai đoạn lưu đày.
Dầu Nê-bu-cát-nết-sa
đã đánh chiếm Giê-ru-sa-lem và hoàn toàn phá hủy đền thờ nhưng việc này cũng
không khiến được toàn dân Do Thái ăn năn. Năm 539 T.C. vua Ba-tư là Si-ru đã
đánh bại Ba-by-lôn và mở đầu một chính sách mới, dễ chịu hơn trong các vấn đề
tôn giáo và một số quyền tự trị nào đó. Đến năm 538 T.C., Si-ru ban sắc lệnh hồi
hương cho phép toàn thể những kẻ bị lưu đày trở về Giê-ru-sa-lem để xây lại đền
thơ (Exo Er 1:2-4;
6:3-5). Bấy giờ chỉ
có khoảng 50.000 người hồi hương phần đông là các thầy tế lễ, người Lê-vi, và số
người nghèo nhất trong dân chúng.
Sự trở về lần I
dưới sự lãnh đạo của Sết-ba-sa và về sau của Xô-rô-ba-bên, có lẽ khá nhỏ. Công
việc là cố gắng xây lại đền thờ. Đọc sách Ê-xơ-ra, chúng ta thấy A-ghê,
Xa-cha-ri và Ma-la-chi nói tiên tri khi sự hồi hương đã xảy ra (538 T.C.). Một
số người lưu đày đã trở về nhưng tình huống không có vẻ vinh quang như họ đã
trông đợi. Những người hồi hương không có địa vị chính trị, tình trạng kinh tế
nghèo nàn, mọi việc đều trong một tầm mức nhỏ, và mọi hy vọng về tương lai vẫn
còn xa vời. Công việc của ba nhà tiên tri này là đem lời của Đức Chúa Trời cho
tình huống đó.
Trước thời của A-ghê người Do Thái đã hồi hương dưới quyền lãnh đạo của Xô-rô-ba-bên, và bắt đầu xây lại đền thờ (NeNe 12:1-47). Nhưng chẳng bao lâu lòng hăng say của họ bị tan biến đi. Ngoài việc xây lại phần nền, họ không tiến thêm được chút nào nữa. Dân Sa-ma-ri và các kẻ thù chung quanh của họ nhất định không để cho họ xây lại thành Giê-ru-sa-lem. Như vậy có nghĩa là công việc đã bị bỏ dở suốt mười lăm năm. Trong thời gian ấy, mỗi người chỉ lo xây cất nhà riêng. Chính lúc ấy, A-ghê đã đứng lên, truyền rao thông điệp của ông. Ông khuyến khích dân chúng xây lại đền thờ. Lần nầy, công tác được hoàn tất trong vòng bốn năm. Điều dường như rất khó tin là dân sự của Đức Chúa Trời lại chờ đợi quá lâu như vậy để thực hiện công việc mà vì đó, họ đã trở về để hoàn thành.
Trước thời của A-ghê người Do Thái đã hồi hương dưới quyền lãnh đạo của Xô-rô-ba-bên, và bắt đầu xây lại đền thờ (NeNe 12:1-47). Nhưng chẳng bao lâu lòng hăng say của họ bị tan biến đi. Ngoài việc xây lại phần nền, họ không tiến thêm được chút nào nữa. Dân Sa-ma-ri và các kẻ thù chung quanh của họ nhất định không để cho họ xây lại thành Giê-ru-sa-lem. Như vậy có nghĩa là công việc đã bị bỏ dở suốt mười lăm năm. Trong thời gian ấy, mỗi người chỉ lo xây cất nhà riêng. Chính lúc ấy, A-ghê đã đứng lên, truyền rao thông điệp của ông. Ông khuyến khích dân chúng xây lại đền thờ. Lần nầy, công tác được hoàn tất trong vòng bốn năm. Điều dường như rất khó tin là dân sự của Đức Chúa Trời lại chờ đợi quá lâu như vậy để thực hiện công việc mà vì đó, họ đã trở về để hoàn thành.
Chúng ta biết rất
ít về A-ghê, ngoại trừ việc ông đã cộng tác với Xa-cha-ri suốt thời gian tiếp
sau cuộc lưu đày. Ông nói tiên tri trước Xa-cha-ri hai tháng. Xa-cha-ri nói
tiên tri ba năm, còn A-ghê thì nói tiên tri bốn tháng.
A-ghê là tiếng
nói đầu tiên được nghe thấy sau cuộc lưu đày. Tên ông có nghĩa là “Ngày lễ của
tôi.” Sách của ông là phần sưu tập bốn bài giảng ngắn được viết ra giữa tháng
Tám và tháng Chạp. Mỗi thông điệp đều được ghi ngày tháng đặc biệt. Chính các
ngày tháng ấy đã làm nổi bật những khung cảnh, chớ không phải các địa điểm hay
nhân vật trong đó. Các bài giảng ấy được truyền rao nhằm “năm thứ hai đời vua
Đa-ri-út,” nghĩa là năm 520 T.C.. Lúc ấy Khổng Phu Tử, nhà hiền triết người
Trung Hoa, đang nổi tiếng. Sách của A-ghê làm nổi bật một chủ đề nòng cốt. Ông
quyết tâm thuyết phục dân chúng xây lại đền thờ. Thúc giục một dân tộc đã chán
nản, thất vọng chổi dậy để xây một đền thờ không phải là chuyện dễ, nhưng A-ghê
đã làm việc đó.
II. NỘI DUNG VÀ
SỨ ĐIỆP TIÊN TRI A-GHÊ
Sách A-ghê gồm bốn
sứ điệp mũi nhọn và vắn tắt. Mỗi sứ điệp được ghi nhận niên đại chính xác (A-ghê 1:1; 2:1, 10, 20).
A. MỘT THÔNG ĐIỆP
KHIỂN TRÁCH (1:1-11)
Một nhóm dân sự
nghèo khó từ Ba-by-lôn là nơi họ bị đưa đi đày đã trở về Giê-ru-sa-lem. Với một
công tác vô cùng lớn lao trước mắt là phải xây lại Đền Thờ và vãn hồi việc thờ
phượng Đức Giê-hô-va. Người Do Thái vẫn lao động gian khổ dưới cùng những tội lỗi
như ngày xưa, tức là thờ thần tượng và kết hôn với các láng giềng thờ thần tượng.
Họ chỉ là một thiểu số người nghèo khổ, bị kẻ thù săn đuổi, và càng tệ hại hơn
nữa là họ đã bị mất đi phần nội lực vốn bắt nguồn từ niềm vui trong Đức Giê-hô-va
(NeNe 8:10)
Vì tất cả mọi điều
đó mà công việc cứ kéo dài và dân sự bị ngã lòng nên trở thành vị kỷ. Họ chểnh
mảng, bỏ bê công việc xây dựng nhà của Đức Giê-hô-va, cứ ngày càng quan tâm đến
việc xây cất nhà riêng hơn là nhà Chúa (A-ghê 1:4) Đức Chúa Trời
sẽ không cho phép tình hình ấy cứ tiếp tục, nên kết quả là đưa sự trừng phạt đến.
Mùa màng thất bát, hạn hán, buôn bán thua lỗ, nghèo khổ và rối rắm khiến họ bị
sa sút tinh thần (1:6). Họ vẫn lao động và làm nô lệ, nhưng chẳng tìm đâu
ra niềm vui thật sự (1:6, 9-11).
A-ghê 1:1-15 cho thấy thái độ
không thuộc linh của dân chúng, như cũng được vạch ra ở Ê-sai 56:1-59:21. Bằng chứng của
tình trạng này được thấy trong 2 cách: (i) Trước hết, trong khi nói rằng không
phải là lúc xây dựng nhà của Đức Chúa Trời, họ đã dùng nhiều thì giờ và tiền bạc
cho nhà riêng của họ (A-ghê 1:2-4). Vì vậy, thay vì chính họ quan tâm
công việc của Đức Chúa Trời, họ đã tỏ ra một tinh thần tư lợi; (ii) Thứ hai, họ
đã phản ứng với sự chán nản, ngã lòng, thiếu tin cậy Đức Giê-hô-va (1:10-11). Trong tình trạng
đó, Đức Chúa Trời đã sai các tiên tri A-ghê và Xa-cha-ri đến với họ.
Chúng ta thấy
tác dụng của lời thách thức của A-ghê. Tiếng gọi nghiêm khắc của ông hãy thi
hành nhiệm vụ đã được chứng minh là một liều thuốc bổ. Xô-rô-ba-bên, quan tổng
đốc Giê-ru-sa-lem, Giê-hô-sua thầy tế lễ thượng phẩm, và dân sự cùng đứng lên
và bắt đầu công tác xây dựng Đền Thờ (1:12-15).
Nhiều khi Đức
Chúa Trời cho phép khó khăn gian khổ xảy ra là vì thái độ dửng dưng của chúng
ta đối với Ngài. Sở dĩ mùa màng thất bát, làm ăn sa sút là vì tội lỗi của dân
Do Thái. Nhưng Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải giữ lấy hội thánh, nếu không có
hội thánh, tội lỗi và thói xấu sẽ gia tăng. Khi con người ta quên Đức Chúa Trời,
họ cũng quên luôn việc phải yêu thương đồng bào mình nữa. Chúng ta cần trang
hoàng cho nhà của Đức Chúa Trời thêm đẹp đẽ (II.Sa-mu-en 7:2). Chúng ta
không thể sống trong những ngôi nhà đẹp mà để cho nhà thờ bị cảnh đổ nát hoang
tàn.
B. MỘT THÔNG ĐIỆP
KHÍCH LỆ (A-ghê 2:1-9)
Chú ý: Bức thông
điệp nầy được rao truyền sau bức thông điệp thứ nhất bao lâu (1:1; 2:1)? Muốn rõ lịch
sử của giai đoạn nầy xin đọc Exo Er 3:8-13.
Lúc dân sự đang
xây cất, một việc gây ngã lòng mới đã bắt lấy họ. Những người lớn tuổi hơn, vì
nhớ lại vẻ huy hoàng tráng lệ của ngôi Đền Thờ do Sa-lô-môn xây cất, đã rất thất
vọng về ngôi Đền Thờ mới nầy. Họ nghĩ rằng nó không thể so sánh được với ngôi Đền
Thờ kia, bất cứ là về phương diện nào, nó thật là kém cỏi so về cả độ lớn lẫn
trị giá của các tảng đá. Nền nó thật nhỏ bé hơn nhiều! Các phương tiện xây cất
cũng hạn chế. Ngoài ra, ngôi Đền Thờ thứ hai nầy sẽ chẳng có các vật dụng từng
khiến cho ngôi Đền Thờ thứ nhất trở thành tráng lệ nguy nga - Hòm giao ước,
Vinh Quang của Đức Giê-hô-va và các tế khí để vị thầy tế lễ thượng phẩm sử dụng
trong việc tế lễ. Những kẻ bi quan nầy đã gây ô nhiễm cho thái độ nhiệt thành của
những người đang xây dựng.
Nhưng A-ghê đã đến
với một lời lạc quan rằng Đức Chúa Trời đang dốc đổ các nguồn tài nguyên của
Ngài vào cho công trình xây cất mới nầy của Đức Chúa Trời hằng Sống và sẽ ngự
giữa ngôi Đền Thờ mới nầy “Ta cũng làm rúng động hết thảy các nước, và những sự
ao ước của các nước hầu đến; rồi ta sẽ làm cho vinh quang đầy dẫy nhà nầy, Đức
Giê-hô-va vạn quân phán vậy. Vinh quang sau rốt của nhà nầy sẽ lớn hơn vinh
quang trước, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy; và ta sẽ ban sự bình an trong chốn
nầy, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.” Thật là một lời an ủi cho số người Do
Thái từng bị lưu đày nầy!
C. LỜI HỨA VỀ
PHƯỚC LÀNH (A-ghê 2:10-19)
Bức thông điệp về
việc thanh tẩy và chúc phước nầy được ban truyền ba tháng sau ngày Đền Thờ được
khởi công. Bằng cách sử dụng phương pháp vấn đáp, A-ghê đã chứng minh cho dân sự
thấy sự bất khiết của họ. Ông khiến họ nhận ra tình trạng đầy tội lỗi của họ.
Ông chỉ cho họ thấy lý do khiến cho những lời cầu nguyện của họ đã không được
nhậm là vì họ đã từ bỏ quá lâu việc hoàn tất Đền Thờ. Tội lỗi họ đã phá hỏng tất
cả những gì họ đã làm nếu họ chịu hăng hái trở lại, họ sẽ nhận thấy rằng Đức
Chúa Trời sẽ ban phước cho. A-ghê đã nghe những lời than phiền của họ là chẳng
thấy có dấu hiệu phước hạnh gì cả, tuy họ đã bắt tay làm việc trọn ba tháng rồi.
A-ghê đã chứng minh rằng đất đai từng bị khiến trở thành vô dụng vì sự chểnh mảng
của họ, nhưng Đức Chúa Trời đang làm việc để giờ đây mọi sự sẽ khác đi. Từ ngày
nầy, Ta sẽ ban phước cho các ngươi (2:18-19). Đức Chúa Trời
cũng bắt đầu khi chúng ta chịu bắt đầu.
D. LỜI HỨA VỀ
NGƯỜI ĐƯỢC XỨC DẦU (2:20-23).
Đây là sứ điệp của
Đức Chúa Trời dành cho Xô-rô-ba-bên kèm theo lời hứa, “Ta sẽ bảo toàn người
lãnh đạo của Ta.” Tại đây một lần nữa Đức Chúa Trời phán rằng Ngài sẽ rung chuyển
địa cầu và các từng trời (2:6-7). Lần này Ngài nhằm nói về những cuộc đảo
lộn trong chiến trường, những vụ thất trận nặng nề của các đạo quân hùng hậu,
và tình trạng tranh chấp quyền hành trong xã hội. Lịch sử của dân Y-sơ-ra-ên
cho họ biết rằng ngay cả kẻ thù hùng cường nhất cũng bị rúng động khi Đức Chúa
Trời hành động (thí dụ Cac Tl 4:15; 7:22; I.Sa-mu-en 14:20). Chủ đề này nổi
bật trong những lời tiên tri về cuộc chiến chống Y-sơ-ra-ên trong Ê-xê-chi-ên (Ê-xê-chi-ên
38:1-39:29
nhất là 38:19-22). Dù ở đây không nêu rõ một cuộc chiến
có liên quan đến dân Y-sơ-ra-ên nhưng Đức Chúa Trời hứa với ông Xô-rô-ba-bên là
Ngài sẽ bảo vệ ông được an toàn nên đương nhiên lúc đó phải có sự đe doạ của một
cuộc chiến.
Xô-rô-ba-bên lập
tức làm đúng theo lời của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời nói Xô-rô-ba-bên là cái
nhẫn làm ấn tín của Ngài, hàm ý là Ngài hài lòng về ông. Cái nhẫn thuộc loại
này là một bảo vật đắt tiền. Chủ nhân đeo nhẫn nơi ngón tay hoặc nơi cổ bằng một
sợi dây. Như vậy, dù đeo nơi tay hoặc nơi cổ thì cái nhẫn trở nên vật bất ly
thân, chẳng bao giờ bị mất hoặc bị bỏ. Hình ảnh này nói lên giá trị của ông
Xô-rô-ba-bên đối với Đức Chúa Trời. Cái nhẫn thuộc loại này được dùng làm ấn
tín của hoàng gia để đóng dấu các văn kiện. Hình ảnh này nói lên sự kiện Đức
Chúa Trời giao cho ông Xô-rô-ba-bên quyền hạn để thực hiện ý của Chúa.
Trong số những
điều Đức Chúa Trời hứa cho ông Xô-rô-ba-bên có những điều được ứng nghiệm trong
cuộc đời của ông. Ngoài những điều đó ra chúng ta nhận thấy là nhân vật Giê-sua
kết hợp với nhân vật Xô-rô-ba-bên là hình ảnh báo trước về Đấng Mết-si-a, là vị
lãnh đạo mà Đức Chúa Trời đã chọn và ban cho Ngài quyền hành tối cao (DaDn 7:13-14).
Người Do Thái
tin rằng sự trở về là mở đầu cho sự đến của Đức Chúa Trời, bởi đó tất cả các nước
sẽ được cai trị bởi Đấng Mết-si-a, người được xức dầu của Đức Chúa Trời. Sứ điệp
của A-ghê cho Xô-rô-ba-bên là thời đại cuối cùng đầy vinh quang sắp sửa đến buổi
bình minh.
Lời của Đức Chúa
Trời đã có hiệu quả rõ ràng trên các sinh hoạt của dân chúng. A-ghê nói tiên
tri năm 520 T.C. và đến năm 515 T.C. việc xây sửa Đền thờ đã được hoàn tất.
Trong vài phương diện, A-ghê là nhà tiên tri "thành công" hơn hết
trong tất cả các tiên tri Cựu Ước. Ông nói và dân sự đã đáp ứng, dù không phải
là tất cả những gì ông đã nói được ứng nghiệm trong thời của ông, hoặc của dân
chúng. Sứ điệp của ông được bổ túc bởi nhà tiên tri đồng thời với ông là tiên
tri Xa-cha-ri.
SÁCH TIÊN TRI
XA-CHA-RI
Chức vụ của
Xa-cha-ri, theo niên đại được ghi ở các chương 1-8, là từ năm thứ hai đến năm
thứ tư đời trị vì của Đa-ri-út (Xa-cha-ri 1:1, 7; 7:1), tức từ năm
520 đến 518 T.C..
Sách thường được
chia làm 2 phần: các chương 1-8 và 9-14. Đã có sự tranh luận về việc hoặc
Xa-cha-ri đã viết cả sách, hoặc ông viết các chương 1-8 và một tác giả khác (ẩn
danh) đã viết các chương 9-14. Chúng ta không bàn vấn đề này ở đây nhưng sẽ tập
chú vào nội dung của sách.
I. NHÀ TIÊN TRI
VÀ BỐI CẢNH LỊCH SƯ
Có lẽ ông
Xa-cha-ri từ Ba-by-lôn hồi hương về Giê-ru-sa-lem năm 538 T.C.. Ông hành chức
tiên tri từ năm 520 T.C., đồng thời với ông A-ghê, thúc giục dân sự lo tái thiết
đền thờ để qua đó họ chứng tỏ rằng họ đặt Chúa ở hàng đầu trong tâm tư của mình
(so sánh A-ghê 1:9).
Bỏ mặc đền thờ trong tình trạng hoang phế là chứng tỏ họ không quan tâm đến việc
Đức Chúa Trời có hiện diện giữa vòng dân sự hoặc không.
Có lẽ ông nội của tiên tri Xa-cha-ri là ông Y-đô trong bản liệt kê danh sách thành phần lãnh đạo (NeNe 12:4), các thầy tế lễ và người Lê-vi hồi hương về Giê-ru-sa-lem. Căn cứ vào cách ông E-xơ-ra viết về ông, có lẽ ông là một nhân vật quan trọng. Exo Er 5:1 và 6:14, “Xa-cha-ri... một hậu duệ (con trai) của Y-đô”. Bản liệt kê này bỏ qua tên thân phụ của ông Xa-cha-ri, nhưng lại ghi tên ông nội của ông. Nếu nhận xét này là đúng thì ông Xa-cha-ri vừa là thầy tế lễ vừa là tiên tri.
Ra đời tại Ba-by-lôn, ông vừa là một thầy tế lễ, vừa là một nhà tiên tri. Tên ông có nghĩa là “Đức Giê-hô-va nhớ.” Đây là một tên riêng phổ thông; trong Kinh Thánh Cựu Ước có khoảng ba mươi người mang tên này. Dầu vậy, đây là một tên riêng phù hợp cho vị tiên tri, vì ông kêu gọi dân sự ôn nhớ lại quá khứ và chỉnh đốn lại hành vi của mình cho phù hợp (Xa-cha-ri 1:2-6; 7:5-14; 8:14-17). Xa-cha-ri đã nói tiên tri ba năm. Thông điệp ông truyền giảng là tương lai huy hoàng chớ không phải hiện tại đau buồn. Ông vốn là một thi sĩ, trong khi A-ghê là một nhà truyền đạo bộc trực và thực tế.
Có lẽ ông nội của tiên tri Xa-cha-ri là ông Y-đô trong bản liệt kê danh sách thành phần lãnh đạo (NeNe 12:4), các thầy tế lễ và người Lê-vi hồi hương về Giê-ru-sa-lem. Căn cứ vào cách ông E-xơ-ra viết về ông, có lẽ ông là một nhân vật quan trọng. Exo Er 5:1 và 6:14, “Xa-cha-ri... một hậu duệ (con trai) của Y-đô”. Bản liệt kê này bỏ qua tên thân phụ của ông Xa-cha-ri, nhưng lại ghi tên ông nội của ông. Nếu nhận xét này là đúng thì ông Xa-cha-ri vừa là thầy tế lễ vừa là tiên tri.
Ra đời tại Ba-by-lôn, ông vừa là một thầy tế lễ, vừa là một nhà tiên tri. Tên ông có nghĩa là “Đức Giê-hô-va nhớ.” Đây là một tên riêng phổ thông; trong Kinh Thánh Cựu Ước có khoảng ba mươi người mang tên này. Dầu vậy, đây là một tên riêng phù hợp cho vị tiên tri, vì ông kêu gọi dân sự ôn nhớ lại quá khứ và chỉnh đốn lại hành vi của mình cho phù hợp (Xa-cha-ri 1:2-6; 7:5-14; 8:14-17). Xa-cha-ri đã nói tiên tri ba năm. Thông điệp ông truyền giảng là tương lai huy hoàng chớ không phải hiện tại đau buồn. Ông vốn là một thi sĩ, trong khi A-ghê là một nhà truyền đạo bộc trực và thực tế.
Lòng hăng say
khôn khéo của Xa-cha-ri đối với việc xây lại đền thờ đã khiến dân chúng kiên trì
trong công tác ấy cho đến khi hoàn tất. Nạn mất mùa và làm ăn sa sút khiến dân
Do Thái chán nản đến nỗi chỉ nhờ sự đốc thúc trực tiếp và liên tục của
Xa-cha-ri, họ mới chịu duy trì công tác. Họ cần được nghe một tiếng nói mới mẻ.
Xa-cha-ri là tiếng nói đó. Ông đã dấn thân để tiếp tay với người bạn thân của
ông là A-ghê.
Trong năm 538
T.C. vua Si-ru đánh chiếm được Ba-by-lôn và ra chiếu chỉ cho phép các dân bị
lưu đày, kể cả dân Giu-đa được hồi hương. Người Do Thái được phép tái thiết đền
thờ tại Giê-ru-sa-lem (Exo Er 1:1-4) nên họ trở về quê hương mình chứa chan
niềm vui và hi vọng, dưới sự lãnh đạo của ông Xô-rô-ba-bên (cũng có thể có tên
gọi là Sết-ba-xa; so sánh 3:8; 5:14-16). Họ hoàn tất
khâu xây nền đặt móng cho đền thờ nhưng sau đó các dân láng giềng ngăn trở bắt
họ ngưng công trình suốt thời trị vì của vua Si-ru (538-522 T.C. 4:4-5).
Hai
tiên tri Xa-cha-ri và A-ghê vực dậy tinh thần hăng hái can trường của dân chúng
và thúc giục họ bắt tay vào công tác bỏ dở lâu nay. Tát-tê-nai,
quan tổng trấn vùng bên kia sông Ơ-phơ-rát, Sết-ta Bô-xê-nai và các viên chức
khác đứng ra cản trở công việc và yêu cầu người Do Thái xuất trình giấy phép
xây dựng (5:3). Các giới thẩm quyền lục hồ sơ lưu trữ của hoàng
gia tại Ba-by-lôn và tìm được chiếu chỉ của vua Si-ru (6:1-5). Chẳng những
vua cho phép họ hồi hương mà còn chỉ thị xuất kho bạc hoàng gia để cung ứng tiền
bạc cho việc tái thiết đền thờ và phải hoàn trả cho đền thờ các vật dụng và
vàng bạc. Do đó, chiếu theo chỉ thị của vua Si-ru, chính vua Đa-ri-út khuyến
khích người Do Thái tái thiết đền thờ, cung ứng tiền bạc cho công cuộc tái thiết,
cung ứng thú vật để dâng của lễ, cũng cấm những người khác cản trở công việc của
họ.
Ông Xa-cha-ri đặt
nặng vấn đề hoàn tất công trình tái thiết đền thờ dưới sự chỉ đạo của ông
Xô-rô-ba-bên (Xa-cha-ri 4:9-10; 6:12). Vì đền thờ được
tái thiết sẽ là dấu chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời đã quay về ngự giữa dân sự của
Ngài (2:10;
8:8 so sánh 1:17; 2:12). Do đó khi đền
thờ đã được hoàn tất trong năm 516 T.C. ai nấy đều vui mừng (Exo Er 6:14-16). Dân sự xác định
lại rằng họ hoàn toàn dâng hiến cùng biệt riêng mình cho Đức Chúa Trời và trông
đợi một thời kỳ đầy phước hạnh trong tương lai. Thế nhưng, những điều mong đợi
của họ không diễn ra. Họ tưởng rằng cuộc sống sẽ êm đẹp dễ chịu nhưng trong thực
tế cuộc sống trở nên rất khó khăn, chẳng thấy thời kỳ vàng son đâu cả nên nhiều
người khởi sự tự hỏi không rõ Đức Chúa Trời có thực ở với họ hay không.
Về lịch sử của
thời hậu lưu đày chúng ta biết rất ít và rất vá víu. Một số những tư liệu chúng
ta có trong tay thì chúng ta lại không thể định niên hiệu cho chính xác. Dầu vậy,
chúng ta có thể chắc chắn rằng suốt thời gian xứ Giu-đa ở dưới quyền của đế quốc
Mê-đi Ba-tư (Phe-rơ-sơ) thì nhìn bề ngoài dân Do Thái vẫn là một dân yếu đuối
không có chỗ đứng trên thế giới mà còn phải đối phó với sự thù nghịch của các
dân tộc láng giềng (thí dụ 4:6-24). Tình trạng này kéo dài suốt thời kỳ của
đế quốc Hi Lạp do Philip Macedon lập ra và suốt thời kỳ trị vì của Alexander Đại
đế, con của ông.
Bên cạnh những dữ
liệu mù mờ này chúng ta cũng không biết rõ niên đại của chương 9-14 và rõ ràng
là chúng ta không thể nào xác định rõ bối cảnh lịch sử của những chương đó.
Chúng ta đành bằng lòng với số vốn hiểu biết về toàn bộ thời kỳ này một cách tổng
quát, và cần nhớ rằng có những dữ kiện có thể thay đổi trong bối cảnh đó và
cũng còn có nhiều biến cố chưa được ghi lại.
II. NỘI DUNG VÀ
SỨ ĐIỆP TIÊN TRI XA-CHA-RI
Sách Xa-cha-ri gồm hai phần rõ rệt: chương 1-8 và chương 9-14. Đương nhiên là Xa-cha-ri, con trai Ba-ra-chi, con trai của Y-đô vốn là tác giả của phần sách thứ nhất: chương 1-8. Tám chương này được viết ra trong thời gian từ tháng thứ tám năm thứ hai (520 T.C.) đến ngày 5 tháng 9 năm thứ tư của triều vua Đa-ri-út (518 T.C.).
Còn chương 9-14 được viết theo một lối văn khác hẳn chương 1-8. Mấy chương này được chia làm hai phần, chương 9-11 và 12-14, mở đầu mỗi phần là câu “Gánh nặng của Đức Giê-hô-va” (sách Ma-la-chi cũng có câu mở đầu tương tự như vậy).
Sách Xa-cha-ri gồm hai phần rõ rệt: chương 1-8 và chương 9-14. Đương nhiên là Xa-cha-ri, con trai Ba-ra-chi, con trai của Y-đô vốn là tác giả của phần sách thứ nhất: chương 1-8. Tám chương này được viết ra trong thời gian từ tháng thứ tám năm thứ hai (520 T.C.) đến ngày 5 tháng 9 năm thứ tư của triều vua Đa-ri-út (518 T.C.).
Còn chương 9-14 được viết theo một lối văn khác hẳn chương 1-8. Mấy chương này được chia làm hai phần, chương 9-11 và 12-14, mở đầu mỗi phần là câu “Gánh nặng của Đức Giê-hô-va” (sách Ma-la-chi cũng có câu mở đầu tương tự như vậy).
A. TUYỂN DÂN VÀ
NGÔI ĐỀN THỜ (Xa-cha-ri 1:1-8:23)
Giờ đây, chúng
ta nhận thấy Giu-đa chỉ là một số dân còn sót lại, Giê-ru-sa-lem chưa được tái
thiết, các dân ngoại đang sống thoải mái chung quanh nó (1:14-16). Xa-cha-ri, một
nhà tiên tri trẻ từng đứng bên cạnh một A-ghê già nua, đã giục lòng mạnh mẽ cho
các con cái Y-sơ-ra-ên lúc họ xây cất Đền Thờ và cảnh cáo họ chớ nên làm cho Đức
Chúa Trời thất vọng như Cha ông họ từng làm. Ông tả về tình yêu và sự chăm sóc
của Đức Chúa Trời đối với dân Ngài. Ông đánh thức kỳ vọng của họ bằng cách vẽ
ra những bức tranh đầy màu sắc về cái thời kỳ phước hạnh miên viễn sẽ đến với
dân Y-sơ-ra-ên vào những thời đại hãy còn rất xa.
Cũng như A-ghê,
Xa-cha-ri là một nhà tiên tri cho những người Do Thái còn sót lại từ Ba-by-lôn
hồi hương sau bảy mươi năm lưu đày. Dân Do Thái, một thời vốn là cường quốc như
Đức Chúa Trời đã định, bấy giờ chỉ còn là một thiểu số sống sót đáng thương và
vô nghĩa, sở dĩ được cư trú tại đất hứa của họ là nhờ lòng tốt của một nhà vua
ngoại quốc. Cả A-ghê lẫn Xa-cha-ri đều cố gắng nói cho dân sự biết rằng tình trạng
sẽ không cứ mãi như vậy. Có một ngày, Đấng Mết-si-a sẽ đến, và tuyển dân của Đức
Chúa Trời sẽ lại dấy lên thành một cường quốc.
Xa-cha-ri là nhà
tiên tri của sự phục hồi địa vị và vinh quang. Xa-cha-ri không kết án dân tộc
ông mà giới thiệu sự hiện diện của Đức Chúa Trời bằng nhiều bức tranh sáng chói
nhằm củng cố tinh thần và giúp đỡ họ. Ông đặc biệt khích lệ Xô-rô-ba-bên là
quan tổng đốc, vốn là người tự ý thức được các nhược điểm của mình. Hãy nghe điều
Xa-cha-ri nói: “Ấy chẳng phải là bởi quyền thế, cũng chẳng phải là bởi năng lực,
bèn là bởi Thần ta, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy” (4:6-10). Ông hứa rằng
các núi khó khăn rồi sẽ bị cắt đi. Chân lý nầy đã ứng nghiệm diệu kỳ biết bao
vào ngày lễ Ngũ tuần khi Đức Chúa Trời đổ đầy quyền năng Ngài cho nhiều người.
1. Các khải tượng
Trong số các Tiểu
Tiên Tri, chỉ có Xa-cha-ri là thấy nhiều khải tượng. “Ta thấy trong ban đêm, nầy...
” (1:1-7). Những khải tượng
mà Xa-cha-ri thấy gồm:
a) Vị thiên sứ cỡi
ngựa (1:1-7)
đây là bức tranh về dân Y-sơ-ra-ên hôm nay, đã bị loại trừ nhưng vẫn chưa bị Đức
Chúa Trời quên hẳn.
b) Những cái sừng
và những thợ rèn (1:18-21) Việc nước Y-sơ-ra-ên bị các kẻ thù lật
đổ đã được nhìn thấy trước.
c) Sợi dây đo (2:1-13) Sự hưng thịnh
hầu đến của Giê-ru-sa-lem đã được nhìn thấy trước. Thành phố có hiện diện của Đức
Chúa Trời làm vách thành, có phạm vi rộng lớn, và được phước hạnh nhờ đặc ân của
Ngài.
d) Giê-hô-sua,
Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm (3:1-10) Ao bẩn của thầy tế lễ, tượng trưng cho
tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên được cất đi, thay thế, và Nhánh Công Bình, tức là
Chúa Cứu Thế, được giới thiệu.
e) Các chơn đèn
vàng (4:1-14)
dân Y-sơ-ra-ên được trình bày như người cầm đèn cho Đức Chúa Trời trong tương
lai. Hai cây ô-li-ve được Đức Chúa Trời xức dầu chỉ về quan Tổng đốc
Xô-rô-ba-bên và thầy tế lễ Giê-hô-sua.
f) Cuộn sách bay
(5:1-4) Các chính quyền
gian ác nhận lấy lời nguyền rủa của Đức Chúa Trời làm một bức tranh có một
không hai.
g) Cái Ê-pha (5:5-11) Điều gian ác
được các cánh của Đức Chúa Trời mang đi và cất khỏi họ.
h) Bốn cỗ xe (6:1-8) “Các lực lượng
cai trị công chính” (Tiến sĩ G. Campbell Morgan).
2. Lễ đăng quang
Tiếp theo các khải
tượng là một hành động có ý nghĩa tượng trưng, là ban mão miện cho thầy tế lễ
thượng phẩm (6:9-11). Vàng bạc từ Ba-by-lôn đem về được làm thành một
mão miện rồi đặt trên đầu Giê-hô-sua, thầy tế lễ thượng phẩm. Với hành động ấy,
cả hai chức vụ quan trọng là thầy tế lễ và vua đã được nhập một. Điều đó chỉ
bóng về Đấng Christ là nhà Vua sẽ ngự trên ngôi vinh quang Ngài với tư cách thầy
tế lễ khi Ngài tái lâm để thiết lập nước một ngàn năm của mình.
Hai năm sau đó,
chúng ta thấy một phái đoàn từ Bê-tên đến, ra mắt Xa-cha-ri để hỏi ông có nên
giữ các ngày lễ kiêng ăn đó, và thường kiêng ăn vào những ngày đại lễ hằng năm.
Xa-cha-ri đã cảnh cáo họ về việc họ chỉ giữ các nghi lễ tôn giáo bằng thái độ
hình thức lạnh nhạt mà thôi. Ông khuyên họ hãy biến các ngày kiêng ăn của họ
thành những ngày lễ vui mừng, và nên thực thi sự công nghĩa. Đức Chúa Trời phán
“Sự vâng lời tốt hơn của tế lễ sự nghe theo tốt hơn mỡ chiên đực” (II.Sa-mu-en 15:22).
Kiêng ăn chỉ có
lợi như một dấu hiệu bề ngoài chỉ sự xưng tội bên trong. Chỉ kiêng ăn mà thôi
thì chẳng bao giờ đem được phước hạnh đến. Đức Chúa Trời muốn một tấm lòng
khiêm hạ và đau thương thống hối kia!
B. ĐẤNG MẾT-SI-A
VÀ VƯƠNG QUỐC (Xa-cha-ri 9:1-14:21).
Xa-cha-ri các
chương 9-14 không có dấu hiệu gì về niên đại và bối cảnh lịch sử. Các sứ điệp
trong phần này tập trung vào việc thiết lập vương quốc của Đấng Mết-si-a trong
tương lai. Trong 11:7, nhà tiên tri tượng trưng cho Đấng Mết-si-a, được bổ
nhiệm làm người chăn dân chúng. Công việc của người không được ưa thích, cũng
như sự phục vụ không được mong muốn. Cuối cùng, người bị bán với giá 30 miếng bạc
(11:12b; Ma-thi-ơ 27:9). Trong chương
13 chủ đề về người chăn chiên được lặp lại. Ở đây (Xa-cha-ri 13:7) người chăn bị
đánh và bầy chiên tan tác. Chương cuối cùng xác quyết rằng đến ngày cuối cùng,
Đức Chúa Trời sẽ chiến thắng và Ngài sẽ đến và đứng trên núi Ô-li-ve (c. 4).
Sau đây là những
lời tiên tri liên hệ đến Chúa Giê-xu:
Đấng Christ cỡi
lừa con vào thành Giê-ru-sa-lem, 9:9
Đấng Christ là Người Chăn Chiên Hiền Lành, 9:16; 11:11
Đấng Christ là Người Chăn Chiên bị đánh, 13:7
Đấng Christ bị phản nộp vì 30 miếng bạc, 11:12, 13
Đôi tay Đấng Christ bị đâm thủng, 12:10
Dân của Đấng Christ được cứu, 12:10; 13:1
Đấng Christ bị thương trong nhà các bạn Ngài, 13:6
Đấng Christ tái lâm trên núi Ô-li-ve, 14:3-8
(Đấng đã từ núi Ô-li-ve thăng thiên cũng sẽ trở lại y như cách Ngài đã ra đi, Công vụ 1:11).
Chúa Cứu Thế sắp tái lâm và được phong vương, 14.
Đấng Christ là Người Chăn Chiên Hiền Lành, 9:16; 11:11
Đấng Christ là Người Chăn Chiên bị đánh, 13:7
Đấng Christ bị phản nộp vì 30 miếng bạc, 11:12, 13
Đôi tay Đấng Christ bị đâm thủng, 12:10
Dân của Đấng Christ được cứu, 12:10; 13:1
Đấng Christ bị thương trong nhà các bạn Ngài, 13:6
Đấng Christ tái lâm trên núi Ô-li-ve, 14:3-8
(Đấng đã từ núi Ô-li-ve thăng thiên cũng sẽ trở lại y như cách Ngài đã ra đi, Công vụ 1:11).
Chúa Cứu Thế sắp tái lâm và được phong vương, 14.
Có người bảo rằng
muốn đọc cho đúng đắn các khải tượng trong sách nầy, bạn phải chiếu vào đó hai
tia sáng: tia sáng của thập tự giá và của chiếc vương miện. Nếu không, bạn sẽ
thấy là các hình ảnh mà Xa-cha-ri vẽ ra đều không có chiều sâu hay bối cảnh.
Nhà tiên tri nhìn xa vào tương lai đã thấy Đấng Mết-si-a của những ngày sắp đến
với tư cách một Thân Vị (a Person= một Con Người), nhưng dưới hai góc cạnh. Trước
hết, ông thấy Ngài bị sỉ nhục và đau đớn, và sau đó, ông thấy Ngài trong uy
nghi và giữa ánh hào quang lớn.
Dân Do Thái chẳng
biết gì đến Chúa Cứu Thế trên thập tự giá. Còn các Cơ-đốc nhân thì lại thường
quên mất Chúa Cứu Thế với chiếc vương miện trên đầu. Cả hai đều sai lầm! Dường
như Xa-cha-ri để mặc cho vinh quang của Đức Chúa Trời chiếu rạng trong tất cả
những lời dạy và giảng của ông.
Mấy đoạn nầy chứa
đầy những lời hứa về Đấng Mết-si-a sắp đến và về một vương quốc bá chủ cả thế
giới. Nhà tiên tri không còn tả vẽ một thành phố được xây lại trên nền cũ của
nó nữa, nhưng là một đô thị huy hoàng mà chính Chúa là vách thành. Nó không được
võ trang để tranh chiến, nhưng là một đô thị hòa bình, vì Chúa Bình An cai trị
tại đó. Ngài sẽ đến lần thứ nhất với tư cách một Đấng Nhu Mì, cỡi trên một con
vật tầm thường (9:9).
Nhưng chúng ta
thấy Đấng Khiêm Nhu ấy trở thành một nhà Vua đầy uy quyền (14:8-11). Đấng Mết-si-a
trong toàn thể vinh quang và uy quyền Ngài, sẽ giày đạp tất cả kẻ thù Ngài dưới
chân, sẽ thiết lập vương quốc Ngài tại Giê-ru-sa-lem, và sẽ ngự trên ngôi
Đa-vít. “Quyền thế Ngài sẽ trải từ biển nầy đến biển kia, từ sông cái cho đến
các đầu cùng đất” (9:10).
Nếu ai chịu đọc
kỹ hơn các chương nầy, sẽ khám phá ra sự chiến thắng của dân Y-sơ-ra-ên trên tất
cả các kẻ thù; chương 11 cho thấy Đấng Chăn Chiên sẽ tìm cách để cứu rỗi dân
Y-sơ-ra-ên, nhưng bị từ khước. Ngài bị bán với giá ba mươi miếng bạc, là giá của
một nô lệ. Điều nầy chỉ bóng về Chúa Cứu Thế và việc Ngài bị Giu-đa phản nộp.
Chương 12 cho chúng ta lời tiên tri về việc Giê-ru-sa-lem bị Antichrist và các
kẻ thù của nó vây hãm trong những ngày sau rốt. Sau đó, chúng ta thấy sự ăn năn
của dân Do Thái (c.12) khi họ sẽ nhìn thấy Đấng mà họ đã đâm. Suối nước sẽ được
mở cho nhà Đa-vít, vì tội lỗi và sự ô uế (13:1). Rồi việc Đấng
Mết-si-a trở lại trên núi Ô-li-ve, khiến nó bị nứt ra vì một cơn động đất (14:11) nhắc chúng ta
về cái ngày mà Ngài đã lìa khỏi đất nầy tại cùng một chỗ ấy, với lời hứa là
Ngài sẽ trở lại (Công vụ 1:11). Cuối cùng, Ngài sẽ làm Vua trên cả đất
và tất cả các dân tộc đều sẽ nên thánh cho Ngài (14:9-20).
Các phước hạnh
trong Nước của Chúa Cứu Thế gồm
(1) Nước Ngài được
mở rộng - 14:9
(2) Có nhiều mưa
- 10:1
(3) Thần Linh được
đổ xuống trên dân Y-sơ-ra-ên - 12:10
(4) Đấng Mết-si-a
“từng bị đâm” xuất hiện - 12:10
(5) Trong xứ
Palestine có nhiều thay đổi - 14:4-5, 10-11
(6) Nước Ngài được
thiết lập trên đất - 14:9-15
(7) Giê-ru-sa-lem
trở thành trung tâm của sự thờ phượng - 14:16-17.
Xa-cha-ri nhấn mạnh
về quyền năng của Đức Chúa Trời trên toàn thế giới. Ngài cho phép các dân tộc
thi hành án trên dân của Ngài là người Giu-đa, nhưng họ chỉ được phép hành động
trong giới hạn nghiêm ngặt. Người Giu-đa vốn là và vẫn là tuyển dân của Đức
Chúa Trời. Ngài hình phạt họ với mục đích phục hồi mối quan hệ giữa họ với Ngài
như thuở ban đầu. Hễ dân tộc nào vượt quá giới hạn cho phép đều bị Đức Chúa Trời
trừng phạt. Nằm trong chương trình này có một số nhân vật giữ những vai trò
quan trọng. Hai nhân vật lịch sử là ông Xô-rô-ba-bên (quan tổng trấn) và ông
Giê-hô-sua (thầy tế lễ thượng phẩm) là những người đứng ra tái thiết đền thờ và
tái lập cuộc thờ phượng tại đền thờ. Dầu vậy, hai nhân vật này còn tiêu biểu
cho một Đấng lớn lao hơn. Họ tiêu biểu cho “Đấng được xức dầu” đứng trước Chúa
của thế giới” (4:14). Về một phương diện nào đó ông Xô-rô-ba-bên còn
hình bóng về “nhánh” (3:8; 6:12), là một từ
dùng để mô tả Đấng Mết-si-a trong Giê-rê-mi 23:5 và 33:15 (so sánh Ê-sai 4:2).
SÁCH TIÊN TRI
MA-LA-CHI
I. NHÀ TIÊN TRI
VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Ma-la-chi là quyển sách cuối cùng trong Cựu Ước. Sách nầy tóm tắt phần lớn lịch sử Cựu Ước. Nếu Martin Luther gọi Giăng 3:16 là “Sách Phúc Âm nhỏ” thì chúng ta có thể gọi sách Ma-la-chi là “Cựu Ước nhỏ.” Sách Ma-la-chi là nhịp cầu nối liền Cựu và Tân Ước. (so sánh Ma-la-chi 3:1 với Giăng 1:23 và Lu-ca 3:3, 4). Có một thời gian im lặng 400 năm giữa tiếng nói của Ma-la-chi và tiếng người kêu trong đồng vắng: “Hãy dọn đường cho Chúa”. Cựu Ước chấm dứt bằng chữ “rủa sả” nhưng Tân Ước kết thúc bằng lời chúc phước: “Nguyền xin ân điển của Đức Chúa Giê-xu Christ ở với mọi người. A-men”.
Ma-la-chi là quyển sách cuối cùng trong Cựu Ước. Sách nầy tóm tắt phần lớn lịch sử Cựu Ước. Nếu Martin Luther gọi Giăng 3:16 là “Sách Phúc Âm nhỏ” thì chúng ta có thể gọi sách Ma-la-chi là “Cựu Ước nhỏ.” Sách Ma-la-chi là nhịp cầu nối liền Cựu và Tân Ước. (so sánh Ma-la-chi 3:1 với Giăng 1:23 và Lu-ca 3:3, 4). Có một thời gian im lặng 400 năm giữa tiếng nói của Ma-la-chi và tiếng người kêu trong đồng vắng: “Hãy dọn đường cho Chúa”. Cựu Ước chấm dứt bằng chữ “rủa sả” nhưng Tân Ước kết thúc bằng lời chúc phước: “Nguyền xin ân điển của Đức Chúa Giê-xu Christ ở với mọi người. A-men”.
Bấy giờ, đã hơn
một trăm năm từ khi dân Do Thái trở về Giê-ru-sa-lem sau thời gian bị lưu đày tại
Ba-by-lôn. Ma-la-chi là nhà tiên tri cuối cùng đã nói tiên tri cho dân
Y-sơ-ra-ên tại xứ sở họ. Ở đây, từ ngữ Y-sơ-ra-ên ám chỉ toàn thể những người
Y-sơ-ra-ên và Giu-đa còn sót lại, đã từ cuộc lưu đày hồi hương. Những háo hức
buổi đầu sau ngày từ Ba-by-lôn hồi hương đã phai dần. Tiếp sau một giai đoạn phục
hưng (Nê 10:28:39;), dân chúng đã trở thành lạnh nhạt về phương diện tôn giáo
và thờ ơ về phương diện đạo đức.
Chúng ta đã thấy
rằng một số người Do Thái đã đặt hy vọng lớn lao nơi Xô-rô-ba-bên, là người có
thể lại ngồi trên ngai Đa-vít, và làm ứng nghiệm tất cả những lời tiên tri đầy
vinh quang về sự phục hưng (A-ghê 2:20-23).
Nhưng điều gì đã
xảy ra cho Xô-rô-ba-bên? Điều gì đã xảy ra cho cộng đồng nhỏ bé ở
Giê-ru-sa-lem? Chúng ta không thực sự biết, nhưng cho đến đây chúng ta biết là
không có điều gì đã xảy ra. Người ta không nghe gì hơn về Xô-rô-ba-bên, nói
chung thật ra cũng không có gì được nghe về cộng đồng Giê-ru-sa-lem. Đã không
có sự phục hồi vinh quang. Thay vào đó, thuộc địa nhỏ bé đã chìm sâu hơn vào sự
tối tăm. Đền thờ vẫn còn đó và của lễ được dâng lên. Nhưng dân sự dường như đã
không làm những điều đó một cách nghiêm chỉnh. Việc kết hôn với các nhóm khác
đã trở thành phổ thông hơn, tự nhiên hơn. Chính phần lớn Giê-ru-sa-lem vẫn còn
đổ nát và không có nhiều người sống ở đó. Chúng ta có một hình ảnh về tình trạng
của thời kỳ này từ sách Ma-la-chi. Một cách tổng quát thời kỳ này được coi là
thời kỳ giữa năm 500-450 T.C. (Ma-la-chi 1:6-14; 2:14-16; 3:13-15).
Tiên tri
Ma-la-chi xuất hiện như một nhà cải cách, nhưng ông vừa khích lệ vừa khiển
trách. Ông lo cho một dân tộc đang bối rối, ngã lòng, đức tin đặt nơi Đức Chúa
Trời dường như đang gặp cơ nguy có thể bị sụp đổ. Nếu họ vẫn chưa ra mặt chán
ghét Đức Giê-hô-va, thì họ đang thật sự sa vào cái cơ nguy của việc trở thành
hoài nghi. Tên Ma-la-chi có nghĩa là “sứ giả của Đức Giê-hô-va.” Cũng như Giăng
Báp-tít là người dọn đường cho Chúa, Ma-la-chi cũng chỉ là một tiếng nói mà
thôi.
II. NỘI DUNG VÀ
SỨ ĐIỆP TIÊN TRI MA-LA-CHI
Sách Ma-la-chi
là một ký thuật về một số lời tuyên bố ngắn, được nói vào các cơ hội khác nhau.
Nó có vẻ như là ông bị ngắt lời cách khiêm nhã bởi các thính giả của ông, vì họ
không chấp nhận những gì ông đã nói. Dĩ nhiên, nó có thể là chính Ma-la-chi đã
đặt các câu hỏi mà ông cho là thính giả của ông đang nghĩ.
Đối diện với đám
đông đầy rắc rối, nghi ngờ, bất đồng ý kiến và khinh miệt này, Ma-la-chi đã nói
với uy quyền, hợp lý, thẳng thắng và khích lệ. Ông đã rao ra lời của Đức Chúa
Trời cho dân sự tại Giê-ru-sa-lem.
Sách Ma-la-chi
có những chủ đề căn bản sau đây:
i) Lời đầu tiên
của Ma-la-chi về tình yêu của Đức Chúa Trời thực sự là chủ đề căn bản của cả
sách. Chủ đề đó là gì? (1:2). Chính vì để thuyết phục dân sự của Đức
Chúa Trời về tình yêu của Ngài đối với họ, Ma-la-chi kéo sự chú ý của họ về những
gì đã xảy ra cho Ê-đôm.
ii) Ma-la-chi
nói chi tiết hành động sai trật (tội lỗi) của người Do Thái đã ngăn trở phước hạnh
của Đức Chúa Trời (1:7, 12; 2:14-16; 2:17; 3:13-15; 3:5; 3:8-10).
iii) Hướng đến tương lai, Ma-la-chi nói về "Ngày của Chúa” là ngày Ngài sẽ đến để thanh tẩy dân Ngài (3:1-6). Ma-la-chi kết thúc với sứ điệp hy vọng.
iii) Hướng đến tương lai, Ma-la-chi nói về "Ngày của Chúa” là ngày Ngài sẽ đến để thanh tẩy dân Ngài (3:1-6). Ma-la-chi kết thúc với sứ điệp hy vọng.
Sứ điệp của
Ma-la-chi đã có hệ quả nào thì chúng ta không biết. Nhưng có lẽ ông đã giúp dọn
đường cho những cải cách của E-xơ-ra và Nê-hê-mi, những người đã tái lập quốc
gia và làm cho nó có khả năng sinh tồn cho đến thời kỳ La-mã và sự đến của Đấng
Mết-si-a mà Ma-la-chi và các tiên tri khác đã trông đợi.
A. TỘI LỖI CỦA
CÁC THẦY TẾ LỄ (1:1-2:9)
Thái độ hoài nghi nảy sinh trong dân sự tự chứng minh cho sự nguội lạnh về tôn giáo và sự lơi lỏng về xã hội. Điều nầy luôn luôn nghiệm đúng. Các thầy tế lễ cả nào bất kính và chểnh mảng (1:6, 11-12). Đức Chúa Trời phán: Sự tôn kính thuộc về ta ở đâu? - Hỡi các thầy tế lễ vô tâm vì đã dâng lên những con vật vô giá trị làm của lễ cho Đức Chúa Trời mà thật ra, họ không dám dâng chúng cho quan trấn thủ. Họ đã hành động tương phản rõ rệt với chức vụ tế lễ lý tưởng của Đức Chúa Trời. Họ đã chẳng còn thấy gì cả về tiếng gọi cao cả của họ, và đáng bị điều đáng ghê tởm chất chồng trên họ. Họ không chịu làm việc ngoại trừ khi được trả tiền. Lời buộc tội của Đức Chúa Trời bắt đầu với các cấp lãnh đạo (2:1-9). Bao lâu các thầy tế lễ công khai chứng tỏ họ không thích hợp với chức vụ của họ, thì còn trông mong gì ở dân sự nói chung? Hậu quả là dân Chúa đã chẳng còn quan tâm gì đến việc tự giữ mình phân rẽ với các dân ngoại đạo. Những cuộc hôn nhân lộn xộn với các phụ nữ ngoài chi phái trở thành phổ biến. Một số đàn ông đã không ngần ngại ly dị vợ họ là người Y-sơ-ra-ên để khiến việc kia trở nên khả thi (2:10-16).
Thái độ hoài nghi nảy sinh trong dân sự tự chứng minh cho sự nguội lạnh về tôn giáo và sự lơi lỏng về xã hội. Điều nầy luôn luôn nghiệm đúng. Các thầy tế lễ cả nào bất kính và chểnh mảng (1:6, 11-12). Đức Chúa Trời phán: Sự tôn kính thuộc về ta ở đâu? - Hỡi các thầy tế lễ vô tâm vì đã dâng lên những con vật vô giá trị làm của lễ cho Đức Chúa Trời mà thật ra, họ không dám dâng chúng cho quan trấn thủ. Họ đã hành động tương phản rõ rệt với chức vụ tế lễ lý tưởng của Đức Chúa Trời. Họ đã chẳng còn thấy gì cả về tiếng gọi cao cả của họ, và đáng bị điều đáng ghê tởm chất chồng trên họ. Họ không chịu làm việc ngoại trừ khi được trả tiền. Lời buộc tội của Đức Chúa Trời bắt đầu với các cấp lãnh đạo (2:1-9). Bao lâu các thầy tế lễ công khai chứng tỏ họ không thích hợp với chức vụ của họ, thì còn trông mong gì ở dân sự nói chung? Hậu quả là dân Chúa đã chẳng còn quan tâm gì đến việc tự giữ mình phân rẽ với các dân ngoại đạo. Những cuộc hôn nhân lộn xộn với các phụ nữ ngoài chi phái trở thành phổ biến. Một số đàn ông đã không ngần ngại ly dị vợ họ là người Y-sơ-ra-ên để khiến việc kia trở nên khả thi (2:10-16).
B. TỘI LỖI CỦA
DÂN CHÚNG (2:10-3:18)
Bạn nghĩ thế nào
về một người tự ý giữ một ật gì đó trước mắt mình, rồi than phiền rằng mình chẳng
nhìn thấy gì cả? Gợi ý của bvạn nhằm nhanh chóng giải quyết điểm khó khăn đó là
gì? Vâng, đó chính là việc mà Ma-la-chi đã phải làm. Dân Do Thái bảo rằng Đức
Giê-hô-va đã không yêu thương họ như Ngài từng phán (1:2). Họ đã không thấy rằng tình yêu
của Ngài từng có ích lợi gì đặc biệt cho họ.
Một hậu quả khác
nữa của việc dân sự lơi lỏng không giữ lòng trung thành với Đức Chúa Trời, là
việc tội lỗi trong xã hội cứ ngày càng gia tăng để chiếm thế áp đảo (3:5) 3:7 cho thấy dân sự
dửng dưng về phương diện tôn giáo và tỏ thái độ hoài nghi.
Các tội mà Ma-la-chi quở trách là: (1) việc thờ phượng theo thói quen nhàm chán, thiếu tinh thần, 1:6-8 (2) những cuộc hội họp gian ác, 2:10-12 (3) thắc mắc về đức công bằng của Đức Giê-hô-va, 2:17-3:6 (4) ăn cắp của Đức Chúa Trời, 3:7-12 (5) không biết kiên trì chờ đợi, 3:17-4:3
Các tội mà Ma-la-chi quở trách là: (1) việc thờ phượng theo thói quen nhàm chán, thiếu tinh thần, 1:6-8 (2) những cuộc hội họp gian ác, 2:10-12 (3) thắc mắc về đức công bằng của Đức Giê-hô-va, 2:17-3:6 (4) ăn cắp của Đức Chúa Trời, 3:7-12 (5) không biết kiên trì chờ đợi, 3:17-4:3
Con cái
Y-sơ-ra-ên có thể trông cậy vào Đức Giê-hô-va trong vấn đề tha tội. Đây cũng giống
như bức tranh mà Chúa Giê-xu đã đưa ra về người Cha khi Ngài dạy về đứa con
trai hoang đàng trở về nhà. Khi người Cha nhìn thấy con trai mình từ đằng xa,
thì đã chạy ra để đón nó. Đó cũng luôn luôn là thái độ của Đức Chúa Trời.
Dân Do Thái đã
được chữa lành tội thờ thần tượng, nhưng họ lại ngày càng trở nên vô tâm và dửng
dưng đối với nhiều việc khác. Họ đã bỏ bê nhà của Đức Chúa Trời. Các thầy tế lễ
đều chểnh mảng. Họ dâng các của lễ thấp kém cho Đền Thờ. Họ đã ăn cắp một phần
mười về các của dâng của họ. Họ sa vào nhiều tội lỗi xã hội. Họ trở nên ích kỷ
và tham lam đến độ Ma-la-chi phải mạnh dạn thách thức họ bằng câu nói: Người ta
có thể ăn trộm Đức Chúa Trờì sao? (3:8).
Chiếc chìa khoá
để mở các cánh cửa sổ rộng lớn của các phước hạnh của Đức Chúa Trời là việc bạn
phải thừa nhận chủ quyền của Đức Chúa Trời bằng cách dâng trở lại cho Ngài một
phần phải là của số tiền hay tài sản mà Ngài cho phép bạn thủ đắc. “Các ngươi
hãy đem hết thảy phần mười vào kho,” dâng một phần mười là thừa nhận bằng thái
độ bên ngoài rằng mọi sự đều thuộc về Đức Chúa Trời. Chúng ta phải dâng trọn
cho Ngài toàn thể con người chúng ta - nghĩa là cả thân thể, tâm thần, và linh
hồn nữa kia. Như thế, Ngài sẽ tiếp nhận chúng ta và mở các cửa sổ trên trời để
đổ các phước hạnh của Ngài xuống cho chúng ta.
C. NHỮNG VIỆC SẮP
ĐẾN (3:1-4:6)
Tại sao Đức Chúa
Trời lại cho phép mọi việc ấy? Sở dĩ dân chúng đã có thái độ như thế có lẽ vì họ
cảm thấy rằng các lời hứa sáng chói của A-ghê và Xa-cha-ri và các nhà tiên tri
khác đã không ứng nghiệm. Họ bảo rằng Đức Giê-hô-va dường như chẳng phân biệt
người thiện với kẻ ác (2:17). Ngài ban phước cho mọi người như
nhau, và những kẻ ác thường lại thịnh vượng do bóc lột đồng bào mình (3:14-15). Thế thì làm
điều thiện để làm gì? Phải chăng đây vẫn còn là một lời than phiền của những kẻ
cứ tưởng rằng họ là những người tốt? Họ nói: “Đức Chúa Trời làm gì mà lại cho
phép những việc như thế?” Lời đáp cho một câu than phiền như thế, ấy là Đức
Giê-hô-va vẫn quan tâm. Ngài chứng minh việc đó cho họ thấy bằng cách phán rằng
sẽ có ngày Ngài sẽ sai sứ giả của Ngài đến (Giăng Báp-tít) để dọn đường cho
Ngài, rồi đích thân Ngài sẽ “thình lình” đến và ngồi trên ngôi phán xét để phân
rẽ kẻ ác với người thiện (3:1). Sự phán xét của Ngài sẽ là dò tìm và
kiến hiệu giống như lửa của thợ luyện, như tro thợ giặt (3:2, 3). Một khi Đức
Chúa Trời đã thật sự sẵn sàng hành động, thì Ngài sẽ làm gì? Hành động ấy sẽ là
dứt khoát (3:1-3).
Chúng ta thấy
gánh nặng của bức thông điệp của Đức Chúa Trời mà Ma-la-chi phải nêu rõ cho dân
sự Ngài trong câu thứ hai của quyển sách nầy: Đức Giê-hô-va có phán: Ta yêu các
ngươi. Thật là một bức thông điệp lạ lùng cho một dân tộc đã phạm tội như dân
Y-sơ-ra-ên và đã chối bỏ tình yêu của Đức Giê-hô-va. Đức Chúa Trời luôn luôn
sai sứ giả của Ngài đi trước để dọn đường cho Ngài (3:1). Ngài muốn toàn thể con cái
Ngài phải tôn trọng và thờ lạy Ngài. Ngài trông mong chúng ta vâng lời và thờ
phượng Ngài. Nhưng ai sẽ đứng nổi trong ngày mà Ngài sẽ hiện ra? Và có ai chịu
nổi ngọn lửa luyện của Ngài (3:2)? Sứ giả của Đức Chúa Trời sẽ là
nhân chứng vạch trần sự tàn bạo, những lời dối trá, các bất công và cách đối xử
nước đôi của chúng ta. Điều nầy có thể được nói cho ngày hôm nay cũng y như cho
dân Do Thái đời xưa. Người đại diện của Đức Giê-hô-va đến và nhận thấy chúng ta
đang ăn cắp điều chúng ta đáng lẽ phải trả cho Ngài (3:2-5). Thế nhưng, Đức
Giê-hô-va vốn bất biến. Ngài chẳng bao giờ quên các lời hứa của tình yêu bất tử
và lòng nhân từ thương xót đời đời của Ngài. Ma-la-chi của Đức Chúa Trời được
sai đến trước Ngài để dọn đường cho Ngài hầu cho dân Chúa có thể tôn kính và thờ
phượng Ngài. Ma-la-chi kêu lớn: “Hãy quay trở lại với nhà của Đức Chúa Trời!
Hãy quay trở lại với lời của Đức Chúa Trời! Hãy quay trở lại với công việc của
Đức Chúa Trời! Hãy quay trở lại với ân điển của Đức Chúa Trời!”
Mỗi người đều có
thể giống như Ma-la-chi, làm một người tiền hô (rao loa) cho Chúa Cứu Thế, Đấng
sắp tái lâm mà chúng ta đang chờ đợi. Mỗi người yêu mến và trông chờ Ngài đều
có thể giúp việc dọn đường cho Ngài bằng cách sống và làm việc của mình.
Hãy nghĩ về các
nhu cầu của hôm nay, các nhu cầu của Hội Thánh và của thế gian. Lời tố cáo hôm
nay chống lại các Hội Thánh của chúng ta phải chăng cũng chỉ là hình thức chủ
nghĩa suông - một thái độ tuân giữ bề ngoài, mà chẳng có một tình yêu tự đáy
lòng? Phải chăng cả chúng ta nữa, cũng đang dâng các của lễ chẳng có chút giá
trị gì? Phải chăng chúng ta cũng đang ăn trộm của Đức Chúa Trời trong vấn đề
dâng một phần mười?
Giữa tất cả những
gì là đạo đức giả của ngày hôm nay, đang có những người trong cộng đồng Do Thái
(số dân còn sót lại) vẫn còn kính sợ Đức Chúa Trời và vẫn giữ lòng tận trung. Nếu
chúng ta lật đến Ma-la-chi 3:16, chúng ta sẽ tìm thấy điều đó. Ma-la-chi
trông mong phát triển một tổ chức các tín hữu nhiệt thành, có thể ảnh hưởng đến
dân sự trong tương lai. Điều lý thú cần ghi nhận là Đức Chúa Trời vẫn đang
nghiêng tai nghe dân Ngài nói về Ngài (3:16).
Chúng ta cần chú
ý lời tuyên bố nghiêm trọng của Ma-la-chi liên quan đến sự tái lâm của Chúa Cứu
Thế mà chúng ta đang trông đợi, trong Ma-la-chi 3:16-4:3;. Vâng, “Mặt
Trời Công Bình sẽ mọc lên, trong cánh nó có sự chữa lành.”
SÁCH TIÊN TRI
GIÔ-ÊN
I. NHÀ TIÊN TRI
VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Có người cho rằng trong tất cả các nhà tiên tri, Giô-ên là người trước nhất có sách được lưu truyền đến chúng ta. Tiểu sử ông chỉ được chép trong một câu: “Nầy là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-ên con trai của Phê-thu-ên” (Giô-ên 1:1). Tên ông có nghĩa là: “Giê-hô-va là Đức Chúa Trời tôi.” Chúng ta không biết nhiều về nhà tiên tri Giô-ên, con của Phê-thu-ên. Chúng ta suy đoán rằng ông đã sống ở Giu-đa và không phải là thầy tế lễ. Có lẽ lúc còn thanh niên, ông đã quen biết cả Ê-li lẫn Ê-li-sê. Ông là người có trình độ văn hóa tốt. Ông viết Hi-bá-lai với văn phong trong sáng. Đó là tất cả những gì chúng ta được biết. Dầu không biết nhiều về Giô-ên nhưng chắc chắn điều này không làm giảm đi giá trị thuộc linh của sứ điệp Giô-ên cho thời đại của ông và cho các thế hệ về sau.
Có người cho rằng trong tất cả các nhà tiên tri, Giô-ên là người trước nhất có sách được lưu truyền đến chúng ta. Tiểu sử ông chỉ được chép trong một câu: “Nầy là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-ên con trai của Phê-thu-ên” (Giô-ên 1:1). Tên ông có nghĩa là: “Giê-hô-va là Đức Chúa Trời tôi.” Chúng ta không biết nhiều về nhà tiên tri Giô-ên, con của Phê-thu-ên. Chúng ta suy đoán rằng ông đã sống ở Giu-đa và không phải là thầy tế lễ. Có lẽ lúc còn thanh niên, ông đã quen biết cả Ê-li lẫn Ê-li-sê. Ông là người có trình độ văn hóa tốt. Ông viết Hi-bá-lai với văn phong trong sáng. Đó là tất cả những gì chúng ta được biết. Dầu không biết nhiều về Giô-ên nhưng chắc chắn điều này không làm giảm đi giá trị thuộc linh của sứ điệp Giô-ên cho thời đại của ông và cho các thế hệ về sau.
Về niên đại, một
số học giả cho rằng Giô-ên không đề cập đến hoặc A-sy-ri hoặc Ba-by-lôn. Vì thế,
có lẽ ông đã nói tiên tri trước sự dấy lên của A-sy-ri, vào thế kỷ thứ tám, hoặc
sau sự sụp đổ Ba-by-lôn, vào thế kỷ thứ sáu T.C. (một khoảng cách lớn về thời
gian). Một số học giả khác cho rằng không có sự liên quan đến vương quốc phía Bắc.
Vì vậy, có thể rằng nó được viết sau khi vương quốc đó không còn. Đó là sau sự
sụp đổ Sa-ma-ri vào năm 721 T.C..
Giô-ên là nhân vật
đầu tiên đã nói tiên tri về việc Đức Thánh Linh sẽ được đổ xuống trên mọi loài
xác thịt (2:28) Giô-ên đã xuất hiện trước Ô-sê một ít, có điều là
ông truyền giảng cho vương quốc Giu-đa ở miền Nam, trong khi Ô-sê truyền giảng
cho các chi phái ở phía Bắc.
II. NỘI DUNG VÀ
SỨ ĐIỆP TIÊN TRI GIÔ-ÊN
Nội dung của
sách Giô-ên nói đến tình trạng nguy cấp (Giô-ên 1) và ngày của Đức Giê-hô-va (2:1-27). Tình trạng
nghiêm trọng này đã xoay tư tưởng của Giô-ên đến một thời điểm, khi Đức Chúa Trời
sẽ can thiệp bằng quyền năng của Ngài vào các vấn đề của quốc gia Do Thái (1:15; 2:1; 3:31; 3:14).
Xứ Y-sơ-ra-ên vừa
bị một nạn cào cào khủng khiếp. Chúng đã cắn nát tất cả những vật có màu xanh,
để lại sau lưng chúng cả một cảnh hoang tàn. Giô-ên tin rằng đó là sự đoán phạt
do Đức Chúa Trời sai đến vì cớ tội lỗi của dân Ngài.
Chúng ta không
biết rõ hoặc ông muốn nói rằng tai họa lúc đó chính là Ngày của Đức Giê-hô-va
hoặc nó dọn đường hay báo hiệu cho Ngày đó. Nhưng trong ánh sáng của sự đến của
Ngày đó, ông đã kêu gọi các thầy tế lễ và toàn dân phải kiêng ăn, nhóm hiệp,
khóc lóc và kêu cầu cùng Chúa (1:14; 2:12-17). Trong khi kêu
gọi cả quốc gia tập họp lại cầu nguyện, Giô-ên đã bao gồm nhiều hạng người, vốn
thường không được trông đợi tham dự vào các nhiệm vụ chung. Kèm theo lời kêu gọi
là những lời hứa quan trọng (2:8-3:3). Về phần các
lân bang, họ sẽ bị phán xét theo sự ngược đãi của họ với Giu-đa (3:4, 19). Vậy, cuối
cùng chính nghĩa sẽ thắng và sự gian ác sẽ bị phán xét.
Giô-ên được gọi
là “nhà tiên tri của sự phục hưng tôn giáo”. Ông biết rằng sự phục hưng phải
theo sau sự ăn năn. “Tiếp theo một tấm lòng bị xé rách, là một bức màn bị xé,
và thiên đàng.” Ông đã cố gắng đưa dân tộc mình đến chỗ đó. Khi chúng ta thật
lòng ăn năn, chúng ta sẽ đến được ngôi thi ân và từng trải hiện diện của Đức
Thánh Linh.
A. TAI HỌA: LỜI
CẢNH CÁO (Giô-ên 1:1-20).
Sau một thời
gian nắng hạn và nạn cào cào, một nạn đói khủng khiếp đã tàn phá xứ Y-sơ-ra-ên.
Dân chúng và súc vật sắp chết vì thiếu thức ăn và nước uống.
Giô-ên nói tiên
tri cho xứ Giu-đa. Ông lợi dụng sự đoán phạt hiện tại là nạn cào cào để kêu gọi
dân chúng ăn năn. Ông muốn cứu họ khỏi những lần đoán phạt càng khủng khiếp hơn
nữa bởi bàn tay của các đạo quân thù địch. Cào cào là loại biểu tượng tiên báo
sự tàn phá mà chúng sẽ đưa đến.
Ông đã mô tả tai
họa ấy một cách linh động, kêu gọi những người cao tuổi hãy xác nhận sự kiện là
từ trước, chưa bao giờ có một đại nạn như vậy (1:2). Những kẻ say sưa đã nhận thấy
hậu quả của tai họa ấy, bởi vì các cây nho đều bị phá hoại (1:5). Các thầy tế lễ
không còn của lễ chay, lễ quán bằng rượu để dâng lên nữa (1:9). Các bầy súc vật,
chiên, bò, kêu rống ngoài đồng (1:20). Giô-ên thúc
giục dân chúng hãy thực hiện một ngày kiêng ăn (1:13). Rồi ông tiếp
tục mô tả tai họa đó.
Giô-ên kêu gọi
dân sự hãy tra xét nguyên nhân đã gây ra tai họa. Họ phải thật sự ăn năn, khóc
lóc, nếu muốn tránh khỏi sự đoán phạt càng nặng nề hơn nữa (2:12-17). Trong cơn tuyệt
vọng, họ đều sẵn sàng nghe bất cứ ai giải thích được tai họa của họ. Đây là một
thì giờ nghiêm trọng đối với người truyền đạo, bởi vì bấy giờ, trong cơn cùng
khốn, người ta sẽ bằng lòng quay lại với Đức Chúa Trời.
B. SỰ KIÊNG ĂN -
LỜI HỨA (2:1-32).
Mở đầu đoạn sách
nầy là tiếng tù và kêu gọi dân chúng tập họp để thực hiện một cuộc kiêng ăn lớn
(2:1). Mọi người cả
già lẫn trẻ, đều có mặt. Ngay đến các chàng rễ, các cô dâu nhằm ngày đám cưới,
cũng đến dự, (2:16). Các thầy tế lễ đến với tang phục, mọp sát đất để
kêu cầu Đức Chúa Trời trong nơi Thánh. Họ kêu cầu với Ngài rằng: “Hỡi Đức
Giê-hô-va, xin để cho dân Ngài được sống sót,” và bảo với dân chúng: “Hãy xé
lòng các ngươi, và đừng xé áo các ngươi. Khá trở lại cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời
các ngươi” (2:13). Đây là một biến cố để đưa dân sự trở lại với Đức
Chúa Trời.
Cào cào đã biến
một vườn Ê-đen thành đồng hoang (2:3). Đối với người nào chưa được
trông thấy chúng, thì đạo quân cào cào là một việc khó tưởng tượng nổi. Chúng
bay đầy trời che kín cả mặt trời, như có nhật thực vậy (2:2). Chúng đáp xuống,
phủ đầy mặt đất đến hàng mấy dặm. Các đạo quân ấy với chủ tướng của chúng dẫn đầu,
cứ tiến tới và phá hủy tất cả những vật gì có màu xanh. Chỉ trong vài phút, tất
cả lá cây, lá cỏ đều biến mất. Những bầy khác nối theo, lột luôn vỏ của cây cối
(1:6, 7). Dân chúng đào
hầm, đốt lửa, rồi đập và đốt chết từng đống cào cào, nhưng nỗ lực của họ chỉ là
phí công vô ích. Một xứ đã bị cào cào phá hại, phải qua nhiều năm mới có thể phục
hồi sinh hoạt bình thường (1:17-20). Người ta nghe
thấy tiếng bay của chúng cách mấy dặm, như tiếng reo hò của lửa cháy (2:5). Phần đất nào
bị chúng đi qua, trông giống như bị lửa thiêu hủy vậy (2:3). Sau khi các đồng
quê bị lột trần trụi, chúng tràn vào thành thị như những đoàn kỵ binh xông vào
nhà và phá hủy tất cả những gì chúng có thể hủy phá được (2:4, 7-9). Đối với đám
dân chúng đã chứng kiến cảnh hoang tàn do cào cào gây ra, thì lời hứa của Đức
Chúa Trời”Ta sẽ đền bù cho ngươi về mấy năm đã bị cắn phá bởi cào cào” (2:25) càng trở thành
linh động hơn.
C. LỜI HỨA VỀ LỄ
NGŨ TUẦN (2:28, 29).
Nhà tiên tri trấn
an dân chúng rằng, chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ đưa đến cả những ơn thương xót tạm
thời (2:18-27)
lẫn các phước hạnh thuộc linh (2:28-32). Phải, Đức
Chúa Trời sẽ sai sự giải cứu từ trời xuống. “Sau đó, ta sẽ đổ Thần ta trên cả
loài xác thịt, con trai và con gái các ngươi sẽ nói tiên tri; những người già cả
các ngươi sẽ thấy chiêm bao, những kẻ trai trẻ các ngươi sẽ xem sự hiện thấy.
Trong những ngày đó, dầu là những đầy tớ trai và đầy tớ gái, ta cũng đổ Thần ta
lên” (2:28,
29). Đây là lời hứa
về ngày lễ Ngũ tuần.
Lời hứa nồng cốt
và quan trọng của sách Giô-ên là sự giải cứu thuộc linh. Các nhà tiên tri khác
đã báo trước những chi tiết liên quan đến đời sống của Chúa Giê-xu trên đất, và
cả đến thời trị vì trong tương lai của Ngài nữa. Giô-ên thì được ban cho cái đặc
ân là nói rằng Ngài sẽ đổ Thần Ngài trên mọi xác thịt. Ông cho chúng ta biết rằng
phước hạnh ấy sẽ từ Giê-ru-sa-lem tuôn trào ra (2:32; 3:18). Lời tiên tri
mà chúng ta được cho biết thật dứt khoát đó, đã ứng nghiệm vào ngày lễ Ngũ Tuần.
Thánh Phi-e-rơ đã tuyên bố: “Ay là điều Đấng tiên tri Giô-ên đã nói tiên tri” (Công vụ 2:16 đọc thêm 2:1-47).
Có một bài học
cho chúng ta ngày nay. Hội Thánh đang lâm vào tình trạng hoang tàn. Nhiều kẻ
thù thuộc linh đã phá hoang Hội Thánh, mà Giô-ên 1:4 mô tả thật
đúng. Đói kém và nắng hạn đang bủa vây bốn phía. Các Cơ-đốc nhân ngày nay được
kêu gọi hãy mọp sát đất trước mặt Chúa với tấm lòng ăn năn thật sự. Sự ăn năn
này phải được bắt đầu với các mục sư, truyền đạo, các trưởng lão. Nếu chúng ta
bằng lòng quay về với Đức Chúa Trời, Ngài sẽ làm trọn lời hứa là sẽ đổ Đức
Thánh Linh xuống và sẽ đền bù những năm mà cào cào đã phá hại. Việc đổ Thần
Ngài xuống trên dân Y-sơ-ra-ên sẽ xảy ra trong tương lai (Ê-xê-chi-ên 36:23-33). Nhu cầu quan
trọng trên tòa giảng và trên ghế nhà thờ hiện nay, là quyền năng của Đức Thánh
Linh.
D. NGÀY CỦA ĐỨC
GIÊ-HÔ-VA
“Ngày của Đức
Giê-hô-va” được đề cập năm lần trong quyển sách ngắn ngủi này, ám chỉ sự đoán
phạt. Nó nói về một loạt nhiều cơn đoán phạt, nạn cào cào hiện tại, các đạo
quân xâm lăng sắp kéo đến là ngọn roi của Đức Chúa Trời giáng trên xứ ấy, và
ngày cuối cùng của Đức Giê-hô-va được mô tả trong Giô-ên đoạn 3. “Ngày của Đức
Giê-hô-va” (hay “Ngày của Chúa) là giai đoạn từ khi Chúa Giê-xu tái lâm trong
vinh quang, đến khi có trời mới đất mới (Ê-sai 2:17-20; 3:7-18; 4:1-2; 13:6-9; Giê-rê-mi 46:10; Ma-la-chi 4:5; ICo1Cr 5:5; ITe1Tx 2:2; II.Phi-e-rơ 3:10). Ngày của Chúa
kéo dài một ngàn năm (KhKh 20:4).
E. PHƯỚC HẠNH
TƯƠNG LAI (Giô-ên 3:1-21).
Giô-ên rao báo một
tương lai đầy sáng lạn cho xứ Giu-đa: (1) Kẻ thù bị lật đổ, 3:1-15 (2)
Giê-ru-sa-lem được giải cứu, 3:16-17 (3) Xứ được ban
phước, 3:18
(4) Giu-đa được phục hồi địa vị, 3:19-21.
Chỉ một mình Đức
Chúa Trời mới có thể cho Giô-ên biết việc dân Do Thái từ cuộc lưu đày được hồi
hương. Chẳng những Giô-ên trông thấy việc người Do Thái từ Ba-by-lôn trở về, mà
ông còn trông thấy việc họ được thâu thập từ các ngoại bang. Ông cũng nói về cuộc
phán xét các nước sau trận Ha-ma-ghê-đôn (3:2-7; Ma-thi-ơ 25:32; KhKh 19:17-21). Ngày mà loài
người quyết định đã chấm dứt. Giờ định mệnh của Đức Chúa Trời đã đến.
Sau khi dân
Y-sơ-ra-ên được phục hồi địa vị và các dân các nước thế gian đã bị phán xét (Giô-ên 3:1, 2) thì nước đời đời
sẽ được thiết lập (3:20). Một lần nữa xứ Palestine là đất hứa, sẽ trở thành
trung tâm của thế lực, và là nơi hội họp các dân các nước để chịu đoán xét. Đấng
Christ sẽ trở lại để thiết lập nước do Ngài cầm quyền tể trị. Đức Chúa Trời sẽ
ngự tại Si-ôn (3:17).
SÁCH TIÊN TRI
GIÔ-NA
I. NHÀ TIÊN TRI
VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Giô-na là người
quê ở Gát-hê-phe, một thị trấn cách Na-xa-rét chừng một giờ đi bộ, thuộc vương
quốc phía Bắc. Truyền thuyết Do Thái bảo rằng ông là con trai của bà góa
Sa-rép-ta mà Ê-li đã khiến sống lại. Chúng ta không biết việc ấy có đúng hay
không, nhưng rất có thể rằng ông là một môn đệ của nhà đại tiên tri Ê-li-sê, và
đã nối nghiệp thầy làm nhà tiên tri.
Giô-na vốn là một
chính khách lừng danh, sống dưới thời trị vì của Giê-rô-bô-am II (trị vì từ
793-753 T.C.). Chính Giô-na đã giúp vua ấy mở mang vương quốc miền Bắc và xứ
Y-sơ-ra-ên trở thành hết sức phú cường (II.Các Vua 14:25).
Trong thời kỳ
này, quyền lực của A-sy-ri đang bắt đầu dấy lên trở lại. Và đến giữa thế kỷ, đế
quốc đã chinh phục và đe dọa tất cả các nước xung quanh. Vậy, ý tưởng về Giô-na
đến thủ đô Ni-ni-ve để công bố sự phán xét sẽ hoàn toàn phù hợp.
Có người cho rằng
sách Giô-na là sách ngụ ngôn và không phải là sách lịch sử, nhằm truyền đạt sứ
điệp hy vọng cho những người lưu đày ở Ba-by-lôn, vì như Giô-na đã bị nuốt
nhưng đã ra khỏi và còn sống, thì cũng vậy, những người lưu đày sẽ có ngày hồi
hương. Tuy nhiên, đa số chấp nhận tính chất lịch sử hơn tính chất ngụ ngôn của
sách Giô-na. Chính Chúa Giê-xu đã xác nhận tính cách lịch sử của sách khi Ngài
đề cập đến Giô-na như đã được ghi lại ở Ma-thi-ơ 12:38-41 và Lu-ca 11:29-32
Không có bằng cớ
chứng minh rằng chính Giô-na đã viết sách, dù rõ ràng ông phải là nguồn thông
tin chính. Ni-ni-ve đã bị hủy diệt vào năm 612 T.C., vậy sách phải được viết
sau đó.
II. NỘI DUNG VÀ
SỨ ĐIỆP TIÊN TRI GIÔ-NA
Chính Chúa
Giê-xu Christ đã khiến cho sách Giô-na trở thành quan trọng. Khi được yêu cầu một
dấu lạ để chứng minh cho những lời tự xưng của Ngài, Ngài chỉ nêu lên cho dân
chúng dấu lạ duy nhất về nhà tiên tri Giô-na (Ma-thi-ơ 12:38-40). Trong sách
Giô-na có hai biến cố quan trọng. Một là con cá lớn nuốt Giô-na, và hai là việc
một thành phố ngoại đạo rất đông dân như Ni-ni-ve đã có thể ăn năn nhờ một giáo
sĩ ngoại quốc vô danh trong vòng có mấy ngày mà thôi. Hãy xem lời Chúa Giê-xu
đã phán trong 12:41, “Đến ngày phán xét, dân thành Ni-ni-ve sẽ đứng dậy
với dòng dõi nầy mà lên án nó, vì dân ấy đã nghe lời Giô-na giảng và ăn năn; mà
đây nầy, có một người tôn trọng hơn Giô-na!”
Chúng ta thấy Đức
Chúa Trời trong sách nầy. Ngài đang lo lắng chăm sóc cho nhà tiên tri của Ngài.
Ngài đang hành động. Để hướng dẫn đời sống Giô-na theo ý định và mục đích của
Ngài, Đức Chúa Trời đã sắm sẵn
(1) Một con cá lớn,
Giô-na 1:17
(2) Một dây dưa,
4:6
(3) Một con sâu,
4:7
(4) Một ngọn gió
cháy thổi từ phương Đông, 4:8. Tại đây chúng ta thấy nổi bật lòng yêu
thương đối với tội nhân hư mất và Ngài muốn dùng tôi tớ Ngài để kêu gọi họ ăn
năn quay lại thờ phượng Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật.
A. MỘT NHÀ TIÊN
TRI NGOAN CỐ (1:1-2:11)
Ở đầu quyển
sách, Đức Chúa Trời phán với Giô-na để sai phái ông “Ngươi khá chổi dậy! Hãy đi
đến thành lớn Ni-ni-ve, và kêu la nghịch cùng nó; vì tội ác chúng nó đã lên thấu
trước mặt ta.”
Đức Chúa Trời vốn
rất dứt khoát trong các mệnh lệnh của Ngài. Ngài dạy Giô-na hãy chổi dậy và đi
“Nhưng Giô-na chổi dậy đặng trốn qua Ta-ra-si, để lánh khỏi mặt Đức Giê-hô-va.
Người xuống đến Gia-pho.” Ông đã nói không với Đức Chúa Trời. Tại sao ông lại
chạy trốn? (4:2). Giô-na vốn biết rằng A-sy-ri là kẻ thù đáng sợ của
Y-sơ-ra-ên. Vào chính điểm nầy của lịch sử thế lực của A-sy-ri dường như đã có
phần nào bị suy yếu đi rồi. Chính lúc ấy, Đức Chúa Trời đã dạy ông hãy đến thủ
đô của cái xứ thù địch ấy để công bố sự phán xét chống lại nó vì cớ sự gian ác
lớn lao của nó. Giô-na sợ rằng Ni-ni-ve có thể ăn năn và được cưú thoát khỏi phần
định mệnh đang trao trên đầu nó. Nếu A-sy-ri bị thất bại chính dân tộc yêu dấu
của Giô-na sẽ có thể thoát được phần trừng phạt do bàn tay của A-sy-ri. Giô-na
vốn có tinh thần của một vị anh hùng dân tộc. Ông quyết định tự hi sinh để cứu
dân tộc mình. Nhưng anh hùng chủ nghĩa của ông đã bị nhầm lẫn thật đáng buồn.
Ni-ni-ve là một
trong những thành phố quan trọng nhất thế giới, tọa lạc tại phía Đông bờ sông
Ti-gơ-rơ, cách Địa Trung Hải 400 dặm. Đó là kinh đô của A-sy-ri (Sáng thế ký 10:11, 12). Chiến lũy của
thành phố có chiều dài khoảng ba mươi dặm và rộng chừng mười dặm. Nó có vẻ thật
tuyệt vời. Có năm lớp vách thành và ba đường hào vây quanh nó. Các vách thành
cao đến 30 m (90 feet) cho bốn chiến xa có thể chạy song song. Có nhiều cung điện
lớn với những khu vườn đẹp nhất. Mười lăm cửa thành có những con sư tử và bò mộng
khổng lồ canh giữ mở vào thành phố. Có bảy mươi hội trường được trang hoàng thật
tráng lệ bằng bạch ngọc và điêu khắc phẩm. Đền thờ của thành phố có hình dạng một
kim tự tháp lớn. Lấp lánh dưới ánh nắng. Thành phố nổi tiếng về gian ác cũng
như về sự giàu có và quyền thế. Các thành tựu về phương diện trí thức hầu như
khó tin nổi.
Ngay lúc Giô-na
bỏ trốn, Đức Chúa Trời liền bắt đầu hành động. Ngài khiến gió lớn thổi trên biển.
Trên biển có trận bão lớn (Giô-na 1:4). Đức Chúa Trời
yêu mến Giô-na rất nhiều đến nỗi không thể để cho ông được may mắn. Thất bại chẳng
bao giờ miễn trừ được cho chúng ta phần trách nhiệm phải phục vụ.
Hãy đọc mọi việc
đã xảy ra trước khi Giô-na bị ném xuống biển (1:3-15). Giô-na bị ném
xuống biển, nhưng tay của Đức Chúa Trời vẫn nắm chặt lấy ông (1:17). Con đường của
Đức Chúa Trời là con đường tốt nhất. Nếu chúng ta không chịu chấp nhận nó, Ngài
sẽ bắt buộc phải giáng trên chúng ta nhiều điều lạ lùng.
Câu nói rằng
Giô-na "trốn khỏi sự hiện diện của Đức Giê-hô-va" (câu 3, 10) không có
nghĩa là ông nghĩ rằng ông đã ở ngoài sự kiểm soát của Ngài về phương diện địa
lý. Vì trong câu 9, ông đã gọi Đức Giê-hô-va là "Đức Chúa Trời trên trời,
Ngài đã làm nên biển và đất khô." Phản ứng của Đức Chúa Trời là Ngài ngăn
cản Giô-na thực hiện chương trình của ông. Đức Chúa Trời đã kỷ luật đầy tớ Ngài
một cách nghiêm khắc về hành động không vâng lời. Tuy nhiên bản tính công bình
của Ngài đi đôi với lòng thương xót. Ngài đã dùng cơn bão để ngăn cản và khiển
trách Giô-na (c.4) nhưng Ngài cũng đã dùng con cá lớn để cứu ông (2:1).
Câu chuyện trong
2:1-11 cho chúng ta biết
Giô-na đã không còn có thể làm gì khác hơn được. Sau khi cầu nguyện nhiều, ông
đã thú nhận là mình chẳng tự mình làm được việc gì cả. Sự cứu (rỗi) đến từ Đức
Giê-hô-va (2:10). Và Đức Chúa Trời đã có thể cho ông được tự do (2:11).
B. MỘT DÂN TỘC
VÂNG LỜI
Đức Chúa Trời mở
một con đường khác cho Giô-na phục vụ Ngài. Lại có Lời Đức Giê-hô-va phán cùng
Giô-na lần thứ hai. Thật dại dột biết bao khi ông đã khiến cho Đức Giê-hô-va phải
nhắc lại lời kêu gọi của Ngài một lần nữa! Phải chi ông đã vâng lời Ngài ngay,
thì có phải là hay hơn không!
Đức Chúa Trời lại
phán: “Khá chờ dậy! Hãy đi đến thành lớn Ni-ni-ve, và rao cho nó lời ta đã dạy
cho ngươi” (3:2).
Giô-na phải đi
qua các thành phố và la lớn còn bốn mươi ngày nữa Ni-ni-ve sẽ bị đổ xuống (3:4), thì không phải
là chuyện dễ. Trong bức thông điệp của ông, đã chẳng có chút lòng nhân từ khoan
dung nào cả. Chẳng có một giọt lệ nào trong giọng nói của nhà tiên tri cả. Ông
đang vâng lời Đức Chúa Trời, nhưng tấm lòng ông vẫn bất biến (4:1-3). Giới bình dân
của Ni-ni-ve ăn năn trước nhất. Rồi giới quý tộc noi theo gương họ. Việc nầy
luôn luôn được nghiệm đúng sự phục hưng bắt đầu từ trong dân chúng. Hãy suy
nghĩ về một thành phố như Chi-ca-go mà lại ăn năn và quay trở lại với Đức Chúa
Trời chỉ trong vòng một ngày vì cớ lời truyền giảng của một nhà tiên tri hiện đại.
Sự việc ấy sẽ là một phép lạ của mọi thời đại. Nhưng việc ấy đã xảy ra lúc
Giô-na truyền giảng vào thời của ông.
Kết quả của hành
động của Đức Chúa Trời là Giô-na đã vâng lời, thực hiện hành trình dài và khó
khăn đến Ni-ni-ve và giảng ở đó (chương 3). Dân chúng Ni-ni-ve ăn năn và Đức
Chúa Trời đã tha thứ họ. Nhưng Giô-na đã nổi giận với Đức Chúa Trời và ông đã
không bằng lòng về việc Chúa tha thứ dân Ni-ni-ve (chương 4). Đức Chúa Trời đã
rất nhẫn nại với Giô-na và Ngài lý giải cho ông hiểu. Và một lần nữa, Đức Chúa
Trời đã dùng các vật từ cõi thiên nhiên, đó là dây dưa (c.6), con sâu (c.7), và
ngọn gió (c.8) để dạy ông một bài học. Đức Chúa Trời quan tâm sâu xa về một dân
gian ác trong một thành phố lớn và muốn đầy tớ của Ngài chia sẻ mối quan tâm
đó. Nhưng Giô-na đã không có sự quan tâm như thế. Vì thế Đức Chúa Trời đã vạch
ra cho Giô-na sự không hợp lý khi ông quan tâm đến dây dưa hơn là dân Ni-ni-ve
là những người đã ở trong sự dốt nát hoàn toàn về lẽ thật của Đức Chúa Trời.
Bài học quan trọng hơn hết của sách Giô-na là mối quan tâm và thái độ của Đức
Chúa Trời đối với tội nhân hư mất, khác hẳn thái độ của Giô-na. Chúng ta hãy tưởng
tượng cảnh Giô-na ngồi rũ rượi trên ngọn đồi về hướng Đông thành phố dưới một
dây dưa mà Đức Chúa Trời đã “sắm sẵn” để che trên đầu ông, chờ xem việc Đức
Chúa Trời sắp làm (4:6).
Quyển sách đã kết
thúc đột ngột. Nhưng có hai điều chúng ta cần lưu ý trong quyển sách nầy. Một
là Giô-na chỉ bóng về sự chết, bị chôn và sống lại của Chúa Cứu Thế “Vì Giô-na
đã bị ở trong bụng cá lớn ba ngày ba đêm, cũng một thể ấy, Con người sẽ ở trong
lòng đất ba ngày ba đêm.” Hai là, Giô-na cũng chỉ bóng về dân Y-sơ-ra-ên -
không vâng lời Đức Chúa Trời, bị các dân các nước trên thế gian nầy nuốt mất,
thế nhưng sẽ được Ngài dứt dấy khi Chúa Cứu Thế giáng lâm. Rồi dân Y-sơ-ra-ên sẽ
làm chứng cho Đức Chúa Trời khắp nơi.
C. SO SÁNH
GIÔ-NA VÀ DÂN Y-SƠ-RA-ÊN
Giô-na, chỉ bóng
về dân Y-sơ-ra-ên.
(1) Giô-na được
kêu gọi thi hành một sứ mạng cho cả thế gian nhưng Giô-na đã khước từ sứ mạng,
không vâng theo lời Đức Chúa Trời. Dân Y-sơ-ra-ên cũng thế;
(2) Giô-na bị
ném xuống biển, còn dân Y-sơ-ra-ên thì bị tan lạc giữa các dân các nước;
(3) Dầu vậy
Giô-na đã được bảo toàn và dân Y-sơ-ra-ên cũng thế; (4) Giô-na đã ăn năn, được
con cá mửa ra và sinh mạng được phục hồi còn dân Y-sơ-ra-ên sẽ bị các dân các
nước mửa ra và được phục hồi địa vị xưa kia; (5) Giô-na vâng lời Đức Chúa Trời,
ra đi thi hành sứ mạng, dân Y-sơ-ra-ên vâng lời Đức Chúa Trời sẽ trở thành một
nhân chứng cho cả thế gian; (6) Giô-na được phước ở chỗ thành Ni-ni-ve đã được
cứu rỗi, dân Y-sơ-ra-ên sẽ được phước vì cả thế gian chịu ăn năn.
Sách Giô-na hầu
như là một sách tường thuật về nhân vật Giô-na hơn là một sách tiên tri như các
sách tiên tri khác. Tuy nhiên sách Giô-na chứa đựng sự dạy dỗ sâu xa về bản
tính và mục đích của Đức Chúa Trời, và vì thế, sách Giô-na đáng được liệt vào
các sách tiên tri.
HÌNH ẢNH CHÚA
GIÊ-XU TRONG CÁC SÁCH TIỂU TIÊN TRI
Trong sách Ô-sê,
Chúa Cứu Thế Giê-xu được phác họa với tư cách Đấng Chữa Lành cho người sa ngã.
Bài học nổi bật là “Hãy trở lại với Đức Chúa Trời.”
Trong sách
Giô-ên, Chúa Cứu Thế Giê-xu được phác họa với tư cách Đấng Phục Hồi Địa Vị. Bài
học nổi bật là “Hãy ăn năn, vì ‘Ngày của Đức Giê-hô-va’ đã gần kề.”
Trong sách A-mốt,
Chúa Cứu Thế Giê-xu được phác họa với tư cách Nhà Nông của Thiên Đàng. Bài học
nổi bật: “Hãy sửa soạn mà gặp Đức Chúa Trời ngươi.”
Trong sách
Áp-đia, Chúa Cứu Thế Giê-xu được phác họa như là Đấng Cứu Chuộc. Bài học nổi bật
là “Hãy sở hữu tài sản.”
Trong sách
Giô-na, Chúa Cứu Thế Giê-xu được phác họa như là sự sống lại và sự sống của
chúng ta. Bài học nổi bật là “Hãy chổi dậy và đi.”
Trong sách
Mi-chê, Chúa Cứu Thế Giê-xu được phác họa như một Chứng Nhân chống các dân tộc
phản loạn. Bài học nổi bật là “Hãy nghe Ngài.”
Trong sách
Na-hum, Chúa Cứu Thế Giê-xu được phác họa như là Thành Lũy Trong Ngày Hoạn Nạn.”
Bài học nổi bật là “Hãy cảnh giác! Ngài là Đức Chúa Trời báo thù!”
Trong sách
Ha-ba-cúc, Chúa Cứu Thế Giê-xu được phác họa như là Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi
tôi. Bài học nổi bật là “ Sống bởi đức tin.”
Trong sách
Sô-phô-ni, Chúa Cứu Thế Giê-xu được phác họa như là Đức Giê-hô-va ghen tuông.
Bài học nổi bật là “Đức Chúa Trời có toàn quyền để giải cứu.”
Trong sách
A-ghê, Chúa Cứu Thế Giê-xu được phác họa như là ước vọng của toàn thể các dân
các nước. Bài học nổi bật là “Hãy xây dựng cho Đức Chúa Trời.”
Trong sách
Xa-cha-ri, Chúa Cứu Thế Giê-xu được phác họa như là Nhánh Công Chính. Bài học nổi
bật là “ Hãy trở lại với Ngài.”
Trong sách
Ma-la-chi, Chúa Cứu Thế Giê-xu được phác họa như là Mặt Trời Công Chính. Bài học
nổi bật là “Hãy ăn năn và quay lại.”
BỐN TRĂM NĂM IM
LẶNG
Lúc lịch sử của
Kinh Thánh Cựu Ước kết thúc, một số ít người Do Thái, chủ yếu là của chi phái
Giu-đa đã hồi hương về Palestine dưới thời Xô-rô-ba-bên, và vào khoảng tám mươi
năm sau đó, một đoàn người khác nữa đã cùng trở về với E-xơ-ra. Họ sống an ổn
trong xứ của họ, với ngôi Đền Thờ đã được xây lại và các nghi lễ tôn giáo được ấn
định.
Ba quyển sách cuối
cùng của Cựu Ước gồm E-xơ-ra, Nê-hê-mi và Ê-xơ-tê cho chúng ta câu chuyện về thời
kỳ đó. Chúng bao trùm 100 năm sau chiếu chỉ của vua Si-ru, cho phép dân Do Thái
hồi hương (536-432 T.C.) (Exo Er 1:1-4).
Bốn trăm năm đã
trôi qua từ Nê-hê-mi cho đến khi thời kỳ Tân Ước bắt đầu. Trong giai đoạn nầy
chẳng có nhà tiên tri nào nói hoặc viết Thánh Kinh, và vì thế được gọi là “giai
đoạn im lặng.” Chúng ta cần biết một số sự việc đã xảy ra trong giai đoạn này,
tức từ ngày của Nê-hê-mi và Ma-la-chi cho đến lúc Chúa Giê-xu ra đời.
Bản Kinh Thánh Bảy
Mươi (The Septuagint )
Trước lúc A-lịch-sơn
Đại Đế băng hà, vua ấy đã chia đế quốc của mình cho bốn viên đại tướng vì nhà
vua không có người nối ngôi. Ai-cập và sau nầy là Palestine nữa, thuộc phần của
đại tướng Ptolemy. Bấy giờ, một số rất đông người Do Thái đang định cư tại Ai-cập
cũng như tại các trung tâm văn hóa khác, đang truyền bá khắp nơi phần kiến thức
về Đức Chúa Trời của họ và về niềm hi vọng của họ về một Đấng Mết-si-a.
Chính vào giai
đoạn nầy, khoảng năm 285 T.C., bộ Kinh Thánh Cựu Ước đã bắt đầu đượcc phiên dịch
ra Hi-văn. Bản Dịch Giả (Septuagint - có nghĩa là “Bảy Mươi”) vì đã có bảy mươi
dịch giả lừng danh người Hy-bá-lai thực hiện công tác vĩ đại nầy. Bạn sẽ thấy
nó được chỉ bằng con số La-mã LXX.
Dân Do Thái bị
ngược đãi , bách hại
Bấy giờ, vương
quốc Sy-ri nổi lên. Trong những cuộc tranh chấp giữa Sy-ri và Ai-cập, Antiochus
Epiphanes, vua Sy-ri đã chiếm xứ Palestine. Vua ấy bắt đầu một cuộc bắt bớ bách
hại dân Do Thái thật gay gắt. Antiochus Epiphanes cấm người Do Thái thờ phượng
trong Đền Thờ, và buộc họ phải ăn thịt heo, là điều mà luật pháp của Đức Chúa
Trời do Môi-se ban bố cấm ngặt (Lê-vi ký 11:1-8). Nhiều người
Do Thái không chịu làm theo, nên một giai đoạn tử vì đạo được bắt đầu.
Những hành động tàn ác của nhà vua Antiochus Epiphanes khủng khiếp nầy dẫn đến cuộc khởi nghĩa của các anh em Ma-ca-bê dưới quyền lãnh đạo của Ma-ta-thia. Lòng yêu nước và nhiệt thành về tôn giáo của Ma-ta-thia đã tập họp được một nhóm người Do Thái cùng đứng lên với ông ta để bắt đầu một cuộc bạo động lan tràn nhanh chóng. Lúc Ma-ta-thia chết, con trai ông là Giu-đa dã thay chỗ cho cha mình. Trong một nỗ lực nhằm đập tan cuộc nổi loạn dưới thời các anh em Ma-ca-bê nầy, Antiochus đã bị đánh bại trong ba lần tranh chấp chí tử. Chính nghĩa của Giu-đa cũng hầu như đi đến chỗ tuyệt vọng vì những người theo ông không được huấn luyện và thiếu trang thiết bị, mà chống lại họ, lại là các binh sĩ đã được huấn luyện vững vàng của một nhà vua đầy thế lực. Nhưng đám người Do Thái tuy đói rách nhưng tận trung nầy, nhờ được đức tin bất tử vào Đức Chúa Trời hà hơi tiếp sức, đã là những người chiến thắng.
Những hành động tàn ác của nhà vua Antiochus Epiphanes khủng khiếp nầy dẫn đến cuộc khởi nghĩa của các anh em Ma-ca-bê dưới quyền lãnh đạo của Ma-ta-thia. Lòng yêu nước và nhiệt thành về tôn giáo của Ma-ta-thia đã tập họp được một nhóm người Do Thái cùng đứng lên với ông ta để bắt đầu một cuộc bạo động lan tràn nhanh chóng. Lúc Ma-ta-thia chết, con trai ông là Giu-đa dã thay chỗ cho cha mình. Trong một nỗ lực nhằm đập tan cuộc nổi loạn dưới thời các anh em Ma-ca-bê nầy, Antiochus đã bị đánh bại trong ba lần tranh chấp chí tử. Chính nghĩa của Giu-đa cũng hầu như đi đến chỗ tuyệt vọng vì những người theo ông không được huấn luyện và thiếu trang thiết bị, mà chống lại họ, lại là các binh sĩ đã được huấn luyện vững vàng của một nhà vua đầy thế lực. Nhưng đám người Do Thái tuy đói rách nhưng tận trung nầy, nhờ được đức tin bất tử vào Đức Chúa Trời hà hơi tiếp sức, đã là những người chiến thắng.
Năm 63 T.C., người
La Mã chiếm xứ Palestine dọn đường cho việc Chúa Giê-xu ra đời. Dân Do Thái được
một phần quyền tự do chính trị, nhưng bị đòi hỏi phải nộp một số cống thuế hằng
năm cho chính quyền La Mã.
PHẦN HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
(Study Guide)
(Study Guide)
Phần 1: SỰ HÌNH
THÀNH CÁC SÁCH TIÊN TRI
1. Từ liệu nào
trong mỗi câu Kinh Thánh sau đây hàm ý sứ điệp đã được nói ra: Ê-sai 32:9; Ê-sai 34:1; Ê-sai 40:6; Giê-rê-mi 37:4; Ê-xê-chi-ên 36:1; Ô-sê 8:1; A-mốt 1:2; Giê-rê-mi 2:2.
2. Những câu
Kinh Thánh sau đây cho biết hình thức nào được dùng để diễn tả sứ điệp: Ma-la-chi 1:2-5, 6-14; Ê-xê-chi-ên 23:1-49; II.Sử ký 21:12-15; 27:2;; Ê-sai 38:1; 36:1-36.
3. Cho biết các
câu sau Đúng (Đ) hay Sai (S)
a) Các nhà tiên tri đã dùng lời được nói ra như là phương tiện truyền thông sứ điệp của họ
b) Cụm từ "Đức Giê-hô-va phán" theo nghĩa đen có nghĩa là:
(i) Lời phán của Đức Giê-hô-va
(ii) Chiêm bao đến từ Đức Giê-hô-va
(iii) Sấm ngôn của Đức Giê-hô-va
c) Cụm từ "Đức Giê-hô-va phán" hàm ý rằng sứ điệp của các nhà tiên tri luôn luôn ngắn và sắc bén
d) Cụm từ "Đức Giê-hô-va phán" là cách diễn đạt rất phổ thông cho chúng ta biết một số điều về vai trò của các nhà tiên tri
e) Câu "Đức Giê-hô-va phán" nhắc chúng ta nhớ rằng sứ điệp đã được ban cho bởi sự mặc khải
a) Các nhà tiên tri đã dùng lời được nói ra như là phương tiện truyền thông sứ điệp của họ
b) Cụm từ "Đức Giê-hô-va phán" theo nghĩa đen có nghĩa là:
(i) Lời phán của Đức Giê-hô-va
(ii) Chiêm bao đến từ Đức Giê-hô-va
(iii) Sấm ngôn của Đức Giê-hô-va
c) Cụm từ "Đức Giê-hô-va phán" hàm ý rằng sứ điệp của các nhà tiên tri luôn luôn ngắn và sắc bén
d) Cụm từ "Đức Giê-hô-va phán" là cách diễn đạt rất phổ thông cho chúng ta biết một số điều về vai trò của các nhà tiên tri
e) Câu "Đức Giê-hô-va phán" nhắc chúng ta nhớ rằng sứ điệp đã được ban cho bởi sự mặc khải
4. Xin bạn giải
thích và dẫn chứng cụ thể để làm sáng tỏ lời phát biểu sau đây: “Sự phân tích
các hình thức diễn đạt đã được các nhà tiên tri sử dụng giúp chúng ta hiểu tốt
hơn vai trò của họ và cũng giúp đánh giá sự đa dạng của các hình thức họ đã
dùng để truyền thông sứ điệp của họ. Điều này cũng giúp chúng ta thấy bối cảnh
phía sau những lời tiên tri đã được công bố.”
5. Hãy viết độ
1.500 từ đưa ra quan điểm của bạn về sự hình thành các sách tiên tri.
Phần 2: NHỮNG
PHƯƠNG PHÁP CĂN BẢN ĐỂ NGHIÊN CỨU MỘT
SÁCH TIÊN TRI
1. Xin tóm lược
những nguyên tắc căn bản để có thể hiểu đúng ý nghĩa và sứ điệp một sách hay một
đoạn văn trong sách tiên tri.
2. Bằng cách nào
chúng ta có thể tìm hiểu bối cảnh một đoạn văn tiên tri?
3. Tại sao chúng
ta cần phải tách rời từng lời sấm truyền khi tìm hiểu ý nghĩa một sách tiên tri?
Bằng cách nào chúng ta tách biệt được lời sấm truyền này với lời sấm truyền
khác?
4. Khi áp dụng
các sứ điệp trong các sách tiên tri cho bối cảnh hiện tại, chúng ta cần thận trọng
lưu ý điều gì? Tại sao?
5. Xin tóm lược
các bước căn bản để nghiên cứu một sách tiên tri.
Phần 3: SÁCH
TIÊN TRI A-MỐT
1. A-mốt thuộc
vương quốc nào? Ông đã nói tiên tri cho ai? Trong thời gian nào? Điều gì đã khiến
ông rời khỏi công việc và chỗ ở của mình để trở thành một nhà tiên tri?
2. Câu đáp của
A-mốt cho thầy tế lễ A-ma-xia (A-mốt 7:10-17) cho chúng ta
biết những gì ông nghĩ về chính mình và về các tiên tri khác. Theo bạn, trong
những cách giải thích câu đáp của A-mốt sau đây, cách giải thích nào thích hợp
hơn hết?
(i) "Tôi đã
không phải là một nhà tiên tri trước đó, nhưng bây giờ tôi là nhà tiên
tri"
(ii) "Tôi không ước ao được gọi là một nhà tiên tri"
(iii) "Tôi không phải là một nhà tiên tri trong ý nghĩa chuyên nghiệp mà ông đã nghĩ."
(ii) "Tôi không ước ao được gọi là một nhà tiên tri"
(iii) "Tôi không phải là một nhà tiên tri trong ý nghĩa chuyên nghiệp mà ông đã nghĩ."
3. Nhà tiên tri
đã tiết lộ cho chúng ta kinh nghiệm nội tâm của ông trong sự kêu gọi để làm một
nhà tiên tri. Ông mô tả điều đó trong cụm từ "bắt lấy ta" như là một
sự thôi thúc có tính cách cưỡng bách. Vậy, điều gì đã khiến ông phải nói tiên
tri? (Có phải đó là tình trạng thối nát và bất công của Y-sơ-ra-ên trong thời của
ông hay những khải tượng mà ông thấy?). Xin trích dẫn Kinh Thánh.
4. A-mốt đã thấy
những khải tượng nào?
A-mốt 7:1-3 khải tượng về ...............................................
7:4-6 khải tượng về ...............................................
7:7-9 khải tượng về ...............................................
8:1-3 khải tượng về ...............................................
9:1 khải tượng về ...............................................
A-mốt 7:1-3 khải tượng về ...............................................
7:4-6 khải tượng về ...............................................
7:7-9 khải tượng về ...............................................
8:1-3 khải tượng về ...............................................
9:1 khải tượng về ...............................................
5. Những khải tượng
này liên hệ thế nào đến việc A-mốt được Chúa kêu gọi?
6. A-mốt mạnh mẽ
lên án những người giàu trong thời ông. Những người giàu đã xây dựng loại nhà
nào cho họ (3:15 và 5:11)? Cách sống của
những người giàu này thế nào (6:4-7)? “Bò cái của
Ba-san" (4:1) chỉ về ai? A-mốt 5:11 diễn tả thế nào
về việc người giàu áp bức người nghèo?
7. A-mốt quở
trách người giàu về việc buôn bán gian dối của họ (8:4-6). Hãy viết ra
ít nhất hai trong số những việc làm gian dối đó. Điều này dẫn đến hậu quả nào
cho người nghèo (2:6)?
8. A-mốt cho
chúng ta cái nhìn về thực trạng của xã hội Y-sơ-ra-ên trong thế kỷ thứ tám
T.C.. Đối diện với thực trạng ấy, A-mốt đã phải nói gì? Sứ điệp của ông ra sao?
9. Những quốc
gia nào được đề cập đến trong chương 1 và 2? Những quốc gia này bị lên án về những
tội nào? A-mốt nhắc thính giả của ông những tiêu chuẩn tuyệt đối nào của Đức
Chúa Trời về sự công chính và quyền tể trị của Ngài trên tất cả các nước? Bạn
nghĩ thính giả của ông (Y-sơ-ra-ên) phản ứng thế nào đối với những lời lên án
này?
10. Từ 2:6 trở đi,
Y-sơ-ra-ên bị lên án như thế nào? A-mốt nói gì về các của lễ và của dâng của họ
(4:4-5;; 5:21-24;)? A-mốt nói điều gì sẽ xảy ra cho Bê-tên (5:4-7;) ? Hãy liệt
kê vài điều sẽ xảy ra cho Y-sơ-ra-ên trong sự hình phạt (3:11-15;). Sự phán xét
được mô tả như thế nào trong các chương 7 - 9? Thái độ của Đức Chúa Trời đối với
tội lỗi của Y-sơ-ra-ên dạy gì về phẩm tính của Ngài? Có phải A-mốt đưa ra những
sự dạy dỗ mới về Đức Chúa Trời? Bạn nghĩ họ đáp ứng thế nào đối với sứ điệp của
A-mốt (7:12)?
11. “Ngày Đức
Giê-hô-va” là gì? Được A-mốt mô tả như thế nào? (5:18-20). Đối với quốc
gia Y-sơ-ra-ên, tương lai gần chỉ là chiến tranh, bị đánh bại và lưu đày. Còn
tương lai xa thì sao? Sách A-mốt kết luận với phước hạnh tối hậu nào dành cho họ
(9:8, 11-15)? Giải thích
cách vắn tắt tại sao sứ điệp của A-mốt chứa đựng yếu tố hy vọng?
Phần 4: SÁCH
TIÊN TRI Ô-SÊ
1. Ô-sê nói tiên
tri trong đời vua nào của Giu-đa và Y-sơ-ra-ên?
2. Cho biết các
câu sau đây đúng (Đ) hay sai (S)?
a) Cuộc hôn nhân
của Ô-sê với Gô-me do Đức Giê-hô-va khởi xướng
b) “Người vợ gian dâm" chỉ về hành vi tương lai của Gô-me chứ không chỉ về tình trạng của Gô-me lúc cưới
b) “Người vợ gian dâm" chỉ về hành vi tương lai của Gô-me chứ không chỉ về tình trạng của Gô-me lúc cưới
c) Quốc gia
Y-sơ-ra-ên đã thất tín lúc lập giao ước với Đức Chúa Trời và sau đó
d) Quốc gia Y-sơ-ra-ên đã không thất tín với Đức Chúa Trời lúc lập giao ước, nhưng Ngài biết rằng họ sẽ trở nên thất tín về sau
e) Quốc gia Y-sơ-ra-ên đã trở nên thất tín sau hành trình trong đồng vắng, nhưng Đức Chúa Trời đã không thấy trước rằng điều này sẽ xảy ra
f) Hơn cả khước từ hoàn toàn sự thờ phượng Đức Giê-hô-va, người Y-sơ-ra-ên đã thờ phượng Đức Giê-hô-va và Ba-anh song hành, cho đến lúc cuối cùng sự thờ phượng ngoại bang trở nên ưu thế hơn
d) Quốc gia Y-sơ-ra-ên đã không thất tín với Đức Chúa Trời lúc lập giao ước, nhưng Ngài biết rằng họ sẽ trở nên thất tín về sau
e) Quốc gia Y-sơ-ra-ên đã trở nên thất tín sau hành trình trong đồng vắng, nhưng Đức Chúa Trời đã không thấy trước rằng điều này sẽ xảy ra
f) Hơn cả khước từ hoàn toàn sự thờ phượng Đức Giê-hô-va, người Y-sơ-ra-ên đã thờ phượng Đức Giê-hô-va và Ba-anh song hành, cho đến lúc cuối cùng sự thờ phượng ngoại bang trở nên ưu thế hơn
3. Các quốc gia
nào mà Y-sơ-ra-ên đến xin giúp đỡ? (Ô-sê 5:13; 8:10; 7:11; 12:2; 8:9).
4. Ô-sê cảnh cáo
Y-sơ-ra-ên thế nào và điều gì sẽ xảy ra cho họ? (Ô-sê 8:13; 10:6; 9:3; 11:5; 9:6).
5. Tại sao Đức
Chúa Trời sắp hình phạt Y-sơ-ra-ên? Đức Chúa Trời sẽ hình phạt Y-sơ-ra-ên như
thế nào? Tội của Y-sơ-ra-ên là gì? Đức Chúa Trời đòi hỏi điều gì nơi
Y-sơ-ra-ên? Phẩm tính của Đức Chúa Trời như thế nào? Có bất cứ hy vọng nào
không?
6. Hãy đọc Ô-sê 14:4-7 và chọn trong số
những câu sau đây một câu mà bạn nghĩ là mô tả tốt nhất sứ điệp của Ô-sê về
tình trạng tương lai của Y-sơ-ra-ên:
( ) a. Đức Chúa Trời sẽ đến và trị vì như Vua tại Giê-ru-sa-lem và Y-sơ-ra-ên sẽ có hòa bình vĩnh cửu.
( ) b. Đức Chúa Trời sẽ đặt Thần của Ngài trong dân sự, và rồi họ sẽ trở về cùng Ngài.
( ) c. Đức Chúa Trời lại sẽ bày tỏ tình yêu vĩ đại của Ngài và quan tâm (săn sóc) quốc gia Y-sơ-ra-ên.
( ) a. Đức Chúa Trời sẽ đến và trị vì như Vua tại Giê-ru-sa-lem và Y-sơ-ra-ên sẽ có hòa bình vĩnh cửu.
( ) b. Đức Chúa Trời sẽ đặt Thần của Ngài trong dân sự, và rồi họ sẽ trở về cùng Ngài.
( ) c. Đức Chúa Trời lại sẽ bày tỏ tình yêu vĩ đại của Ngài và quan tâm (săn sóc) quốc gia Y-sơ-ra-ên.
7. Điểm nhấn mạnh
đặc biệt của sứ điệp Ô-sê là gì? Nếu chữ chìa khóa của A-mốt là "sự công
chính" (A-mốt 5:24) thì chữ chìa khóa của Ô-sê là gì? Xin
giải thích.
Phần 5: SÁCH
TIÊN TRI MI-CHÊ
1. Mở đầu sách
tiên tri, Mi-chê (Mi-chê 1:2-16) cảnh cáo ai, về tội lỗi gì? Điều gì sẽ
xảy ra cho họ? Thành phố nào sắp bị hủy diệt?
2. Trong chương
2 và 3, tội lỗi và bất công đang xảy ra trong xã hội qua 3 nhóm người nào? Họ
làm gì? Tội ác nào họ đã phạm? Cuối cùng điều gì sẽ xảy ra cho họ?
3. Các nhà tiên
tri "chuyên nghiệp" có thể thấy sự đe dọa về sự phán xét, nhưng thái
độ của họ đối với điều đó như thế nào (2:6; 3:11)? Họ nói tiên
tri vì động cơ nào? (3:5; 3:11)? Hãy đối chiếu
sứ điệp của Mi-chê với sứ điệp của các tiên tri giả (3:8, 12).
4. Sứ điệp của
Mi-chê có điểm tương đồng với Ê-sai, khi ông đề cập đến một "Minh
Quân." Vị “Minh Quân” này được mô tả như thế nào? Thay vì sinh ở
Giê-ru-sa-lem, vị Vua này sẽ sinh ở đâu? Tại sao? Công việc của Vua được ví
sánh với công việc gì? (5:4a so với 2:12 tt).
5. Hình ảnh người
chăn chiên là một hình ảnh phổ thông dùng chỉ vai trò các vua trong Cựu Ước
(cũng xem Giê-rê-mi 23:1-40 và Ê-xê-chi-ên 34:1-31). Vị vua trong
Mi-chê chỉ về ai? Kết quả sự cai trị của Vua sẽ như thế nào (Mi-chê 5:4b)? Đem lại cho
Y-sơ-ra-ên vị thế nào, ở giữa các nước sẽ như thế nào (5:7-9)?
6. Chương 6 diễn
ra quang cảnh pháp đình. Ai là quan tòa? Ai là bị cáo? Ai là nguyên cáo? Ai là
những nhân chứng? Đức Chúa Trời đòi hỏi dân Ngài ba điều nào? Có ý nghĩa ra
sao? Những điều này nhắc chúng ta nhớ đến trọng tâm sứ điệp của ba nhà tiên tri
nào thuộc thế kỷ thứ tám T.C.?
7. Chương 7 bắt
đầu với những nỗi buồn nhưng kết thúc với hy vọng về sự phục hồi (18-20). Điều
này hoàn toàn đặt căn bản trên phẩm tính của Đức Chúa Trời. Xin nêu ra những những
phẩm tính của Đức Chúa Trời được mô tả tại đây. Hãy liệt kê những điều mà Đức
Chúa Trời đang làm và sẽ làm.
8. Dựa vào những
phân đoạn gợi ý dưới đây để lập bố cục cho cả sách: 1:1; 1:2-16; 2:1; 3:12; 4:1; 5:1; 5:2-15; 6:1-8; 6:9-11; 7:1-20. Cho biết những
chủ đề chính và những câu chìa khóa của sách Mi-chê. Xin tóm lược sứ điệp và sự
nhấn mạnh đặc biệt của Mi-chê.
9. Mi-chê đã nói
tiên tri đồng thời với Ê-sai, khởi đầu sau một ít. Bạn nghĩ tại sao Đức Chúa Trời
sai hai nhà tiên tri vào lúc này? Bạn có thể thấy sứ điệp của họ giống nhau,
khác nhau hay bổ túc cho nhau như thế nào?
Phần 6: SÁCH TIÊN TRI SÔ-PHÔ-NI
1. Theo những
câu mở đầu của các sách Ê-sai, Mi-chê, Giê-rê-mi và Sô-phô-ni, tất cả những nhà
tiên tri này có lẽ đã sống trong đời trị vì lâu dài của Ma-na-se. Theo II.Các Vua 21:1-18, Ma-na-se được
mố tả như thế nào? Trong phần lớn đời trị vì của ông, tình trạng quốc gia
Giu-đa như thế nào?
2. Sau nhiều năm
cai trị với hành vi cực kỳ gian ác, Ma-na-se đã bị bắt lưu đày sang Ba-by-lôn.
Trong cơn buồn bã, ông đã cầu nguyện xin Đức Chúa Trời thương xót. Ngài đã đáp
lời cho ông hai điều gì? Và sau đó thái độ của Ma-na-se đối với Đức Chúa Trời
như thế nào (II.Sử ký 33:12-16)?
3. Theo các sứ
giả Thánh Kinh, đặc điểm chính của thời trị vì của Giô-si-a là cuộc cải cách mà
ông đã bắt đầu vào khoảng 622 T.C.. Động cơ nào thúc đẩy cuộc cải cách? Cần nhớ
rằng đời trị vì của Giô-si-a tiếp theo đời trị vì của Ma-na-se và Am-môn. Bạn
có thể nghĩ ra bất cứ lý do nào cuốn sách có thể bị giấu trong những thập kỷ
trước đó không?
4. Trong đời trị
vì của Giô-si-a, biến chuyển nào đã xảy ra trong cán cân quyền lực giữa các quốc
gia vào năm 612 T.C.? Vua Giô-si-a đã tham dự vào cuộc tranh chấp quyền lực quốc
tế như thế nào và kết cuộc ra sao (II.Các Vua 23:19-30)?
5. Gia phổ ở phần
mở đầu sách cho chúng ta biết gì về Sô-phô-ni? Sô-phô-ni nói tiên tri dưới thời
vua nào? Lời tiên tri của Sô-phô-ni liên hệ thế nào đến cuộc cải cách của
Giô-si-a?
6. Lời tiên tri
bắt đầu với lời lẽ có tính cách phá hủy của sự phán xét (SoXp 1:2). Đức Chúa Trời
sắp làm gì? Ngài sẽ làm điều đó để chống lại ai? (4-6)
7. Sô-phô-ni
dùng cụm từ “Ngày của Đức Giê-hô-va” (1:2-2:3) để chỉ về điều
gì? Nhà tiên tri nào trước đã nói về đề tài này? Cả hai nhà tiên tri dùng từ
nào để tượng trưng cho "Ngày của Đức Giê-hô-va"? (A-mốt 5:18-20; SoXp 1:14-16). Hãy đọc suốt
Sô-phô-ni 1 và viết ra bốn cách khác nhau mà nhà tiên tri nói đến “Ngày của Đức
Giê-hô-va.”
8. Lời dự ngôn đầu
tiên của Sô-phô-ni có liên quan tới sự phán xét đang đe dọa trên Giu-đa, kết
thúc với tin tức rằng sự phán xét có thể được hủy bỏ. Dân chúng được đòi hỏi
tìm kiếm hai phẩm chất nào (2:1-3)? Ngoài tuyển dân của Chúa, lời tiên
tri còn đề cập đến nước nào khác trong chương 2? Nhà tiên tri nói gì về những
nước này?
9. Trong chương
3, lời tiên tri trở lại với Giê-ru-sa-lem. Tội lỗi của Giu-đa được mô tả như thế
nào trong 3:1-5.
Từ 3:9 bắt đầu sứ điệp
hy vọng nào cho Giê-ru-sa-lem (3:14-16)? Sô-phô-ni cho
thấy hy vọng nào về tương lai? Chúng ta đã thấy rằng chính Đức Chúa Trời là
hình ảnh trung tâm của niềm hy vọng này (xem 3:15, 17, 19, 20)? Xin liệt kê ở
đây những gì được biết về Đức Chúa Trời, và phẩm tính của Ngài trong chương 3,
đặc biệt các câu 5, 8, 15 tt.
10. Cả Sô-phô-ni
và A-mốt đều nói về sự hình phạt bủa trên Giu-đa, Y-sơ-ra-ên và các lân bang của
họ. Hãy tra xem A-mốt 1:1-14 và 2:1-16; SoXp 2:4-15, rồi liệt kê 3
quốc gia hoặc địa điểm được tìm thấy trong cả hai sách này. Vương quốc
Y-sơ-ra-ên phía Bắc đã có một vị trí đáng chú ý trong bảng liệt kê 8 quốc gia
trong A-mốt. Nhưng nó vắng bóng trong số các quốc gia được liệt kê trong
Sô-phô-ni. Bạn giải thích sự kiện này như thế nào? Quốc gia quan trọng nào được
tìm thấy trong dự ngôn của Sô-phô-ni, không được nói đến trước đó bởi A-mốt?
11. Hãy tóm tắt,
trong một đoạn văn, sứ điệp chính và những nhấn mạnh nổi bật của Sô-phô-ni. Bạn
nghĩ Sô-phô-ni tương đồng hơn hết với nhà tiên tri nào? Xin đưa ra những lý do
cho câu đáp của bạn.
12. Hãy lập bố cục
cho cả sách căn cứ vào sự phân chia sau đây:
1:1
1:2-2:3
2:4-15
3:1-8
3:9-20
1:1
1:2-2:3
2:4-15
3:1-8
3:9-20
Phần 7: SÁCH
TIÊN TRI NA-HUM
1. Na-hum nói
tiên tri đồng thời với các tiên tri nào trong thế kỷ thứ bảy T.C.? Ông tập
trung trên một thành phố ngoại giáo nào? Về vấn đề gì?
2. Đức Chúa Trời
đã dấy A-sy-ri lên để hình phạt dân của Ngài nhưng Ngài lại dấy quốc gia nào để
hình phạt A-sy-ri?
3. Thành
Ni-ni-ve bị sụp đổ trước liên minh quân sự của Ba-by-lôn và Mê-đi vào năm 612
T.C.. Vì Na-hum nói tiên tri có liên quan đến sự hủy diệt sắp đến của Ni-ni-ve,
đồng thời Na-hum cũng tham khảo một biến cố lịch sử nổi tiếng nào trong thời
ông (Na-hum 3:8-10)
nên lời tiên tri phải được rao giảng trong thời gian nào?
4. Xin cho biết
những phẩm tính của Đức Chúa Trời được đề cập trong chương 1. Sự mô tả của
Na-hum về Đức Giê-hô-va có những điểm tương đồng nào với kinh nghiệm Xuất Ai-cập
của Y-sơ-ra-ên (Xuất Ai-cập 15:1-12)?
5. Na-hum đã dự
ngôn về tương lai của quốc gia A-sy-ri như thế nào (Na-hum 1:14-15)?
a. Sự hình phạt
A-sy-ri chỉ là tạm thời.
b. Sự hình phạt A-sy-ri phải là rất nghiêm trọng nhưng phần sót lại sẽ sống sót.
c. Sự hình phạt A-sy-ri phải dẫn tới sự hủy diệt hoàn toàn của quốc gia. Không có hy vọng tương lai trong bất cứ hình thức nào.
b. Sự hình phạt A-sy-ri phải là rất nghiêm trọng nhưng phần sót lại sẽ sống sót.
c. Sự hình phạt A-sy-ri phải dẫn tới sự hủy diệt hoàn toàn của quốc gia. Không có hy vọng tương lai trong bất cứ hình thức nào.
6. Chương 2 mô tả
sự bao vây và hủy phá thành Ni-ni-ve như thế nào?
7. Ni-ni-ve đã
cướp phá các nước và được lợi về thương mại, nhưng cả quân đội hùng hậu lẫn sự
thành công về thương mại đều sẽ không cứu Ni-ni-ve khỏi sự phán xét của Đức
Giê-hô-va, mà ở đây, như các nhà tiên tri thường mô tả, được tiêu biểu bằng lửa
(3:15). Chương 3 đưa
ra những lý do nào dẫn đến sự sụp đổ của thành Ni-ni-ve?
8. Trong số các
ý tưởng sau đây được các nhà tiên tri viết sách trình bày, ý tưởng nào chỉ được
tìm thấy trong sách Na-hum?
a. Sự khiển
trách các quốc gia Y-sơ-ra-ên và Giu-đa vì tội lỗi của họ.
b. Sự đoan chắc rằng Đức Giê-hô-va sẽ không bỏ qua tội lỗi, nhưng nó sẽ bị hình phạt.
c. Lời hứa rằng Đức Giê-hô-va sẽ dấy lên một Đấng Mết-si-a.
b. Sự đoan chắc rằng Đức Giê-hô-va sẽ không bỏ qua tội lỗi, nhưng nó sẽ bị hình phạt.
c. Lời hứa rằng Đức Giê-hô-va sẽ dấy lên một Đấng Mết-si-a.
1. Toàn thể lời
tiên tri tỏ ra tâm trạng nào của nhà tiên tri liên quan đến chương trình của Đức
Chúa Trời hủy diệt thành Ni-ni-ve:
a. Vui mừng
b. Buồn thảm vô cùng
c. Thiếu quan tâm
b. Buồn thảm vô cùng
c. Thiếu quan tâm
10. Ý nào trong
những ý sau đây được nhấn mạnh trong sách Na-hum?
a. Những người sống
bởi gươm sẽ chết bởi gươm.
b. Sự chân thật là sách lược tốt nhất.
c. Đức Giê-hô-va phán: "Sự báo thù thuộc về Ta, Ta sẽ bảo trả"
d. Các dân tộc công chính sẽ luôn luôn phát đạt nhưng các dân tộc gian ác thì sẽ không bao giờ phát đạt.
b. Sự chân thật là sách lược tốt nhất.
c. Đức Giê-hô-va phán: "Sự báo thù thuộc về Ta, Ta sẽ bảo trả"
d. Các dân tộc công chính sẽ luôn luôn phát đạt nhưng các dân tộc gian ác thì sẽ không bao giờ phát đạt.
Phần 8: SÁCH TIÊN TRI ÁP-ĐIA
1. Chúng ta có
thể biết gì về Áp-đia? Dầu chúng ta không biết gì về tác giả, thì bối cảnh và mục
đích của lời tiên tri này là gì?
2. Lúc người Do
Thái trở về từ lưu đày, năm 538 T.C., người Ê-đôm đã bị đuổi ra khỏi quê hương
của họ bởi các chi phái Ả-rập lân bang. Vậy, sách Áp-đia phải được viết vào thời
gian nào?
3. Áp-đia tuyên
cáo tội ác của ai? Về tội gì (c.11-14)? Điều gì đã thực sự xảy ra vào lúc đó
(c.11)? Đây là tai họa nào và người Ê-đôm đã làm gì?
4. Lời tiên tri
cảnh cáo Ê-đôm trước khi sự hủy diệt xảy ra. Trong sách Giê-rê-mi và Áp-đia có
một số câu tương đồng, dù được ký thuật trong một thứ tự khác. Hãy đọc các câu
sau đây và cho biết những câu nào tương đồng với nhau.
Áp-đia Giê-rê-mi 49
Áp-đia Giê-rê-mi 49
(1) các câu 1-4
(a) các câu 9-10
(2) các câu 5-6 (b) các câu 7b, 22b
(3) các câu 8-9a (c) các câu 14-16
Điều này cho thấy sự liên quan nào giữa Giê-rê-mi và Áp-đia? (Cần lưu ý là Na-hum đã xuất hiện đúng vào buổi đầu của chức vụ của Giê-rê-mi và Áp-đia xuất hiện ngay sau đó).
(2) các câu 5-6 (b) các câu 7b, 22b
(3) các câu 8-9a (c) các câu 14-16
Điều này cho thấy sự liên quan nào giữa Giê-rê-mi và Áp-đia? (Cần lưu ý là Na-hum đã xuất hiện đúng vào buổi đầu của chức vụ của Giê-rê-mi và Áp-đia xuất hiện ngay sau đó).
5. Người Ê-đôm
là ai? Họ sống ở đâu? Đã làm điều sai nào? Họ có mối liên hệ thế nào với
Y-sơ-ra-ên (câu 8-10)? Tại sao họ đã nhận sự phán xét như thế? (xem thêm Sáng thế ký 36:6-8; Dân số ký 20:14-21).
6. Điểm đáng chú
ý hơn hết trong lời tiên tri Áp-đia là người Ê-đôm đã đạt đến tột đỉnh một lịch
sử lâu dài thù nghịch với dân Y-sơ-ra-ên, bởi hành động của họ lúc
Giê-ru-sa-lem sụp đổ. Cho một thí dụ điển hình cho thấy trong quá khứ họ đã từng
không giúp đỡ "anh em Y-sơ-ra-ên" của họ.
7. Sự thù nghịch
kéo dài nhiều năm giữa Ê-đôm với Y-sơ-ra-ên luôn được các nhà tiên tri mô tả và
kết án. Áp-đia (câu 12-14) cho biết người Ê-đôm đã làm gì (xin nêu ra 3 điều)
khi Giê-ru-sa-lem bị chinh phục bởi kẻ thù?
8. Sứ điệp của
Áp-đia là Đức Chúa Trời sẽ phán xét Ê-đôm và nhấn mạnh Vương quyền của Đức Chúa
Trời. Xin cho biết nội dung những sứ điệp này.
9. Áp-đia nói gì
về "Ngày của Đức Giê-hô-va" (c.15.)? Ảnh hưởng trên những dân tộc
nào? Những ngôn từ gợi hình nào (cũng được các tiên tri khác dùng), được dùng
chỉ về sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời trên họ? Trong ngày đó, những ai sẽ được
an toàn (c.17)?
10. Ở đây Áp-đia
đụng đến một lẽ thật trọng yếu, về sau được các tác giả Thánh Kinh mở rộng và
được khai triển hầu như đầy đủ trong sách Khải huyền (KhKh 11:15 và các chỗ
khác). Xin trình bày lẽ thật đó bằng lời riêng của bạn.
11. Một số học
giả đã gọi sách Áp-đia là "Bài ca của sự thù ghét," tương tự có thể
nói về sách Na-hum như thế. Bạn nghĩ gì về nhận xét này?
12. Áp-đia và
Na-hum cho chúng ta biết gì về (1) Phẩm tính của Đức Chúa Trời; (2) Bản chất của
tội lỗi; (3) Sự phán xét của Đức Chúa Trời. Qua đó bạn đánh giá thế nào về hai
sách này? Chúng ta là Cơ Đốc nhân nên có thái độ nào khi người khác làm khổ
mình, như Y-sơ-ra-ên đã chịu khổ do người A-sy-ri và Ê-đôm?
Phần 9: SÁCH
TIÊN TRI HA-BA-CÚC
1. Ha-ba-cúc đã
đặt những vấn đề nào, với ai, và được trả lời như thế nào? Trong khi Na-hum
tuyên cáo số phận của người A-sy-ri và những người Y-sơ-ra-ên có lẽ cũng đã vui
mừng thì Ha-ba-cúc đã quan ngại điều gì?
2. Ha-ba-cúc bị
phiền lòng sâu xa bởi sự bạo ngược và sự bất công xảy ra chung quanh ông ở
Giu-đa (Ha-ba-cúc 1:2,
3). "Bạo ngược"
là một chữ chìa khóa ở đây. Hãy ghi nhận 5 từ đồng nghĩa với nó trong các câu 2
và 3.
3. Hãy chú ý câu
nói quan trọng của Ha-ba-cúc ở câu 13a. Câu này có hàm ý gì?
4. Ha-ba-cúc đã
chờ đợi sự trả lời của Chúa như thế nào? Câu trả lời của Ngài (Ha-ba-cúc 2:2-5) bao gồm những
phương diện nào? Sứ điệp trọng tâm của câu trả lời là gì?
5. Ha-ba-cúc 2:6-20 có năm chữ
"khốn thay." Từ ngữ này có hàm ý gì? Xin tóm tắt mỗi "khốn
thay."
6. Ha-ba-cúc 2:14, 20 là những lời
bày tỏ đức tin và lòng tin cậy mặc dù sự kiêu căng tự phụ, bạo ngược của người
Ba-by-lôn. Bằng cách nào hai câu này cũng như phân đoạn Ha-ba-cúc 2:6-20 cung cấp câu trả
lời cho câu hỏi của Ha-ba-cúc?
7. Trong lời cầu
nguyện của Ha-ba-cúc (3:2), ông đang xin Chúa điều gì? Bản chất của lời cầu
nguyện này là gì?
8. Ha-ba-cúc mô
tả công việc Đức Chúa Trời đã làm trong quá khứ như thể ông "đang thấy"
đang xảy ra trong hiện tại. Ha-ba-cúc đang thấy gì (3:3-6)? Mục đích của
sự hiện đến của Đức Chúa Trời là gì (3:13)?
9. Hãy so sánh
các đoạn sau:
3:3 với Phục truyền 33:2
3:3, 4 với Xuất Ai-cập 19:16-20
3:5 với Dân số ký 14:12; 21:4-9
3:6, 7 với Xuất Ai-cập 15:14-16
Tại đây những biến cố nào trong lịch sử Y-sơ-ra-ên được nhắc tới? Tại sao?
3:3 với Phục truyền 33:2
3:3, 4 với Xuất Ai-cập 19:16-20
3:5 với Dân số ký 14:12; 21:4-9
3:6, 7 với Xuất Ai-cập 15:14-16
Tại đây những biến cố nào trong lịch sử Y-sơ-ra-ên được nhắc tới? Tại sao?
10. Những động từ
nào được dùng trong Ha-ba-cúc 3:16 và những động từ này cho thấy gì về phản
ứng của Ha-ba-cúc?
11. Trước khi Đức
Chúa Trời phán xét người Ba-by-lôn, dân của Ngài phải chịu khổ. Loại tai họa
nào được hình dung ở câu 17? Những sự kiện nào có thể gây ra tai họa đó?
12. Tâm trạng của
Ha-ba-cúc ở đây khác với tâm trạng của ông ở chương 1 như thế nào? Tại sao? Có
sự liên hệ nào giữa 3:17-19 và 2:4 không? Ha-ba-cúc đã học được bài
học nào từ Chúa?
Phần 10: SÁCH
TIÊN TRI A-GHÊ
1. A-ghê,
Xa-cha-ri và Ma-la-chi nói tiên tri trong tình huống nào của Y-sơ-ra-ên? Riêng
A-ghê cho dân chúng thấy thái độ nào của họ? Ông nêu ra những bằng chứng nào?
2. Sách A-ghê gồm
4 sứ điệp, mỗi sứ điệp được ghi nhận niên đại chính xác (A-ghê 1:1; 2:1, 10, 20). Xin tóm tắt mỗi
sứ điệp với niên đại, thính giả (người mà sứ điệp nói với), tình huống, cũng
như kết quả của sứ điệp.
Phần 11: SÁCH TIÊN TRI XA-CHA-RI
1. Xa-cha-ri Xa-cha-ri 1:1-8:23 gồm một loạt 8
khải tượng. Những khải tượng này
có thể phân loại
như thế nào? Xin tóm tắt ý nghĩa và sứ điệp của mỗi khải tượng.
2. Các sứ điệp
trong 9:1-14:21
nhấn mạnh đến điều gì? Đấng Mết-si-a được mô tả như thế nào?
3. Trong chương
13 chủ đề về người chăn chiên được tái giới thiệu. Ở đây người chăn được mô tả
như thế nào? Câu 7 được giải thích như thế nào trong Tân Ước (Ma-thi-ơ 26:31)?
4. Chương cuối
cùng đưa ra lời xác quyết nào? So sánh câu 4 và Công vụ 1:11-12 và cho biết biến
cố nào đã và sẽ xảy ra để làm ứng nghiệm lời tiên tri?
Phần 12: SÁCH
TIÊN TRI MA-LA-CHI
1. Cho biết bối
cảnh lịch sử của sách tiên tri Ma-la-chi (Ma-la-chi 1:6-14; 2:14-16; 3:13-15). Ma-la-chi đã
tự gọi mình là gì? Nhà tiên tri nào cũng đã tự gọi mình trong cách tương tự như
vậy? Có ý nghĩa thế nào? Chủ đề căn bản của cả sách Ma-la-chi là gì? (1:2)
2. Hãy xem các
câu Kinh Thánh sau đây và liệt kê các sai phạm của Y-sơ-ra-ên:
1:7, 12 tt .......................................
2:14-16 ...........................................
2:17; 3:13-15 .................................
3:5 ..................................................
3:8-10 ............................................
1:7, 12 tt .......................................
2:14-16 ...........................................
2:17; 3:13-15 .................................
3:5 ..................................................
3:8-10 ............................................
1. Hướng đến
tương lai, Ma-la-chi nói về "Ngày của Chúa.' Ma-la-chi nói gì về “Ngày của
Chúa”? Ma-la-chi kết thúc lời tiên tri với sứ điệp nào?
Phần 13: SÁCH
TIÊN TRI GIÔ-ÊN
1. Chúng ta có
thể biết gì về niên đại, tác giả và bối cảnh lịch sử sách tiên tri Giô-ên?
2. Tiên tri
Giô-ên mô tả tình trạng nguy cấp như thế nào? Tình trạng nghiêm trọng này có phải
là “ngày của Chúa” không? Sẽ kéo dài đến thời điểm nào?
3. Trong ánh
sáng của sự đến của Ngày đó, ông đã kêu gọi các thầy tế lễ làm gì? Dân chúng làm
gì? Những hạng người nào được nói ở đây? Giô-ên đã đưa sứ điệp nào cho các thầy
tế lễ? cho toàn thể quốc gia?
4. Giô-ên 2:18 cho thấy điểm
chuyển hướng nào của sách? Xin ghi ra 5 lời hứa của Đức Chúa Trời cho dân của
Ngài (2:8-3:3)
và cho biết ý nghĩa của từng lời hứa.
5. 3:4-21 nói gì về số phận
của các lân bang? Tại sao họ phải chịu số phận như thế?
Phần 14: SÁCH
TIÊN TRI GIÔ-NA
1. Chúng ta có
thể biết gì về Giô-na? Ông nói tiên tri trong thời gian nào? Về điều gì? (II.Các Vua 14:24, 25).
2. Có người cho
rằng sách Giô-na là sách ngụ ngôn, không phải là sách lịch sử, và cho rằng nó
thực sự truyền đạt sứ điệp hy vọng cho những người lưu đày ở Ba-by-lôn - rằng
như Giô-na đã bị nuốt, nhưng đã ra khỏi và còn sống, thì cũng vậy, những người
lưu đày sẽ có ngày hồi hương. Bạn nghĩ thế nào về những điều này? Ma-thi-ơ 12:38-41 và Lu-ca 11:29-32 nói về Giô-na?
3. Đức Chúa Trời
đối phó với Giô-na như thế nào trong 2 cơ hội khi ông quay khỏi Ngài? Phản ứng
của Đức Chúa Trời đối với hành động của Giô-na như thế nào?
4. Đức Chúa Trời
đã kỷ luật đầy tớ Ngài một cách nghiêm khắc về hành động không vâng lời nghiêm
trọng, nhưng đồng thời chúng ta thấy gì về lòng thương xót của Ngài? Kết quả của
hành động của Đức Chúa Trời là gì?
5. Khi Giô-na đã
vâng lời, thực hiện hành trình dài, khó khăn đến Ni-ni-ve và giảng ở đó, đáp ứng
của dân chúng Ni-ni-ve như thế nào? Đức Chúa Trời đã có tha thứ họ không? Tại
sao Giô-na đã nổi giận với Đức Chúa Trời?
6. Đức Chúa Trời
đã rất nhẫn nại với Giô-na, hầu như lý giải cho ông hiểu. Ngài đã dùng những
phương cách nào để dạy Giô-na? Giô-na có hiểu các phương cách của Đức Chúa Trời
và quay trở lại cùng Ngài trong sự ăn năn không?
7. Đức Chúa Trời
quan tâm sâu xa về dân sự ở một thành phố lớn và gian ác và muốn đầy tớ của
Ngài chia xẻ mối quan tâm đó. Nhưng Giô-na đã không có sự quan tâm như thế. Tại
sao? Bằng cách nào Chúa điều chỉnh lại sai trật của Giô-na?
8. Đối với một số
người, bài học đáng chú ý về thái độ của Đức Chúa Trời đối với dân chúng ở
Ni-ni-ve là bài học quan trọng hơn hết của sách Giô-na. Điều này đã đem đến cho
dân Y-sơ-ra-ên thách thức nào? Vai trò của họ trong việc hoàn thành mục đích của
Đức Chúa Trời sẽ ra sao? Bạn có nhận định gì về điểm này?