Khi không an táng (mai táng) một xáùc
chết thì phải tội khinh bỉ người ấy. Từ thuở xa xưa, cả trong thời thượng cổ
loài người kính trọng kẻ chết nên làm lễ an táng họ.
Ông Áp-ra-ham phải mua một hang đá và một đám ruộng để an táng bà Xa-ra (SaSt 23:4). Cách chôn có khác nhau giữa các dân tộc. Xưa người I-xơ-ra-ên đục mộ ở một vầng đá và đặt kẻ quá cố trong mộ hay hang ấy và dùng một phiến đá chận cửa hang lại. Thánh Kinh cả Cựu và Tân Ước có ghi lại cách an táng của người I-xơ-ra-ên (SaSt 50:13, IVua 1V 13:31, GiGa 19:41). Cũng có khi họ cũng đa huyệt để chôn dưới đất giống như cách phần đông các dân tộc khác vậy (SaSt 35:8,19).
Trong Thánh Kinh cũng có ghi một vài trường hợp người hỏa thiêu hài cốt hoặc xác chết ISa1Sm 31:12, AmAm 6:10). Người phạm luật pháp Chúa, có tội, sau khi bị ném đá chết rồi cũng bị thiêu đi (Gios Gs 7:25).
Người xưa cũng muốn tất cả người thân yêu trong gia đình được chôn trong hang hay một nghĩa địa (SaSt 49:29, IISa 2Sm 19:37, IISu 2Sb 21:20).
Không ai muốn để các thây, xác chết mãi ngoài trời, nhưng họ lo an táng hoặc chôn cất (PhuDnl 21:13, IISa 2Sm 21:12-14, IIVua 2V 9:10).
Các Cơ-đốc nhân trong các thế kỷ đầu tiên gọi nghĩa trang là “nhà ngủ nghỉ” vì chêùt là ngủ, nghỉ khỏi sự lao khổ, bắt bớ chém giết của đời độc ác nầy.
Lễ an táng lúc ban đầu của Cơ-đốc nhân cử hành đơn giản thôi (GiGa 11:17,39, Cong Cv 5:6,10, Dan Ds 19:11 -14).
Người tắm hoặc lau, rửa xác người chết (Cong Cv 9:37) sau đó người ta xức dầu (IISu 2Sb 16:14, Mat Mt 26:12) kế họ quấn hay liệm bằng một tấm vải, hàng (GiGa 19:39,40) sau đó đưa đến huyệt, mồ, hang đá. Có thân nhân theo sau và cũng có những người than khóc thật lâm ly (LuLc 7:12, Cong Cv 8:2).
Ý nghĩa bóng của sự chết, sự an táng hay chôn cũng được Chúa và các sứ đồ thánh dùng để giảng dạy (Xin xem GiGa 12:24, ICo1Cr 15:35-38, 15:42-49, RoRm 6:4-6)
Ông Áp-ra-ham phải mua một hang đá và một đám ruộng để an táng bà Xa-ra (SaSt 23:4). Cách chôn có khác nhau giữa các dân tộc. Xưa người I-xơ-ra-ên đục mộ ở một vầng đá và đặt kẻ quá cố trong mộ hay hang ấy và dùng một phiến đá chận cửa hang lại. Thánh Kinh cả Cựu và Tân Ước có ghi lại cách an táng của người I-xơ-ra-ên (SaSt 50:13, IVua 1V 13:31, GiGa 19:41). Cũng có khi họ cũng đa huyệt để chôn dưới đất giống như cách phần đông các dân tộc khác vậy (SaSt 35:8,19).
Trong Thánh Kinh cũng có ghi một vài trường hợp người hỏa thiêu hài cốt hoặc xác chết ISa1Sm 31:12, AmAm 6:10). Người phạm luật pháp Chúa, có tội, sau khi bị ném đá chết rồi cũng bị thiêu đi (Gios Gs 7:25).
Người xưa cũng muốn tất cả người thân yêu trong gia đình được chôn trong hang hay một nghĩa địa (SaSt 49:29, IISa 2Sm 19:37, IISu 2Sb 21:20).
Không ai muốn để các thây, xác chết mãi ngoài trời, nhưng họ lo an táng hoặc chôn cất (PhuDnl 21:13, IISa 2Sm 21:12-14, IIVua 2V 9:10).
Các Cơ-đốc nhân trong các thế kỷ đầu tiên gọi nghĩa trang là “nhà ngủ nghỉ” vì chêùt là ngủ, nghỉ khỏi sự lao khổ, bắt bớ chém giết của đời độc ác nầy.
Lễ an táng lúc ban đầu của Cơ-đốc nhân cử hành đơn giản thôi (GiGa 11:17,39, Cong Cv 5:6,10, Dan Ds 19:11 -14).
Người tắm hoặc lau, rửa xác người chết (Cong Cv 9:37) sau đó người ta xức dầu (IISu 2Sb 16:14, Mat Mt 26:12) kế họ quấn hay liệm bằng một tấm vải, hàng (GiGa 19:39,40) sau đó đưa đến huyệt, mồ, hang đá. Có thân nhân theo sau và cũng có những người than khóc thật lâm ly (LuLc 7:12, Cong Cv 8:2).
Ý nghĩa bóng của sự chết, sự an táng hay chôn cũng được Chúa và các sứ đồ thánh dùng để giảng dạy (Xin xem GiGa 12:24, ICo1Cr 15:35-38, 15:42-49, RoRm 6:4-6)