CAN ĐẢM (Sự)



Theo sách “Sự khôn ngoan của Sa-lô-môn” thì can đảm là một trong bốn đức hạnh (xem sách nầy trong bộ Thứ kinh)…
Trong Tân ước từ “Tharsos” can đảm được dùng một lần ở
Cong Cv 28:15. Tuy nhiên có nhiều câu ám chỉ nhờ đức tin hoặc nương cậy Chúa mà được can đảm như: Thi Tv 56:3, Mat Mt 8:26, ICo1Cr 16:9. Cứu Chúa Giê - xu Krit cũng đã dùng động từ Tharsèo thể mệnh lệnh “Hãy can đảm lên” để khuyến khích môn đệ Ngài, như Tharsei, Tharseite. Ở Mat Mt 9:2, 14:27, GiGa 16:33.
Thánh Kinh Cựu ước có đề cập từ can đảm khá nhiều như:
PhuDnl 31:7, Gios Gs 1:14, 2:11, IISa 2Sm 10:2, Dan Ds 11:25, ISa1Sm 17:32, IIVua 2V 5:1.
Can đảm khác với sự hèn nhát, sợ hãi, Can đảm là đức tánh phát xuất từ tâm thần mạnh bạo, hùng mạnh.
Đức tánh can đảm cũng có ý nghĩa liên hệ với luân lý đạo đức. Những kẻ yêu mến Chúa, yêu người và biết tin cậy nơi sự phò trợ giữ gìn của Chúa được can đảm (
EsIs 41:13-14, Gie Gr 1:8, Exe Ed 2:6).
Gương can đảm từ Thánh Kinh cũng khá nhiều. Lịch sử Giáo hội từ thế kỷ thứ I đến nay cũng ghi lại nhiều nam nữ thánh đồ can đảm tử đạo làm rạng danh Chúa. 

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.