Là bốn lịch sử được soi dẫn đặt ở đầu Tân Ước về sự sống và sự dạy dỗ của Ðấng Christ, Ma-thi-ơ và Mác chép mấy năm trước khi Giê-ru-sa-lem bị hủy phá (70 S.C.), Lu-ca có lẽ độ 64 S.C., và Giăng gần hết thế kỷ thứ I. Trước chót thế kỷ thứ II bốn sách Tin lành nầy đã được công nhận và dùng phổ thông. Khi so sánh bốn sách nầy thấy sách thứ tư chỉ giống ba khúc đầu ở mấy khúc, vì ngoài truyện sự Thương khó, chỉ có ba truyện chép chung với ba sách đầu: là truyện hóa bánh cho năm ngàn người ăn, truyện bão gió trên biển Ga-li-lê (Giăng 6:), và Ma-ri xức dầu thơm chơn Ngài. Ba sách Tin lành đầu, bày tỏ đời sống Chúa tại Ga-li-lê, song Giăng chép về Ngài tại Giu-đê; và phải nhờ Giăng mới biết Chúa lên Giê-ru-sa-lem dự các lễ trọng. Chỉ có một điều cắt nghĩa đầy đủ, tức là Giăng chép sau cùng lúc gần hết thế kỷ thứ I, đã đọc ba sách Tin lành đầu, và có ý thôi không chép gì đã thấy ở đó.
Trong ba sách Tin lành đầu, có nhiều chỗ hiệp nhau, và nếu ta giả định lịch sử ba sách đó chia làm nhiều phần, thì thấy 42 phần có chép và hiệp nhau trong cả ba sách; 12 phần chép chỉ bởi Ma-thi-ơ và Mác thôi, 5 phần bởi Mác với Lu-ca thôi, và 14 phần bởi Lu-ca và Ma-thi-ơ. Lại thêm mỗi người chép riêng ít phần: Ma-thi-ơ có 5, Mác 2, và Lu-ca 9. Có ba thuyết lý cắt nghĩa những sự giống nhau như thế:
(1) Ba trước giả đã dùng lẫn sách của nhau mà chép. Vậy, nhiều người thử nhứt định sách nào chép trước, sách nào chép sau. Song thuyết nầy không tin chắc chắn được.
(2) Người khác tưởng tượng có một nguyên bản chung mà cả ba tác giả nhờ đó chép sách mình, song nếu thật vậy, sao bản nguyên đó không được Hội Thánh công nhận, và vì cớ nào không có lời chứng về bản nguyên đó?
(3) Dường như không có sách Tin lành nào được chép cho đến chừng lâu năm sau khi Ðức Thánh Linh giáng xuống trong ngày Ngũ tuần. Từ ngày đó, mới khởi sự giảng Tin lành tại Giê-ru-sa-lem. Chắc phần nhiều trong các bài giảng đó là về lịch sử mà thuật lại công việc và đời sống Chúa Jêsus; và có thể tin rằng các Sứ đồ cố ý theo một thứ tự, có lẽ giống nhau về chính lời nói nữa. Bởi thế, có người tin rằng, ba sách Tin lành đầu hiệp với nhau vì cớ theo bài giảng các Sứ đồ và những sự khác nhau xảy ra chỉ vì mỗi Sứ đồ căn cứ vào điều chính mình đã thấy và nghe, và Mác với Lu-ca là theo lời chứng của Sứ đồ thuật cho. Xem riêng các bài Tin lành, theo Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca, Giăng.
Sự Tương Hiệp Bốn Sách Tin Lành Các Biến Ðộng Thời Nơi Ma-thi-ơ Mác Lu-ca Giăng
1. Các câu tiểu dẫn 1:1-4
2. Tiểu dẫn Tin lành Giăng 1:1-18
3. Gia phổ Ðấng Christ 1:1-17 3:23b-38
4. Báo trước Giăng Báp-tít
ra đời cho Xa-cha-ri T.C. 6 Ðền thờ 1:5-25
5. Báo trước Ðấng Christ
giáng thế cho Ma-ri T.C. 5 Na-xa-rét 26-38
6. Ma-ri thăm Ê-li-sa-bét " Một thành của Giu-đa 39-56
7. Giăng Báp-tít sanh ra " Na-xa-rét 57-58
8. Làm phép cắt bì và
đặt tên cho Giăng Báp-tít T.C. 5 " " 59-79
9. Báo trước Ðấng Christ
giáng sanh cho Giô-sép " Na-xa-rét 18-23
10. Chúa Jêsus giáng sanh T.C. 5 Bết-lê-hem 24,25 2:1-7
11. Báo cho bọn chăn chiên " Gần Bết-lê-hem 2:8-14
12. Bọn chăn chiên đến
thờ lạy NgàiBết-lê-hem " Bết-lê-hem 15-20
13. Chúa Jêsus chịu lễ cắt bì T.C. 4 Bết-lê-hem 21
14. Dâng Ngài tại Ðền thờ;
lời tiên tri Si-mê-ôn, An-ne " Giê-ru- sa-lem 22-38
15. Bác sĩ đến thăm " Bết-lê-hem 2:1-12
16. Trốn xuống Ai-cập " đến Ai-cập 13-15
17. Hê-rốt truyền giết các con trẻ " Bết-lê-hem 16-18
18. Từ Ai-cập về Na-xa-rét " Ai-cập đến Na-xa-rét 19-23 39
19. Chúa Jêsus ở Na-xa-rét 30 T.C. 4 Na-xa-rét 2:40-52
năm, 12 tuổi lên Giê-ru-sa S.C. 26
-lem dự lễ Vượt qua; Giăng
ẩn lánh nơi vắng vẻ 1:80
20. Chức vụ Giăng Báp-tít S.C. 26 Tại sông Giô-đanh 3:1-12 1:1-8 3:1-18 19-28
21. Giăng làm lễ báp-têm
và làm chứng cho Ngài S.C. 27 " " 13-17 9-11 21-23a 29-34
22. Sự cám dỗ Ngài " Ðồng vắng của Giu-đa 4:1-11 12,13 4:1-13
23. Giăng, Anh-rê,
Phi-e-rơ gặp Ngài " Gần sông Giô-đanh 35-42
24. Phi-líp và Na-tha-na-ên
được gọi " Trên đường đến Ga-li-lê 43-51
25. Phép lạ đầu: nước thành rượu " Ca-na thuộc Ga-li-lê 2:1-11
26. Chúa đến Ca-bê-na-um " Ca-bê- na-um 12
Chức Vụ Sớm Tại Xứ Giu-đê
27. Lễ Vượt qua thứ nhứt; đuổi Avril
bọn đổi bạc khỏi đền thờ S.C. 27 Giê-ru-sa-lem 2:13-25
28. Sự dạy Ni-cô-đem " 3:1-21.
29. Chúa giảng tại xứ Giu-đê " Giu-đê 22
30. Giăng Báp-tít lại làm
chứng về Chúa lần nữa " " " 3:23-36
31. Chúa bỏ Giu-đê lên Ga-li-lê " Giu-đê đến Ga-li-lê 4:1-3
32. Hội đàm với đờn bà Sa-ma-ri " Gần Si-kha 4-12
33. Chữa con trai quan thị vệ S.C. 27
hay 28 Ca-na 43-54
34. Giăng Báp-tít bị tù " Ðồn lũy của Machaerus14:3-5 6:17-20 3:19, 20
Chức Vụ Sớm Tại Xứ Ga-li-lê
35. Chúa khởi chức vụ
công khai tại Ga-li-lê S.C. 28 Ga-li-lê 4:12-17 1:14,15 4:14, 15
36. Lần đầu Na-xa-rét chối bỏ " Na-xa-rét 16-30
37. Kêu gọi Si-môn, Anh-rê,
Gia-cơ, và Giăng " Gần Ca- bê-na-um 18-22 16-20 5:1-11
38. Chữa kẻ quỉ ám tại nhà hội " Ca-bê-na-um 21-28 4:31-37
39. Chữa bà gia Phi-e-rơ " " " 8:14-15 29-31 38,39
40. Chữa nhiều kẻ nội chiều đó " " " 16-17 32-34 40,41
41. Hành trình tại Ga-li-lê S.C. 28 Ga-li-lê 4:23-25 35-39 42-44
42. Chữa kẻ phung " Một thành của Ga-li-lê 8:2-4 40-45 5:12-16
43. Chữa kẻ bại " Ca-bê-na-um 9:1-8 2:1-12 17-26
44. Kêu gọi Ma-thi-ơ; thết tiệc " " " 9-13 13-17 27-32
45. Lễ Vượt qua thứ nhì,
chữa kẻ bại tại Bê- tết-đa, Avril Giê-ru-sa-lem
biện luận với người Giu-đa S.C. 28 5:1-47
46. Bứt bông lúa mì,
cớ luận về ngày Sa-bát. " Trên đường đến Ga-li-lê12:1-8 23-28 6:1-5
47. Chữa kẻ teo tay ngày Sa-bát " Ca-bê-na-um 9-13 3:1-6 6-11
48. Mưu hại Chúa; dân hăng
hái; khắp xứ nhiều người tin " Gần Ca-bê-na-um 14:21 7-12 17-19
49. Lựa chọn 12 Sứ đồ " " " 10:2-4 13-19 12-16
50. Bài giảng trên núi " " " 5:1-8:1 20-49
51. Chữa đầy tớ thầy đội " Ca-bê-na-um 8:5-13 7:1-10
52. Hành trình suốt Ga-li-lê " Ga-li-lê 11:1
53. Khiến con trai
bà góa sống lại " Na-in 7:11-17
54. Giăng Báp-tít hỏi về Chúa,
lời đáp Ngài, v.v. " Ga-li-lê 11:2-19 18-35
55. Ðờn bà tội lỗi xức dầu Ngài " 36-50
56. Hành trình suốt Ga-li-lê
lần nữa với môn đồ " " " 8:1-3
57. Khởi phán bằng ví dụ
(số 63); chữa kẻ quỉ ám,
quở trách tội phạm thượng " Ca-bê-na-um 12:22-37 3:20-30 11:14-15,
Pha-ri-si 17-23
58. Pha-ri-si đòi xem dấu lạ S.C. 28 Ca-bê-na-um 38-45 16:24-36,
29-36 27,28;
59. Mẹ và anh em Chúa
muốn gặp " " " 46-50 31-35 8:19-21
60. Khốn nạn cho người
Pha-ri-si " " " 11:37-54
61. Giảng cho dân tin cậy
Ðức Chúa Trời, chớ ham
thế gian, v.v. " " " 12:1-59
62. Lời phán về người
Ga-li-lê bị giết " " " 13:1-5
63. Ví dụ: kẻ gieo, cỏ lùng,
hạt giống mọc ngầm, hột
cải, men, của báu giấu, 8:4-18
ngọc, lưới v.v. " " " 13:1-53 4:1-34 13:18-21
64. Ba kẻ hỏi Chúa " Gần biển Ga-li-lê 8:18-22 9:57-62
65. Bão gió yên lặng Ga-li-lê " Biển Ga-li-lê 23-27 35-41 8:22-25
66. Các kẻ quỉ ám ở Ga-đa-ra " Bờ Ðông biển Ga-li-lê 28-34 5:1-20 26:40
67. Môn đồ Giăng và
Pha-ri-si hỏi về sự kiêng ăn " Ca-bê-na-um 9:14-17 2:18-22 5:33-39
68. Khiến con gái Giai-ru sống
lại, chữa đờn bà mất máu " " " 18-26 5:21-43 8:41-56
69. Chữa hai người mù " " " 27-31
70. Chữa kẻ quỉ ám câm " " " 32-34
71. Lần thứ nhì Na-xa-rét bỏ " Na-xa-rét 13:54-58 6:1-6a
72. Sai 12 Sứ đồ đi " Ga-li-lê 9:35-10:1,
10:5-11:1 6b-13 9:1-6
73. Nhơn Giăng bị giết S.C. 29 Ga-li-lê 14:1-2, 14-16
6-12 21-29 7-9
74. 12 Sứ đồ về, Chúa với Sứ Bờ Ðông bắc biển
đồ vượt biển; 5000 người ăn " Ga-li-lê 13-21 30-44 10-17 6:1-14
75. Chúa bị bộ trên
mặt biển Ga-li-lê S.C. 29 Biển 22-33 45-52 15-21
76. Người Ghê-nê-xa-rết
tiếp nhận Ngài " Ghê-nê-xa-rết 34-36 53-56
77. Bài giảng về Bánh hằng Avril
sống vào lễ Vượt qua thứ ba S.C. 29 Ca-bê-na-um 22-71
78. Quở trách truyền
khẩu Pha-ri-si " " " 15:1-20 7:1-23
Chức Vụ Sau Tại Xứ Ga-li-lê
79. Chữa con gái đờn bà
Sy-rô-Phê-ni-xi S.C. 29 Miền Ty-rơ và Si-đôn 15:21-28 7:24-30
80. Chữa lành kẻ câm và
điếc, và người khác " Ðê-ca-bô-lơ 29-31 31-37 7:1
81. 4000 người ăn " " " 32-38 8:1-9
82. Pha-ri-si và Sa-đu-sê S.C. 29 Gần Ma-ga-đan,
xin dấu lạ trong các phần đất
Ða-ma-nu-tha 15:39-16:4 10-12
83. Cảnh cáo môn đồ
về men Pha-ri-si, v.v. " Biển Ga-li-lê 5-12 13-21
84. Chữa kẻ mù " Bết-sai-đa 22-26
85. Lời Phi-e-rơ xưng Chúa " Miền Sê-sa-rê Phi-líp 13-20 27-30 18-21
86. Chúa dự ngôn sự chết
và sự sống lại Ngài " " " 21-28 8:31-9:1 22-27
87. Sự hóa hình trên núi " " " 17:1-13 2-13 28-36
88. Chữa con trai bị quỉ ám " " " 14-21 14-29 37-43a
89. Chúa lại dự ngôn sự chết
và sự sống lại Ngài " Ga-li-lê 22,23 30-32 43b-45
90. Nộp thuế " Ca-bê-na-um 24-27
91. Dạy môn đồ về
sự khiêm nhường, v.v. " 18:1-35 33-50 46-50
Các Lần Cuối Cùng Ðến Giê-ru-sa-lem
92. Lần chót bỏ Ga-li-lê,
Ngài bị chối bỏ ở Sa-ma-ri S.C. 29 Từ Ga-li-lê đến Giu-đê 19:1a 10:1a 9:51-56
93. Dạy 70 môn đồ và sai đi " " " 11:20-24 10:1-16
94. Chúa dự lễ Lều tạm Oct.
S.C. 29 Giê-ru-sa-lem 7:2-52
95. Ðờn bà tà dâm bị bắt " " " [53-8:11]
96. Biện luận với người
Do-thái trong kỳ lễ " " " 8:12-59
97. Chúa dường tạm bỏ
Giê-ru-sa-lem; 70 môn đồ về " Giu-đê 25-30 17-24
98. Phán ví dụ người Sa-ma-ri
nhơn lành với thầy luật " " " 25-37
99. Chúa tại nhà Ma-thê, Ma-ri " Bê-tha-ni 38-42
100. Chúa dạy môn đồ . .
cầu nguyện " Giu-đê 11:1-13
101. Lễ khánh thành Ðền thờ; . .
chữa người mù, ví dụ kẻ . .
chăn chiên, biện luận với . .
dân Do-thái, Chúa sang bên . Déc. .
kia sông Giô-đanh S.C. 29 Giê-ru-sa-lem 9:1-10:38
102. Chức vụ tại Bê-rê S.C. 30 Bê-rê 19:1b,2 39-42
103. Ví dụ về cây vả đưng " " " 13:6-9
104. Chữa người đờn bà . .
mắc quỉ ám ngày Sa-bát " " " 10-17
105. Vừa dạy vừa đi đến Giê- . .
ru-sa-lem; cảnh cáo Hê-rốt " " " 22-35
106. Ăn ở nhà người Pha-ri-si; . .
chữa người thủy thũng; . .
ví dụ tiệc yến lớn S.C. 30 Bê-rê 14:1-24
107. Các điều yêu cầu làm . .
môn đồ . " . " " 25-35
108. Ví dụ về chiên lạc, . .
đồng bạc, con trai phá của . " . " " 15:1-32
109. Ví dụ quản gia bất trung . " . " " 16:1-13
110. Quở trách Pha-ri-si, ví dụ . .
người giàu và La-xa-rơ . " . " " 16:14-31
111. Lời khuyên môn đồ nhịn . .
nhục, tin, khiêm nhường . " . " " 17:1-10
112. Mười người phung . " Giữa Sa-ma-ri và Ga-li-lê 11-19
113. Sự Chúa đến thình lình S.C. 30 Bê-rê 20-37
114. Ví dụ bà góa khuấy rầy . " . " " 18:1-8
115. Ví dụ người Pha-ri-si . .
và kẻ thâu thuế . " . " " 9-14
116. Khiến La-xa-rơ sống lại . " Bê-tha-ni 11: 1-46
117. Mưu của Cai-phe; Chúa . .
lui đến miền vắng vẻ nữa . " Giê-ru-sa-lem Ép-ra-im 47-54
118. Về sự để vợ . " Bê-rê 19:3-12 10:2-12
119. Chúa chúc phước con trẻ . " . " " 19:13-15 10:13-16 18:15-17
120. Người trẻ tuổi giàu có, v.v . " . " " 16-30 17-31 18-30
121. Ví dụ kẻ làm công vườn nho " . " " 20:1-16
122. Dự ngôn thứ ba về sự chết . .
và sống lại Ngài S.C. 30 Bê-rê 17-19 32-34 31-34
123. Ði lên Giê-ru-sa-lem;
lời xin của Gia-cơ và Giăng S.C. 30 " " 20-28 35-45
124. Chữa hai kẻ mù gần . .
Giê-ri-cô . " Giê-ri-cô 29-34 46-52 35-43
125. Xa-chê tin Chúa . " . " " 19:1-10
126. Ví dụ những nén bạc . " . " " 11-28
127. Tới Bê-tha-ni 6 ngày . .
trước lễ Vượt qua . " Bê-tha-ni 11:55-12:1
Tuần Lễ Cuối Cùng
128. Ăn tối ở Bê-tha-ni, Ma-ri Thứ bảy
xức dầu Chúa; quan cai trị 1 Avril .
phản đối S.C.30 Bê-tha-ni 26:6-13 14:3-9 2-11
129. Vào Giê-ru-sa-lem Chúa Chúa Núi Ô-li-ve,
Núi Ô-li-ve, trọng thể, qua nhựt Giê-ru- sa-lem
đêm ở Bê-tha-ni 2 Avril và Bê-tha-ni 21:1-11 11:1-11 19:29-44 12-19
130. Rủa sả cây vả đưng, dẹp
sạch Ðền thờ; con trẻ khen Thứ hai Gần và trong 45-48;
ngợi; các phép lạ 3 Avril Giê-ru-sa-lem 12-19 12-19 21:37-38
131. Sự dạy về cây vả Thứ ba
4 Avril Trên đường đi
S.C. 30 Giê-ru-sa-lem 20-22; 20-25, [26]
132. Tòa Công luận hỏi về . .
phép tắc Ngài; lời đáp và . . 23-32;
các ví dụ hai con, kẻ làm . . 33-46; 27-33;
công ác, phép cưới con vua . " Giê-ru-sa-lem 22: 1-14 12:1-12 20:1-8 9-19
133. Pha-ri-si hỏi về nộp thuế . .
cho Sê-sa; Sa-đu-sê về sự . . 22:15-22; 12:13-17;
sống lại; thầy luật về điều . . 23-33; 18-27; 20:20-26;
răn lớn; Chúa hỏi về . . 34-40; 28-34; 27-40;
Chúa Ða-vít . " . " " 41-46; 35-37; 41-44;
134. Cảnh cáo về thầy thông . .
giáo và người Pha-ri-si S.C. 30 Giê-ru-sa-lem 23:1-39 38-40 45-47
135. Tiền phần tư xu . .
của bà góa . " . " " 41-44 21:1-4
136. Người Hy-lạp xin ra mắt . .
Ngài, sự dạy dỗ cuối cùng . " . " " 12:20-50
137. Chúa dự ngôn Giê-ru-sa .Chiều . .
-lem sụp đổ, tương lai Hội .thứ ba .
Thánh, sự Chúa tái lâm 4 Avril Núi Ô-li-ve 24:1-31 13:1-27 21:5-28
138. Khuyên tỉnh thức; ví dụ . .
mười nữ đồng trinh và ta . .
lâng, sự phán xét cuối cùng . " . " " 32:- 25:46 28-37 29-36
139. Âm mưu kẻ cai trị; Chiều thứ
Giu-đa phản Chúa ba 4 Avril
hay thứ tư, 26:1-5, 14:1,2,
5 Avril Giê-ru-sa-lem 14-16 10,11 22:1-6
140. Sửa soạn lễ Vượt qua Thứ năm, Bê-tha-ni và
6 Avril Giê-ru-sa-lem 17-19 12-16 7-13
141. Lễ Vượt qua cuối cùng; Chiều thứ Phòng cao tại .
môn đồ cãi lẫy năm, 6 Avril Giê-ru-sa-lem 26:20 1-17 14-18; 24-30
142. Chúa rửa chơn môn đồ . " . " " 13:1-20
143. Kẻ phản Chúa tỏ ra và lui . " . " " 21-25 18-21 21-23 21-35
144. Bữa ăn tối của Chúa . " . " " 26-29 22-25 19,20
145. Dự ngôn Phi-e-rơ sa ngã, . .
những cảnh cáo khác . " . " " 31-38 36-38
146. Các bài giảng chót cho . .
môn đồ và lời cầu nguyện . " . " " 14:1-17:26
147. Lại dự ngôn Phi-e-rơ sa . . Trên đường
ngã và môn đồ tản lạc . " tới Ghết-sê-ma-nê 30-35 26-31
148. Sự đau thương trong vườn . " Ghết-sê-ma-nê 36-46 32-42 39-46 18:1
149. Chúa bị bắt, Ðêm thứ
môn đồ tan lạc năm 6-7
Avril . " " 47-56 43-52 47-53 2-12
150. Chúa bị tra xét Dinh thầy tế lễ thượng
lần đầu trước An-ne . " phẩm ở Giê-ru-sa-lem 13,1419-24
151. Sự tra xét trước Tòa
Công Luận; nhạo báng Ngài " . " " 57, 59-68 53, 55-65 63-65
152. Phi-e-rơ chối Chúa . " . " " 58, 69-75 54,66-72 54-62 15-18 25-27
153. Chúa cuối cùng bị lên án Sáng sớm
bởi Tòa Công luận thứ sáu 7
Avril . " " 27-11 5:1a 66-71
154. Dẫn Chúa đến Phi-lát, Dinh quan tổng đốc
và người tìm cách tha Ngài . " tại Giê-ru-sa-lem 2,11-14 1b-5 23:1-5 28-38
155. Chúa trước Hê-rốt Thứ sáu,
7 Avril Giê-ru-sa-lem 6-12
156. Phi-lát lại tìm thế tha Ngài,
dân Do-thái xin tha Ba-ra-ba " Dinh quan tổng đốc 15-26a 6-15a 13-25 39,40
157. Phi-lát giao lại Chúa để
bị giết; Ngài bị đánh roi . " . " " 26b-30 15b-19 19:1-3
158. Phi-lát lần nữa
tìm cách tha Chúa . " . " " 4-16a
159. Giu-đa hối hận và tự tử . " Giê-ru-sa-lem 3-10
160. Chúa bị dẫn đến Thứ sáu,
nơi đóng đinh 7 Avril Gần Giê-ru-sa-lem 31-34 20-23 26-33a 16b, 17
161. Sự đóng đinh Chúa . " . " " 35-38 24-28 33b, 34, 38 18-24
162. Những biến động 22:35-
nơi thập tự . " . " " 27:39-49 15:29-36 39-45a 19:25-29
163. Sự chết của Chúa Thứ sáu,
3 giờ chiều,
7 Avril . " " 50 37 46 30
164. Các biến động Thứ sáu Giê-ru-sa- lem
sau sự chết Ngài 7 Avril và vùng lân cận 51-56 38-41 45b; 47-49
165. Ðem xác Ngài xuống
thập tự; đem chôn . " Gần Giê- ru-sa-lem 57-61 42-47 50-56 31-42
166. Lính canh nơi mồ mả . " . " " 62-66
Sự Sống Lại
167. Ðờn bà đến thăm mộ Chúa Giê-ru-sa-lem
nhựt, và vùng lân cận 28:1-10 16:1-8 24:1-11
9 Avril
168. Giăng và Phi-e-rơ thăm
mộ; Ma-ri Ma-đơ-len trở
lại mộ, Chúa hiện ra với bà . " . " " [16:9-11] 12 20:1-18
169. Lời trình của lính canh mộ . " . " " 11-15
170. Hội đàm với môn đồ
ở làng Em-ma-út . " . " " [12,13] 13-35
171. Chúa hiện ra với 11 Sứ
đồ, Thô-ma vắng mặt Chúa
nhựt,
9 Avril Giê-ru-sa-lem [16-14] 24:36-49 20:19-24
172. Khỏi một tuần, Chúa 16 Avril
lại hiện ra và Thô-ma có mặt 25-29
173. Chúa hiện ra với 7 môn
đồ, Phi-e-rơ được phục hưng S.C. 30 Biển Ga-li-lê 21:1-23
174. Lịnh truyền lớn phải . " .
rao giảng (xem I Cô-rinh-tô 15:6) Núi ở Ga-li-lê 28:16-20 [15-18]
175. Chúa lên trời (xem 18 Mai Núi Ô-li-ve
Công-vụ các Sứ-đồ 1:1-11) S.C. 30 về hướng Bê-tha-ni [19-20] 50-53
176. Những lời kết thúc của Giăng 20:30,31;
21:24,25
Tiến sĩ Scofield viết tiểu dẫn về bốn sách Tin lành:
Bốn sách Tin lành chép sự hằng hữu, tổ tông, sự giáng sanh, chết, sống lại và lên trời của Ðức Chúa Jêsus Christ, Con Ðức Chúa Trời và Con người. Bốn sách cũng chép một số biến động lựa từ trong đời Ngài, lời và công việc Ngài. Xét chung với nhau, bốn sách bày tỏ không phải một tiểu sử, song một Ngôi vị.
Hai thực sự nầy, tức là ta thấy trong bốn sách Tin lành một Ngôi vị hoàn toàn song không phải một tiểu sử hoàn toàn, tỏ ra tinh thần và ý định ta cần có lúc đến gần xem xét. Ðiều quan hệ là nhờ những truyện đó ta nên đến xem cho biết Ðấng bày tỏ ở đó. Không quan hệ mấy, nếu ta có thể lấy những lời chép tự xưng không đầy đủ (Giăng 21:25) mà chắp nối thành một sự tích liên tiếp về đời sống Ngài thì càng hay. Vì mấy lý cớ đầy đủ -- có lẽ e rằng ta lo nhiều quá về "Ðấng Christ theo xác thịt" -- nên Ðức Chúa Trời không đẹp lòng khiến chép một tiểu sử về Con Ngài. Trải 29 năm để thành nhơn lặng lẽ trôi qua, chỉ một lần bị đứt quãng bởi 12 câu ngắn ngủi của Tin lành Lu-ca. Rất nên kính trọng những sự bỏ sót của Ðức Chúa Trời.
Bốn sách Tin lành, dầu cố ý không chép hoàn thành một sự tích, sông thật hoàn toàn là một sự khải thị. Ta không thể nhờ bốn sách mà biết hết mọi việc Ngài làm, song có thể biết Ðấng làm. Trong bốn sách đặc tánh lớn, mỗi sách làm trọn ba sách khác, ta thấy chính Chúa Jêsus Christ. Các tác giả sách Tin lành chẳng bao giờ tả vẽ Ðấng Christ, -- họ phô bày Ngài ra. Họ không thuật cho ta điều họ suy tưởng về Ngài, song họ để Ngài phán và hành động cho chính Ngài.
Ấy là phương diện cần yếu khiến cho những truyện nầy khác hẳn với một tiểu sử hoặc chơn nhung thường. "những lời ta phán cùng các ngươi đều là thần linh và sự sống" (Giăng 6:63). Học giả nào có Thánh Linh không bị buồn ngự trong lòng, nấy thấy ở đây Ðấng Christ hằng sống.
Phần đặc biệt mà mỗi tác giả Tin lành dùng để trình bày Ðấng Christ hằng sống được ghi chép sách vắn tắt trong những Tiểu dẫn riêng, song tưởng cũng ích lợi và thêm những lời gợi ý chung kia.
I. Cựu Ước là một Tiểu dẫn sắm sẵn cho Tân Ước, ai đến kê cứu bốn sách Tin lành với một tâm trí chưa đầy ỳ kiến báo trước của Cựu Ước về Ðấng Christ, Ngôi vị, công việc, nước Ngài, thì sẽ thấy các sách mở ra.
Ấy vì các sách Tin lành thêu dệt bằng lời trích, lời cổ điển, và hình bóng Cựu Ước. Chính câu đầu của Tân Ước cũng đem độc giả hay suy tưởng trở ngược về Cựu Ước; và Ðấng Christ phục sanh truyền các môn đồ Ngài nhờ lời sấm truyền xưa để được giải nghĩa về những sự thương khó và vinh hiển của Ngài (Lu-ca 24:27,44,45). Một trong các chức vụ cuối cùng Ngài là mở trí hiểu môn đồ cho hiểu Cựu Ước.
Bởi vậy, trong lúc đến gần kê cứu bốn sách Tin lành, trí phải được thoát khỏi, càng nhiều càng hay, những điều chỉ là thành kiến và giả định trước của thần học. Nhứt là cần phải bài trừ quan niệm, -- là di sản trong Hội Thánh Cải chánh từ thần đạo sau đời các Sứ đồ, và từ giáo hội La-mã -- rằng Hội Thánh là Y-sơ-ra-ên thật, và Cựu Ước báo trước về nước được ứng nghiệm trong Hội Thánh.
Cho nên, chớ nhận những lời giải nghĩa quen là thật. Chớ nhận rằng "ngôi Ða-vít" (Lu-ca 1:32) là đồng nghĩa với "ngôi Cha ta" (Khải Huyền 3:21), hoặc "nhà Gia-cốp" (Lu-ca 1:33), là Hội Thánh gồm có người Do-thái và dân ngoại.
II. Chức vụ Chúa Jêsus, trước tiên, là cho người Do-thái (Ma-thi-ơ 10:5,6; 15:23-25; Giăng 1:11). Ngài "sanh ra dưới luật pháp" (Ga-la-ti 4:4), và "làm chức vụ mình nơi người chịu cắt bì, đặng tỏ bày sự thành tín của Ðức Chúa Trời, và làm quả quyết lời hứa cùng tổ phụ chúng ta" (Rô-ma 15:8), và làm trọn luật pháp hầu cho ơn điển có thể tràn ra.
Vậy nên, phải biết là có vẻ luật pháp và đặc sắc người Do-thái tỏ ra cách mạnh mẽ cho đến nơi thập tự (như Ma-thi-ơ 5:17- 19; 6:12; so Ê-phê-sô 4:32; Ma-thi-ơ 10:5,6; 15:22-28; Mác 1:44; Ma-thi-ơ 23:2, v.v.). Bài giảng trên Núi là luật pháp, không phải ơn điển, vì đòi tánh cách hoàn toàn mà ơn điển, bởi quyền Ðức Chúa Trời tạo nên (Ga-la-ti 5:22,23), làm điều kiện để được phước (Ma-thi-ơ 5:3-9).
III. Những lẽ đạo của ơn điển phải tìm trong các thơ tín, chớ không phải trong bốn sách Tin lành; song những lẽ đạo nầy trở ngược lại cứ căn cứ vào sự chết và sự sống lại của Ðấng Christ, và vào mầm của lẽ thật lớn mà Ngài phán và các thơ tín đều bày tỏ ra. Sau nữa, gương trọn vẹn duy nhứt của ơn điển trọn vẹn là Ðấng Christ trong bốn sách Tin lành.
IV. Các sách Tin lành không bày tỏ lẽ đạo về Hội Thánh. Danh từ đó chỉ chép trong Ma-thi-ơ thôi. Sau khi người Do-thái chối bỏ Ngài như là Vua và Cứu Chúa mình, Chúa ta, báo trước một lẽ mầu nhiệm ho đến bấy giờ "giấu kín trong Ðức Chúa Trời" (Ê-phê-sô 3:3-10), phán rằng: "Ta sẽ lập Hội Thánh ta" (Ma-thi-ơ 16:16,18). Bởi vậy, Hội Thánh còn ở tương lai; song chức vụ riêng Ngài đã nhóm họp các tín đồ, trong ngày Ngũ tuần, bởi lễ báp-têm bằng Ðức Thánh Linh, được lập làm các nhân viên thứ nhứt của "Hội Thánh tức thân thể Ngài" (I Cô-rinh-tô 12:12,13; Ê-phê-sô 1:23).
Các sách Tin lành trình bày một nhóm tín đồ Do-thái hội hiệp trên đất với Ðấng Mê-si trong sự hạ mình; còn các thơ tín trình bày một Hội Thánh là thân thể của Ðấng Christ trong sự vinh hiển, hiện với Ngài tại các nơi trên trời, đồng kế tự của Ngài với Cha, và đồng trị với Ngài trong nước hầu đến, vả, đối với thế gian chỉ là bộ hành và khác lạ (I Cô-rinh-tô 12:12; Ê-phê-sô 1:13,14; 1:14, 20-23; 2:4-6; I Phi-e-rơ 2:11).
V. Bốn sách Tin lành bày tỏ ba chức vụ của Ðấng Christ như Tiên tri, Thầy tế lễ, và Vua.
Như Tiên tri, chức vụ của Ngài không khác với các tiên tri đời Cựu Ước. Chính nhân phẩm của ngôi vị Ngài khiến Ngài làm Tiên tri duy nhứt. Ðời xưa, Ðức Chúa Trời đã dùng các Ðấng tiên tri phán dạy; nay "Ngài phán dạy bởi Con Ngài" (Hê-bơ-rơ 1:1,2). Tiên tri xưa là một tiếng từ Ðức Chúa Trời; nay là Con tức chính Ðức Chúa Trời (Phục truyền luật lệ ký 18:18,19).
Bất luận trong thời đại nào, tiên tri cũng làm sứ giả của Ðức Chúa Trời cho dân Ngài, trước nhứt để lập lẽ thật khi họ suy đồi và bội đạo. Bởi vậy, sứ mạng tiên tri thường là để quở trách và khuyên dạy. Chỉ khi dân sự giả điếc không nghe những lời đó, tiên tri bấy giờ mới thành người báo trước những việc hầu đến. Trong sự đó, Ðấng Christ cũng là một với các tiên tri khác. Chức vụ dự ngôn Ngài theo sau lúc Ngài bị chối bỏ như là Vua.
Phạm vi và tánh cách chức vụ Vua của Ðấng Christ được chỉ định trong giao ước với Ða-vít (II Sa-mu-ên 7:8-16), như các tiên tri giải nghĩa và chứng quyết bởi Tân Ước. Tân Ước không hề hủy bỏ hoặc thay đổi giao ước với Ða-vít, hoặc sự giải nghĩa lời tiên tri giao ước đó, song thêm các tiểu tiết không có trong sự hiện thấy của tiên tri. Bài giảng trên núi là một sự bày tỏ về ý "sự công bình" như đặc tánh tỏ rõ hơn hết của nước Ðấng Mê-si (Ê-sai 11:2-5; Giê-rê-mi 23:5,6; 33:14-16). Tiên tri Cựu Ước phải lấy làm khó hiểu vù thấy trong một phía chơn trời, nói cho đúng, sự đau thương và sự vinh hiển của Ðấng Mê-si (I Phi-e-rơ 1:10,11). Tân Ước tỏ rằng hai điều đó được phân rẽ bởi thời kỳ Hội Thánh hiện nay, và chỉ trước về sự tái lâm Chúa là lúc giao ước với Ða-vít về phước lành bởi quyền phép sẽ được ứng nghiệm (Lu-ca 1:30-33; Công vụ các sứ đồ 2:29-36; 15:14-17); đúng như giao ước với Áp-ra-ham về phước lành bởi sự đau thương đã được ứng nghiệm khi Ngài giáng thế lần thứ nhứt (Công vụ các sứ đồ 3:25; Ga-la-ti 3:6-14).
Ðấng Christ không bao giờ được gọi là Vua của Hội Thánh. Thật ra, "Vua" là một trong các danh hiệu của Ðức Chúa Trời, và Hội Thánh trong sự thờ phượng hiệp với Y-sơ-ra-ên tôn vinh "Vua muôn đời, không hề hư nát, không thấy được" (Thi Thiên 10:16; I Ti-mô-thê 1:17). Song Hội Thánh sẽ được cai trị với Ngài. Ðức Thánh Linh nay gọi ra, không phải những kẻ phục thuận, song những kẻ đồng kế tự, và đồng trị trong nước (II Ti-mô-thê 2:11,12; Khải Huyền 1:6; 3:21; 5:10; Rô-ma 8:15-18; I Cô-rinh-tô 6:2,3).
Chức vụ Thầy tế lễ của Ðấng Christ là phần bổ túc chức vụ tiên tri Ngài. Tiên tri là đại biểu của Ðức Chúa Trời với dân sự; thầy tế lễ là đại biểu của dân sự với Ðức Chúa Trời. Vì họ đều là tội nhơn nên Ngài phải là người dâng tế lễ; và vì họ cần đến nên Ngài phải làm Ðấng cầu thay đầy lòng cảm thương (Hê-bơ-rơ 5:1,2; 8:1-3). Vậy, Ðấng Christ trên thập tự, đã vào làm việc Thầy tế lễ thượng phẩm, dâng mình không tì vít cho Ðức Chúa Trời (Hê-bơ-rơ 9:14), như nay Ngài cảm thương dân Ngài mà "hằng sống cầu thay" cho họ (Hê-bơ-rơ 7:25). Về mẫu cầu thay đó, thấy trong Giăng 17:.
VI. Trong các sách Tin lành, hãy phân biệt sự giải nghĩa với sự ứng dụng đạo đức. Nhiều chỗ trong các sách Tin lành, theo sự giải nghĩa đúng, thuộc về người Do-thái hoặc nước, dầu vậy, cũng là sự khải thị về tâm tình Ðức Chúa Trời, và căn cứ trên các nguyên lý vĩnh viễn, đến nỗi dùng về đạo đức cho dân Ðức Chúa Trời, bất cứ ở trong thời đại nào. Bao giờ, vẫn thật là kẻ có "lòng trong sạch" cũng vui vẻ vì "thấy Ðức Chúa Trời," và "khốn nạn" cho những kẻ chí có vỏ tôn giáo hoặc dưới luật pháp hoặc dưới ơn điển.
VII. Có chú trọng đặc biệt trên điều mà cả bốn sách Tin lành hiệp lại làm chứng. Lời chứng hiệp một đó có bảy phương diện:
1. Hết thảy như nhau bày tỏ một Ngôi vị duy nhứt. Chỉ một Chúa Jêsus làm Vua trong Ma-thi-ơ, Ðầy tớ trong Mác, người trong Lu-ca, và Ðức Chúa Trời trong Giăng. Song không những thế thôi, vì Vua của Ma-thi-ơ cũng là Ðầy tớ, Người và Ðức Chúa Trời; và Ðầy tớ của Mác cũng là Vua, Người và Ðức Chúa Trời; Người của Lu-ca cũng là Vua, Ðầy tớ và Ðức Chúa Trời; và Con Vĩnh sanh của Giăng cũng là Vua, Ðầy tớ và Người.
Ngòi bút là khác nhau, những biến động bởi đó thấy Chúa có khi là khác nhau; tánh cách riêng biệt mà bốn sách mô tả Ngài cũng khác nhau; song Ngài bao giờ vẫn là Ðấng Christ đó. Chỉ thực sự đó tỏ ra những sách nầy được soi dẫn.
2. Hết thảy trước giả bốn sách Tin lành đều chép chức vụ Giăng Báp Tít.
3. Hết thảy đều chép sự bẻ bánh nuôi năm ngàn người.
4. Hết thảy đều chép Ðấng Christ dâng mình làm Vua, tùy theo sách Mi-chê.
5. Hết thảy đều chép sự phản bội của Giu-đa, sự chối Chúa của Phi-e-rơ; Chúa bị xử án, đóng đinh, sống lại, và lên trời. Và truyện tích đó kể ra để làm chứng về sự chết của Ðấng Christ là công việc tối cao để dẫn Ngài vào thế gian; mọi sự dẫn Ngài vào thế gian; mọi sự xảy ra trước chỉ là sửa soạn cho sự chết đó, và bởi đó lan tràn mọi phước hạnh mà Ðức Chúa Trời hằng có và hằng ban cho người.
6. Hết thảy đều chép chức vụ Ðấng Christ phục sanh; một chức vụ bày tỏ Ngài như không thay đổi bởi biến động rất lớn của sự đau thương, song là một chức vụ có tánh cách mới là phổ thông và quyền phép.
7. Hết thảy chỉ trước về sự tái lâm Ngài.