CHIÊN (CỪU)

Chiên (cừu là loại súc vật loài người chăn nuôi để lấy lông làm len, ăn thịt v.v…
Hy bá lai ngữ cừu: Làtson, và Hy văn: Probaton. Hai từ quan chính để chỉ về cừu (chiên). Trong Cựu ước và Tân ước gọi các con cái Chúa là chiên, là cừu của Chúa (
Thi Tv 79:13, 95:7, 100:3, Mat Mt 10:16, 26:31, GiGa 10:2,7,27). Chúa Giê-xu Krit là Người chăn dắt của chúng ta.(Thi Tv 23:1, Exe Ed 34:23, GiGa 10:10,14, HeDt 13:20, IPhi 1Pr 5:4, KhKh 7:14). Tại sao Thánh Kinh gọi là Cơ-đốc nhân, con cái Ngài là chiên (cừu)? Vì cừu có bản tánh hiền lành, hay vâng lời, biết nghe theo người chăn v.v… Đây là những đặc điểm trong chơn tánh của người tin Chúa, tức Cơ-đốc nhân thật sự.
(1) Họ nghe theo: Chiên nghe theo tiếng người chăn. Cơ-đốc nhân nghe tiếng Chúa Giê-xu Krit qua Thánh Linh, qua Thánh Kinh (
GiGa 10: 3,27).
(2) Biết được: Chiên biết hoặc quen biết, nhận biết người hay chăn dắt mình. Cơ-đốc nhân nhận biết, quen biết Giê-xu Krit là Đấng chăn dắt mình. nếu không thì không phải là chiên của Ngài rồi (
GiGa 10:4,14).
(3) Hay vâng phục: Chiên biết vâng lời người chăn của chúng. Người chăn đi trước và chiên theo sau (
GiGa 10:4,27, KhKh 7:14). Cơ-đốc nhân thật sự là chiên của Chúa thì biết vâng theo Chúa, và bước đi theo Ngài. Chúa Giê-xu Krit là người chăn dắt tốt như Ngài đã nhiều lần tự xưng mình là Người chăn dắt Bầy Ngài. “Chỉ có một Bầy và một Người chăn thôi”.
Người chăn dắt tốt có những đặc điểm sau đây:
(1) Hi sinh: Muốn ban Những ơn phước cho chiên mình, người chăn dắt phải hi sinh. Trước hết phải hi sinh sức lực, thì giờ v.v… và cả mạng sống mình vì chiên. Đa-vít không sợ nguy hiểm khi xông vào sư tử để cứu chiên mình. Người chăn chiên ở
LuLc 15:1 đến hết không tiếc thì giờ, sức lực, hi sinh cả mạng sống mình, không sợ nguy nan đi tìm cho ra chiên mình bị lạc mất (GiGa 10:11, 15:17, XaDr 13:7).
(2) Sự cứu rỗi, cứu vớt: cứu nguy chiên, cứu vớt, giải cứu chiên là hành động tốt đẹp nhứt của người chăn chiên. Khi chiên lâm nguy người chăn xông vào cứu và không bỏ bầy chạy trốn. Người chăn bảo vệ và cứu chiên mới là người chăn thật. Chỉ có những kẻ chăn thuê mới bỏ chạy trốn để tự cứu lấy mình thôi. Chúa Giê-xu Krit không tự cứu mình chạy trốn, bèn chịu xưng mình ra, “chịu chết để cứu dân sự Ngài”, chiên của Ngài (
GiGa 10:9).
(3) Ban cho chiên sự thỏa mãn: Người chăn tốt dẫn dắt bầy Ngài mình đến đồng cỏ xanh tươi, mé nước bình tịnh, nằm nghỉ ngơi dưới bóng mát. Chúa Giê-xu Krit, người chăn chiên tốt hằng ban cho con cái sự thỏa mãn tâm linh, cả thuộc linh và thuộc thể. Chúa hằng chăm sóc họ, ban cho họ đầy đủ mọi sự đầy đủ sự cần dùng và phước hạnh (
Thi Tv 23:1, Exe Ed 34:23, GiGa 10:9) trong đời nầy và trong cõi đời đời nữa (KhKh 7:17).
(4) Phân rẽ chiên khỏi dê: Là phận sự tối quan trọng của người chăn dắt chiên. Trong ví dụ Chúa nói ở
Mat Mt 25:32 rất rõ ràng: Phân rẽ chiên khỏi dê. Người chăn tốt không thể cũng không nỡ nào để chiên mình chung sống lẫn lộn với dê được. Phải hướng dẫn hay săn sóc, hay phân rẽ chiên mình ra khỏi dê. Đừng vì chút lợi tạm nhỏ mọn mà nhượng bộ, cứ nhắm mắt để chiên mình chạy theo dê. Hãy dùng Lời Chúa giảng dạy mà phân rẽ chiên khỏi dê, cây gậy, cây trượng của Chúa dùng để đếm cừu và sửa dạy chiên đi lạc, chiên cứng cổ cứng đầu đi theo dê, người chăn chiên Chúa xin Chúa cho phép dùng cây gậy và cây trượng thuộc linh Ngài để giải cứu, để sửa trị và phân rẽ chiên mình khỏi dê.
(5) Lo cho chiên mình được an ninh, an toàn: Chúa nói: Ngài ban sự sống, sự sống dư dật, sự sống đời đời cho chiên của Ngài.(
GiGa 10:28). Ngài không làm mất một con nào, “trừ ra đứa con của sự hư mất thôi”. Người chăn bầy tốt của Chúa ngày nay cũng vậy. Hãy giữ chiên mình an toàn tránh khỏi tà giáo, tà thuyết e họ bị chết mất đời đời. Thánh Phi-e-rơ đã nói: “Ma quỷ như sư tử rống đi rình mò quanh Cơ-đốc nhân”. Vậy người chăn dắt Bầy Chúa phải giữ Bầy khỏi cạm bẫy và nanh vuốt của Sa-tan 

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.