GỚM GHÊ, GỚM GHIẾC, GHÊ TỞM



(Mat Mt 24:15): Sự gớm ghê tức điều gì chúng ta ghê tởm. Cựu ước dùng từ “Tôebâ” (Hy-bá-lai) còn Tân ước dùng từ Bdelygma và Việt ngữ đã dịch ra gớm ghê, sự gớm ghiếc hay sự ghê tởm. Thánh Kinh dùng từ nầy miêu tả một số hành động hoặc thói tục của dân ngoại bang rất kinh tởm trước sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Những hành động, những thói tục xấu xa, độc ác do người gian ác, hiểm độc thi thố, không đẹp lòng Ngài là sự ghê tởm, sự gớm ghê vậy. Đức Chúa Trời Gia-vê thánh khiết, công bình nên Ngài ghê tởm những việc gớm giếc của người vô đạo đức làm ra như: dùng cân lường giả, những lời vu cáo, chụp mũ, tố cáo gian, ức hiếp, tội lỗi xấu xa khác; dâng của lễ bằng người đưa con cái qua lửa. Chúa Gia-vê cũng gớm ghê cách ăn nằm luyến ái không theo cách tự nhiên, và các thói tục thờ lạy ma quỷ theo thói dâm ô v.v…
Trong Cựu ước đã dùng đến từ “pigguâl” và “sêeqes” để diễn tả các nghi thức Đức Chúa Trời ghê tởm ấy. Trong Thánh Kinh có ghi những câu nói lên ý nghĩa nầy. Xin trích ra vài câu để tiện kê cứu:
Cựu ước:“pigguâl”; vật gớm ghê bất khiết (
LeLv 7:18).
“sêeqes”; (sheqets); sự gớm ghê, sự đáng ghét (Lê :10,11,12,13,20, 23 v.v..)
“tôebâ”:hoặc tôebah”: sự gớm ghê, gớm ghét như:
SaSt 43:32, 46:34, Thi Tv 88:8, ChCn 3:32, EsIs 1:13, 44:19, Gie Gr 2:7, Exe Ed 5:9, Mat Mt 2:11).
Tân ước: Bdelygma:
Mac Mc 13:14, LuLc 16:15, KhKh 17:4,5, 21:27

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.